Latest Post

Hắn tên Tuấn, Trần Đức Tuấn, bạn bè thường gọi hắn là Tuấn lé. Bởi con mắt hắn lé xệ. Người ra lé kim có duyên, hơi le lé cũng duyên ngầm, đằng này hắn lé kiểu bồ câu con bay con đậu. Bởi con mắt thế cho nên mỗi lần nói chuyện với ai, hắn không nhìn thẳng vào người đối diện được, nói chuyện với thằng này mà mắt thì ngó thằng kia. Mỗi lần như thế, sẽ có thằng la lên: Ê! Mi nói chuyện với thằng kia sao ngó tau hoài rứa mi.. He..he. Tội nghiệp, hắn thường là đầu đề để bạn bè chọc ghẹo mỗi lần gặp nhau, từ hồi trẻ cho đến bây gìờ bạc tóc. Nhưng hắn lại vui, hắn bảo: Bạn bè thương mình, nhớ tới mình mới chọc ghẹo mình. Và mỗi lúc như thế hắn cố làm cho con mắt hắn xệ hơn, méo miệng chọc cười thiên hạ.
Hắn là dân Bắc di cư. Mẹ hắn người dân tộc, lấy bố hắn theo phong tục tảo hôn, nên bố hắn thua mẹ hắn cả chục tuổi. Nhà hắn cả đống chị em gái, có mình hắn và một đứa em trai nhưng bị bệnh down, mất sớm. Bố hắn cũng mất sớm nên hắn trở thành chỉ huy trưởng của gia đình có một đám đàn bà.
Tụi tui gặp nhau năm học đệ ngũ vào những năm giữa thập niên sáu mươi của thế kỷ trước, tính cho đến giờ đã hơn nửa thế kỷ trôi qua. Thế nhưng mỗi lần gặp nhau, vẫn trẻ con như thời đi học. Hồi đấy, tụi tui nghịch ngợm vô cùng. Học trường Kỹ thuật mà lại học ban chuyên nghiệp cơ khí ô tô, nửa tuần học văn hoá, nửa tuần học thực hành và lý thuyết ở xưởng. Xưởng cơ khí nằm cuối cùng của dãy xưởng, gần sát với hàng rào nhà dân 13 căn bên cạnh. Cuối giờ là thay bộ áo quần học xưởng lấm lem dầu mỡ, vào phòng tắm rồi mới mặc đồng phục đi về. Hắn là thằng đầu têu, cởi truồng trong phòng tắm, đu cửa sổ nhìn ra ngoài trêu mọi người. Hắn cũng là thằng có giọng hát hay, tình cảm. Thời đi học hắn với Lang và Quý lập ra ban tam ca, hát trong dịp hội hè của học sinh. Sau này, lớn tuổi, hắn khoái đến quán hát với nhau. Mỗi lần lên sân khấu luôn kèm trên tay điếu thuốc lá, vừa hút vừa hát như ca sĩ trình diễn. Hắn khoái nhậu, uống không nhiều nhưng đặc biệt là rất ít khi gắp mồi, đi nhậu chén của hắn lúc nào cũng sạch boong. Hắn uống là đà năm bảy chai, xong lại kẻu thêm mấy chai nhưng bia đem ra lại tuyên bố không uống nữa, lúc đó là hắn đã say. Mà hắn say thì thường bá cổ bạn bè, hôn một vài cái và bảo: thương mi lắm, quý mi lắm, nể mi lắm. Hôm sau hắn quên mất hắn đã nói gì.
Cuối thập niên sáu mươi, cả khoá tụi tui bị một tay giáo sư vì tư thù với ban giám hiệu, đổi ra Huế dạy nhưng lại vào làm giám khảo để tụi này thi vào Công nghệ Phú Thọ, tìm cách đánh rớt cả khoá. Tên nào còn tuổi hoãn dịch thì chuyển qua ban Toán, tên nào đến tuổi thì đi lính, thằng nào học nhảy, học băng thì vào Sài Gòn tiếp tục con đường học vấn. Hắn đi lính, đi chuyên viên không quân, thì cũng chỉ mang lon đơ dem cùi bắp thôi, nhưng được học sinh ngữ và khỏi ra mặt trận. Nhờ vậy mà hắn có vốn tiếng Anh kha khá, sau này khi mất Sài Gòn, rã ngũ, hắn đi dạy kèm tiếng Anh sống qua ngày.
Sau 1975, có một thời tôi bị khủng hoảng tâm lý nặng nề đưa đến trầm cảm, hắn cứ sợ tôi tự tử. Lúc đó vợ chồng hắn bán thuốc lá sợi ở Cư xá Đô thành, hắn cứ theo dõi tôi miết đến độ bực mình. Hắn là thằng có nhiều tính quái, cũng hơi khác người, nhưng tốt tính. Bạn bè, hội đoàn có cần chi, kêu hắn, hắn chẳng nề hà. Cho nên nhiều khi bực hắn lắm mà vẫn thương hắn.
Cách đây 20 năm, hắn bị bệnh nặng, tưởng đã chết rồi. Vào bệnh viện thăm hắn, thấy hắn hấp hối, chắc không qua nổi. Hắn bị siêu vi C tàn phá. Lúc đó bạn bè tưởng hắn sẽ chết, nên phân công, phân việc hậu sự cho hắn. Nhưng rồi hắn lại sống lại bình thường, vẫn hàng tuần đi nhậu. Lúc đó, bạn bè ghẹo hắn: chắc tại cái mặt mi xấu quá nên quỷ dưới địa phủ không nhận đuổi mi lên phải không? Hắn cười, gục gặc đầu: chắc vậy he..he. Tuy xấu người nhưng hắn lại rất đắt đào, thế mới tài. Nhờ hắn khéo nói, cái giọng Bắc Kỳ di cư mà chịu ngọt ngào thì đàn bà dễ ngã lắm. Đàn bà yêu bằng tai mà. Hắn lại khéo chiều chuộng phụ nữ. Bởi vậy đến đâu hắn cũng có tình.
Tuần trước, mẹ vợ hắn mất, bạn bè đến viếng thấy hắn mặt vàng như nghệ, mắt cũng kéo màn đục. Ai cũng khuyên hắn đi khám. Hắn bảo không khám, có bệnh cũng chẳng chữa, khỏi đau đớn thân xác. Sáng nay nghe tin hắn hấp hối, bệnh viện cho về nhà, bác sĩ chê. Chiều nay lúc 18:30, nghe tin hắn mất. Nhanh quá. Vi rút siêu vi C đã làm hư gan hắn, ăn qua đến thận. Bác sĩ bảo là sức tàn phá cuối cùng của siêu vi C. Thôi thì hắn đi như thế cũng nhẹ nhàng, không làm khổ vợ con, chẳng đày đoạ thán xác, chỉ chịu đau đớn có mấy hôm. Nguyện vọng vủa hắn là đem thiêu và rải tro xuống sông. Cũng xong một kiếp người.
Tuấn lé ơi! Lúc sinh thời, có lần mi bảo muốn tau viết điếu văn cho mi lúc mi chết. Cuộc đời mi nghĩ cho cùng cũng chẳng sóng gió chi, mi cũng chẳng là vương là tướng gì. Cho nên điếu văn cho mi là bài viết này đây, một bài điếu văn thật là kỳ cục phải không? Nhưng tau nghĩ là mi cũng thuận tình.
Cuộc đời vốn vô thường, rồi ai cũng phải đi đến cuối con đường của mình, ai mà tránh được. Chỉ là đi trước hay sau thôi. Mi mất trước, tụi tau còn thắp được cho mi cây nhang, tiễn mi một đoạn đường, như thế cũng là niềm an ủi. Từ nay, trong mỗi lần gặp mặt sẽ không còn ai đem mi ra chọc ghẹo, rồi có người sẽ rót thêm một ly, để trống một chỗ ngồi để nhớ đến mi, như mi đã từng làm trước đó cho những thằng bạn đã ra đi. Tụi tau, những thằng còn ở lại sẽ nhắc nhiều đến mi, sẽ nhớ nhiều đến mi, thằng bạn kỳ khôi ạ.
Bạn bè không khóc tiễn mi về cõi vĩnh hằng, nhưng bạn bè vô cùng thương tiếc.
Vĩnh biệt mi, Tuấn lé
Hãy đi đến nơi an lành
Hãy sớm siêu thoát.



- Đỗ Duy Ngọc cười: "Không có mình, cuộc đời vẫn vui, chỉ thiếu mình thôi. Nhưng cuộc đời vui như thế sao lại bỏ đi được".
Trích ngang lý lịch Đỗ Duy Ngọc: sinh 1950, tuổi Dần, cung Nhân Mã. Thử tiếp cận với tay họa sĩ từ ký hiệu chiêm tinh hình đầu người mình ngựa đang giương cung mà anh ta đang mang này. Nói chuyện họa sĩ Đỗ Duy Ngọc chơi đồng hồ cổ với hàng trăm chiếc trong bộ sưu tập, thì chính anh cũng đã ngán.
Nhân Mã rong chơi
"Cuộc đời vui như thế, bỏ đi sao được"
Đàn ông cung Nhân Mã như ngựa hoang, khó nắm bắt, theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Đỗ Duy Ngọc nheo mắt: "Thật ra thì tôi thấy mình cũng là người... dễ hiểu. Chỉ có vẻ ngoài là tỉnh rụi, phớt đời, giấu được tình cảm một chút thôi".
Nhưng cá tính bộc trực thì anh thừa nhận mình hay nói, phê phán thẳng. "Tôi không nể người có lắm kiến thức, thời đại này thông tin có đầy trên mạng, quan trọng là sử dụng kiến thức như thế nào. Tôi nể người biết cư xử. Đi ngoài đường, chỉ một động tác vặn tay ga là xe vọt lên dốc nhưng nhiều người đi xe máy vẫn không nhường người đạp xích lô, người gánh nặng, những người mà để vượt dốc họ phải gắng hết sức. Tôi ghét cả những người không quen biết như thế".
Cá tính thẳng thắn khó chịu nhưng Đỗ Duy Ngọc không thiếu bạn, nếu không nói là rất nhiều, bạn đủ thành phần, nghề nghiệp. Ngồi quán cà phê, thấy anh nói chuyện tiếu lâm với một nhóm đủ cả già trẻ lẫn sồn sồn. Bữa khác, lại thấy anh rút chiếc USB chứa mấy món bửu bối ra cài chương trình máy tính cho những người trẻ hơn rất nhiều nhưng lại không sành kỹ thuật bằng anh. Đến nhà anh, ngoài la liệt đồng hồ cổ treo từ phòng khách đến phòng ngủ, đặt dưới sàn đến ngoài cầu thang, mà còn... la liệt bạn đến chơi.
Một người bạn trong nhóm sáng tác ảnh của anh đến chơi nhà, "phát hiện": "Bi kịch nhất là ngồi trong ngôi nhà có hàng trăm cái đồng hồ, nhưng không biết chính xác bây giờ là mấy giờ". Có hề chi, chủ nhân luôn chào đón chiến hữu đến để đàm đạo, tán phét, thì giờ giấc không còn quan trọng.
"Ngay từ thời đi học, tôi đã tỏ ra có năng lực tập hợp anh em, người ta hay nghe tôi, tôi thuyết phục được mọi người. Tôi nghĩ người lãnh đạo phải biết hy sinh, đi vào rừng phải đi trước, vượt thác phải vượt trước thì anh em mới tin, phục được".
Nhưng chính vì tính cực đoan nên dù học nhiều (Đại học Mỹ thuật Huế, Văn Khoa, Vạn Hạnh Sài Gòn, Đại học Sư phạm TP.HCM, tu nghiệp mỹ thuật tại Pháp), đọc nhiều, Đỗ Duy Ngọc thừa nhận mình là kẻ không bước được trên con đường thăng quan tiến chức.
Lại trở về với "con nhân mã" trong người Đỗ Duy Ngọc. "Nó" là một "con" đa tình. Anh đi nhiều, yêu nhiều. Sinh ra ở Quảng Bình, lần lượt lang bạt vào Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, làm nhiều nghề để tự nuôi mình, sau đó nuôi vợ con, nên dù thừa nhận đa tình, anh biết mình phải dừng ở lằn ranh "gia đình hạnh phúc".
"Thấy cái đẹp không thể không rung động, thấy nhan sắc không thể không muốn yêu. Nhưng vì thương gia đình, lại là thần tượng trong mắt con, lỡ mà sụp đổ thì hỏng, nên không thể đi quá giới hạn. Tôi là người có trách nhiệm, không muốn gắn mình với người đẹp để thêm... trách nhiệm, những mối tình tưởng tượng chỉ là chất xúc tác để làm thơ, vẽ tranh".
"Nhân Mã" Đỗ Duy Ngọc
Từng giành một giải thưởng thơ năm 14 tuổi nên Đỗ Duy Ngọc khi ấy cứ ngông cuồng cho rằng mình là vĩ nhân. Dứt áo rời gia đình khá giả đi xa mà nghĩ rằng tài văn thơ của mình dư sức nuôi sống mình nơi đất lạ. Đói trắng mắt. "Tôi từng bị đói nhiều ngày ở Sài Gòn, đói đến mức nghĩ đến chuyện ăn cắp, thấy chiếc xe đạp muốn dắt trộm đi bán, nhưng kìm lại được".
Anh tỉnh cơn cuồng vĩ nhân nhờ hai mẹ con người qua đường. Đứa bé đòi ăn bánh, mẹ nó mua cho bánh chuối nhưng nó lại vùng vằng làm rớt, anh lượm bánh chui vào hốc tối ngồi ăn.
Chuyện xảy ra đã hàng chục năm nhưng kể lại, anh vẫn ứa nước mắt: "Miếng bánh như mảnh chai đâm vào cổ họng mình. Tôi nghĩ mình phải thay đổi". Anh làm đủ nghề để sống sót. Được nhạc sĩ Phạm Duy giới thiệu chỗ làm gia sư nhưng thầy giáo trẻ bỏ ngang vì người ta bắt làm cả việc nhà cho đứa học trò.
Sau giải phóng, anh đi dạy học (học trò của anh có nữ diễn viên Kim Khánh, tay guitar Nguyễn Đạt, ca sĩ Yu Sô...), nhà trường đề nghị đăng ký tiết học tốt, anh nói tiết nào của mình cũng tốt, nếu báo trước 5 phút; ban giám hiệu đề nghị cắt mái tóc dài, anh không cắt, thế rồi năm 1991 thầy giáo ngang tàng bỏ nghề...
Nhân Mã vội vã
Sau đận chạm bờ sinh tử, vào bệnh viện để bác sĩ cắt phăng một đoạn trực tràng vì có khối u chưa biết lành hay ác, Đỗ Duy Ngọc ngẫm ngợi nhiều điều. Buổi sáng lên bàn mổ, trời còn nhờ nhờ, tiếng lách cách mở cửa phòng, hành lang hun hút, nhìn vào mắt những người bệnh ung thư không có mấy sự lạc quan, anh nghĩ ánh mắt của con người có lẽ buồn nhất là lúc này, trước ranh giới sinh tử mỏng manh như sợi tóc.
"Cuộc sống cũng cần gia vị, chắc chỉ có thể giảm hút thuốc thôi"
Cao to, khỏe, chưa từng "bắt" được con bệnh nào trong người ngoài chứng cao huyết áp, nhưng chẳng ngờ một ngày Đỗ Duy Ngọc lại vào bệnh viện Ung Bướu nơi anh thường xuyên làm từ thiện, giờ với tư thế của một bệnh nhân.
Anh làm từ thiện một mình, lặng lẽ với suy nghĩ rằng mình còn có ích cho đời. "Người già, ít ra họ cũng đã được hưởng thụ cuộc sống dù vui hay buồn, vinh hay nhục, còn trẻ em, có em sinh ra còn chưa có tên, chưa hưởng được một ngày vui, không được đi học, đá bóng mà phải mang trong mình căn bệnh ung thư".
Đồng bệnh, anh càng thấm thía nỗi đau của những người mà anh từng giúp đỡ, cảm phục sự nhẫn nại của những y bác sĩ đang chăm sóc những bệnh nhân dễ cáu giận. Mười ngày ở đây, người quen mặt ở bệnh viện vẫn nghĩ anh vào... tặng quà cho trẻ em như mọi khi.
Lẽ thường tình sau cơn bạo bệnh, nhiều người bỗng thấy cuộc đời nhẹ tênh. Những tranh giành, bon chen, danh lợi, vinh hoa phú quý, áo mũ cân đai đều là những món trang điểm, phù du. Đỗ Duy Ngọc cười: "Không có mình, cuộc đời vẫn vui, chỉ thiếu mình thôi. Nhưng cuộc đời vui như thế sao lại bỏ đi được". Anh cũng không thể bỏ thuốc. Bỏ được một thời gian, hút lại, bệnh, dự định bỏ. "Nhưng chết vì hút thuốc thì còn lâu, trong khi cái u này mà ác thì có mấy tháng. Cuộc đời cũng cần gia vị, chắc chỉ có thể giảm hút thôi".
Đã có lần ném cọ ngưng vẽ tranh dù đây là nguồn thu nhập quan trọng của cả gia đình, thôi làm thơ, buông máy ảnh vì những cái gọi là "nhiễu nhương" trong nghề, nhưng rồi anh cũng không bỏ được cái nào. Lại đèo bòng thêm thú sưu tập đồng hồ. Còn chứng cao huyết áp thì ảnh hưởng từ công việc chính của anh hiện nay là làm quảng cáo, vẽ bìa sách, phải thường xuyên thức khuya để trao đổi với đối tác. Bấy lâu vẫn làm việc nhưng cứ tuần tự nhi tiến, còn giờ thì anh đã phải chọn lựa và tranh thủ làm được điều mong muốn vì cuộc đời bỗng thấy đã ngắn hẳn.
Từng bị móc túi mất toi một tháng lương thời khốn khó đến đờ người không nhớ đường về nhà, song có những mất mát khác còn đắt hơn ngay cả đối với một Đỗ Duy Ngọc khá giả hôm nay. Đó là tình bạn, cụ thể là vài người bạn. Một người sống nhiệt thành với bạn bè, vì hiểu lầm, vì quan điểm mà mất bạn thì đáng để buồn. Có người bạn từng chia nhau những ổ bánh mì từ thiện với anh, sau mấy mươi năm gặp lại, bạn đã có chức tước vai vế trong xã hội, vẫn tay bắt mặt mừng nhưng chối bỏ thời khốn khổ. Tình bạn có thể không mất nhưng làm anh buồn.
Ông bố Đỗ Duy Ngọc đã làm tròn trách nhiệm của mình đối với những đứa con, trong đó có người con nổi tiếng là diễn viên Huy Khánh, nhưng với cha mình, Đỗ Duy Ngọc vẫn chưa làm được điều ông cụ muốn. Sau hàng chục năm dài dằng dặc xa quê kể từ ngày anh dứt áo ra đi từ thời trai trẻ, cha anh muốn anh một lần về quê trong tư thế áo gấm về làng, nhưng anh mới chỉ... đi ngang quê. Người cha mất khi đứa con chưa làm được điều mình mong muốn, anh nặng lòng thấy mình bất hiếu với cha, bất nghĩa với quê nhà. Anh rút ra "kết luận": muốn làm gì thì phải làm ngay, không nên chần chừ, kể cả chuyện... trả thù, nếu chưa kịp học cách tha thứ.
Đàn ông cung Nhân Mã là người thương con, đìều đó đã đúng với Đỗ Duy Ngọc. Nhưng có nhân mã nào biết học cách tha thứ cho người khác, mà không biết người khác có tha thứ cho mình không, như Nhân Mã Đỗ Duy Ngọc?
21/12/2008 (GMT+7)
Võ Tiến (VIETNAMNET)

Có vị quan nhỏ trong triều, chỉ chuyên lo việc chuẩn bị giấy, mực cho vua viết chiếu chỉ. Chức không lớn nhưng được cái thường kề cận vua, nên các quan lớn, quan bé cũng có phần vị nể. Ông quan này có nuôi một con vẹt rất khôn, nói được tiếng người. Ông để cái cành nuôi vẹt trước sân nhà. Các quan thường sau khi chầu vua đều đi ngang qua đường này. Con vẹt khi thấy quan nào đi ngang qua thường thầm thì: Ổng biết hết rồi nha. Nếu quan nào có hỏi: Ông nào. Vẹt thường trả lời: Ông chủ đó. Rồi đưa mắt vào trong nhà quan. Ông quan nào của triều đại đấy cũng có tham nhũng, hối lộ, bóp cổ dân lành. Do vậy, khi nghe vậy thì sợ hãi liền đem tiền bạc, châu báu, ngọc ngà đến biếu tặng cho ông quan nhỏ này lấy lòng, sợ ông ta dèm pha với vua thì hết đất sống. Con vẹt này rất lanh, đã nói với ông nào thì nửa năm sau mới nói lại. Cứ lần lượt hết quan trong triều đều bị vẹt chơi trò thế. Nhờ vẹt mà quan nhỏ này giàu nứt đố đổ vách, tài sản không thua kém gì các quan lớn, nhiều khi có thể giàu hơn nữa là khác. Ông ta cứ thế mà ung dung hưởng lộc.
Nhà vua lúc này bị mắc căn bệnh lạ sau khi tuyển một cô tỳ thiếp đến từ miền núi. Sau nhiều lần giao hoan với cô tỳ thiếp này, dương vật nhà vua mọc rất nhiều mụn nhọt, chảy máu mủ hôi tanh. Vua chưa dám thổ lộ với ai kể cả quan ngự y, cắn răng chịu đau đớn một mình. Một hôm vua chuẩn bị vi hành, đi ngang qua con vẹt, nghe nó nói lảm nhảm, vua đến gần nghe nó nói gì. Con vẹt kề tai vua: Ổng biết hết rồi nha. Vua giật mình hỏi lại: Ông nào? Như mọi khi, vẹt bảo: Ông chủ đó. Rồi đưa mắt vào trong nhà quan.
Vua nghĩ bệnh bí mật chẳng ai biết sao thằng này biết, con vẹt biết. Tức thời vua ra lệnh bắt trói ngay tên quan nhỏ cùng với con vẹt, rồi ra lệnh chém đầu. Tên quan chết mà không biết mình mắc tội gì. Con vẹt cũng bị cắt cổ. Trước khi bị lìa đầu khỏi cổ, giữa đám đông người, nó vẫn lải nhải: Ổng biết hết rồi nha! Ổng biết hết rồi nha! Kiếm sắc lia nhanh, đầu vẹt bay khỏi cổ, máu phun có vòi.
Từ chuyện này, người ra có lời khuyên không nên biết nhiều, biết nhiều dễ chết. Nhất là lộ cái biết tào lao trên facebook. Hê...hê
DODUYNGOC

Hồi mới vô Sài Gòn, tôi thuê căn nhà nhỏ trên kênh Nhiêu Lộc. Đầu hẻm ở mặt tiền đường có một tiệm tạp hoá của một gia đình người Hoa. Có người gọi là tiệm chạp phô. Chắc là gọi theo tiếng Quảng.
Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, lúc nào cũng mặc chiếc áo thun ba lỗ với cái quần chỉ ngắn đến đầu gối. Chú đi chiếc xe Honda Dame màu đỏ, loại bán cho quân nhân hồi xe Honda mới nhập vào miền Nam. Có hai lí do mà đám sinh viên chúng tôi để ý đến tiệm tạp hoá này. Thứ nhất tiệm này cần mua gì cũng có, bán giá rẻ hơn nơi khác, dù chỉ vài đồng, nhưng sinh viên nghèo mà, rẻ hơn đồng nào đỡ đồng đó. Tiệm lại luôn mở cửa để bán hàng cho khách. Nhiều lần đi chơi đêm về khuya lắc lơ, muốn mua mấy gói mì hay chai bia con cọp, đập cửa rầm rầm, chú vẫn vui vẻ mở cửa bán hàng. Thứ hai là chú có cô con gái khá dễ thương. Tóc bím hai bên, da trắng hồng, lại hay mặc áo cắt theo kiểu người Hoa, nhìn ngộ lắm. Cô bé chắc nhỏ hơn tụi tôi vài tuổi. Thằng nào đi đâu về trước khi vào hẻm cũng liếc vào xem cô bé có ở tiệm không, dù chưa đứa nào tán được cô bé một câu. Chú tên A Tỷ, cô bé tên Tiểu Thanh. Biết tên cô bé là do công của tôi. Một lần vào tiệm mua đồ, chú A Tỷ lấy hàng, cô bé ngồi học bài ở gần kệ thu tiền, tôi thấy trên nhãn vở đề tên Tiểu Thanh bằng tiếng Hoa. Tôi là dân học Việt Hán, hai chữ này cũng dễ đọc nên tôi đọc được ngay. Tôi hỏi: Em tên Tiểu Thanh à? Cô bé ngước lên nhìn tôi, đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên, cười rồi lại cúi xuống không trả lời. Chú A Tỷ đưa hàng, tôi không có lý do gi nán lại đành đi về. Về nhà, tôi nổ với mấy đứa cùng phòng là đã nói chuyện được với cô bé, biết được tên cô bé, mấy đứa phục tôi lắm.
Chú A Tỷ cũng được mọi người chung quanh và cả những người ở trong xóm sâu thương yêu vì chú lúc nào cũng nhẹ nhàng, mua bán đàng hoàng, biết gia đình nào khó khăn có khi chú không lấy tiền, lại cho thêm vài món. Nhờ thế, chú buôn bán phát đạt, hàng hoá càng ngày càng phong phú. Tết đến, chú mang tặng những gia đình nghèo trong xóm bờ kênh nước đen gói quà có mứt, bánh và lạp xưởng. Họ biết ơn chú lắm nên mua gì cũng ra tiệm của chú. Ăn Tết xong chú sửa nhà, xây thêm hai tầng, cửa tiệm bây giờ không còn là tiệm tạp hoá nho nhỏ nữa mà là một cửa hàng rộng rãi với hàng hoá chất đầy. Đàng sau chú làm cái kho, chứa gạo, đường , sữa... đầy nhóc. Mà quên, chưa nói đến vợ chú. Đó là người đàn bà Hoa có khuôn mặt phúc hậu, ít nói nhưng hay cười. Cũng là người tốt như chú. Chiều chiều, ngồi bán hàng thấy mấy đứa nhỏ đi học về, bà hay kêu vào lúc cho cái bánh, khi cho cái kẹo nên mấy đứa nhỏ thương bà lắm. Lúc nào gặp bà cũng vòng tay chào rất lễ phép.
Từ hôm biết tên cô bé là Tiểu Thanh, tôi lại càng siêng ghé tiệm của chú mua đồ, có khi mấy đứa bạn cần mua gì tôi lại xung phong đi mua giúp. Nhưng cũng hiếm khi gặp cô bé, nhất là khi nhà có thêm tầng lầu, chắc là cô bé ngồi học trên đó. Mà hoạ hoằn có gặp, tôi cười chào thì cô bé cũng chỉ nhoẻn cái miệng rất xinh cười lại thôi, chứ chẳng nói được gì. Nhưng rồi tôi cũng gặp may một lần. Hôm đó trên đường từ Đại học Văn Khoa về, xe bus thả tôi xuống đầu đường Trương Minh Giảng. Vừa xuống xe thì gặp Tiểu Thanh đang loay hoay với chiếc xe đạp tuột xích. Trưa nắng gắt, cô bé sửa hoài mà không gắn được sợi xích vào ổ líp, mặt đầy mồ hôi, má ửng hồng vì nóng. Thế là tôi ra tay hiệp sĩ, sửa xe cho nàng rồi luôn tiện xin đi ké chở nàng về luôn. Từ đó, tôi thường gặp cô bé hơn qua những cuộc hẹn. Thì cũng chỉ đi loanh quanh bằng chiếc xe đạp của Tiểu Thanh, bởi lúc đấy tôi chẳng có xe xiếc gì, đi đâu cũng cuốc bộ hay đi xa hơn thì có xe bus vàng. Đi ngồi quán thì cũng chỉ là những quán chè, quán nước bên đường hay mấy quán gỏi đu đủ, bột chiên. Có lẽ cô bé cũng biết tôi là sinh viên nghèo nên em chẳng bao giờ có ý kiến chi. Nói chuyện với nhau thì cũng là chuyện nắng mưa, chuyện học hành, luẩn quẩn lần nào cũng từng đấy chuyện. Tôi cũng hay hỏi em về những chữ Hán, những bài thơ Đường dù lúc đấy em mới học lớp mười một theo chương trình của Đài Loan. Tình thì cũng đã bén rồi, nhưng cả hai chẳng ai đề cập đến. Đến cái nắm tay, cái vuốt ve cũng chưa có dù cả hai đã có mấy lần vào Rex xem phim. Thế nhưng mấy đứa trong phòng thường được nghe tôi kể xạo như trong tiểu thuyết Quỳnh Giao, lãng mạn lắm, tình cảm lắm, thằng nào cũng phục lăn, lè lưỡi thèm thuồng.
Cuối năm đấy, tôi có được một học bổng của Trung tâm Học liệu Bộ Giáo Dục đi du học ở Pháp. Mừng vì được đi nước ngoài học nhưng cũng buồn vì xa Tiểu Thanh dù tình cảm cũng đang lửng lơ nửa vời. Tôi và Tiểu Thanh ngồi với nhau ở kem Bạch Đằng, đây là lần đầu tiên tôi xài sang thế. Và cũng lần đầu tôi cầm tay Tiểu Thanh để thông báo cho nàng tôi sắp đi học xa. Tiểu Thanh vẫn để yên bàn tay của em trong bàn tay tôi và em khóc. Tôi hỏi: Em chờ anh được không? Em bảo: Em chờ, bao lâu em cũng chờ. Ba em đang chuẩn bị cho em sang Đài Loan học Đại học, nhưng chắc em không đi. Em không muốn sống xa Ba Má, không nỡ để Ba Má ở một mình. Em ở lại Việt Nam chờ anh về.
Và thế là tôi đi. Hành trang tôi mang theo chẳng có gì chỉ là chiếc va li nhỏ. Tiểu Thanh gởi tôi món quà là chiếc khăn tay có thêu tên tôi và tên nàng và một lá bùa nhỏ gói trong chiếc khăn màu đỏ rực. Nàng bảo đó là lá bùa hộ mệnh giúp tôi luôn được mạnh khoẻ và sẽ thành công. Mấy năm ở Pháp, tuần nào tôi cũng gởi thư về cho nàng, và tuần nào tôi cũng nhận được thư của Tiểu Thanh. Tôi cũng thường gởi quà cho em, sinh viên nghèo, học bổng chẳng là bao chỉ đủ chi tiêu tằn tiện nên quà cũng chỉ là những món đồ kỷ niệm ít tiền, nhưng Tiểu Thanh rất vui. Nàng cũng báo tin là Ba Má nàng đã chấp nhận không qua Đài Loan học nữa. Và Tiểu Thanh trông ngóng tôi về.
Giáng sinh năm 1974, tôi về nước. Tiểu Thanh bây giờ là một cô gái hăm mốt tuổi, xinh hơn nhiều trong ý nghĩ của tôi. Chú A Tỷ vẫn vậy, vẫn cái áo thun ba lỗ và chiếc quần ngắn ngang đầu gối và vẫn cỡi chiếc xe Honda Dame màu đỏ. Tôi và Tiểu Thanh bàn cách để nói chuyện với chú A Tỷ xin cưới Tiểu Thanh làm vợ. Bởi phong tục người Hoa không muốn con gái lấy trai Việt, nên đó là cản trở lớn nhất của chúng tôi. Chưa có dịp để nói chuyện thì chiến sự càng ngày càng gay cấn. Và rồi 30.4.75, bộ đội miền Bắc chiếm được Sài Gòn. Chú A Tỷ vẫn bình thản vì chú bảo mình làm ăn lương thiện, chế độ nào cũng cần phải ăn để sống, chú cũng chẳng tham gia chính quyền cũ, chú sống tốt với mọi người, chú không có kẻ thù, chú không có gì phải ngại chính quyền chế độ mới. Nhưng rồi tai hoạ ập xuống gia đình chú. Vợ chú bị đau ruột thừa, vào bệnh viện, tình hình đang lộn xộn, bác sĩ cũ lớp thì di tản, lớp thì còn đang e ngại, lớp thì đi học tập chưa về, đa số là các bác sĩ và y tá trong rừng ra và ngoài Bắc vào. Chẳng biết họ chữa làm sao mà thím A Tỷ bị vỡ phúc mạc, chết trên bàn mổ. Tiểu Thanh khóc sưng cả mắt, chú A Tỷ thì như người mất hồn cứ đi ra đi vào và hỏi sao lại thế, sao lại thế? Lúc đấy xã hội lộn xộn lắm, ai cũng thu mình lại, dấu mình đi vì sợ. Bang hội của chú cũng đến giúp tang ma. Tôi cùng bạn bè và bà con trong xóm cũng lặng lẽ đến để đám tang được trọn vẹn. Chú A Tỷ ngơ ngẩn cả tháng trời, Tiểu Thanh cũng buồn bỏ cả ăn uống, người gầy rạc đi. Thế là chúng tôi chưa có dịp để nói chuyện cưới xin, mà phải đợi ít năm nữa sau khi mãn tang mới bàn tính được
Nhưng tai hoạ không chỉ dừng lại đó, mấy tháng sau gần ngày tết Trung thu năm bảy lăm, lúc đó khoảng bảy giờ tối, Tiểu Thanh hốt hoảng đạp xe đến báo cho tôi hay là bộ đội vào nhà, đang kiểm kê và niêm phong hàng hoá, kết tôi chú A Tỷ là tư sản bóc lột, làm giàu trên xương máu nhân dân. Tôi chở nàng chạy về thì thấy bộ đội súng ống kè kè đi với một đám tay đeo băng đỏ cũng rần rộ súng ống đang lùng sục trong cửa hàng, mặt ai cũng đằng đằng sát khí. Chú A Tỷ thì vẫn áo ba lỗ và quần ngắn thường ngày, ngồi gục đầu như tượng, họ bảo ký vào đâu thì ký vào đó, không nói một lời. Tiểu Thanh thì run rẩy đứng tựa vào người tôi, đôi mắt mở to, uất hận đầy nước mắt nhưng cũng chẳng nói gì. Đến nửa đêm thì họ đọc quyết định tịch thu hàng hoá và căn nhà, ra lệnh gia định chuẩn bị để đi vùng kinh tế mới. Lúc đó chú A Tỷ ngã ra bất tỉnh, Tiểu Thanh cũng gục trên vai tôi, mặt xanh như xác chết. Cả một đời gầy dựng, cả một đời làm ăn lương thiện chỉ một lời quyết định, người ta đã lấy hết, tịch thu hết lại còn kết án là kẻ bóc lột, đuổi đi vùng kinh tế mới. Chú A Tỷ vừa lai tỉnh, chú nhìn quanh, hét lên một tiếng lớn, đẩy căm hờn như tiếng thú trong cơn tuyệt vọng cùng đường rồi lại ngã ra sàn bất tỉnh lần nữa. Tiểu Thanh cũng thét lên tiếng thét ai oán: Ba ơi! rồi gục trên thân thể lạnh giá của cha. Tình trạng thảm thương đó chẳng làm động lòng đám người thi hành lệnh, họ vẫn mặt lạnh như tiền, súng gờm gờm trên tay như sẵn sàng nhả đạn những ai có hành động phản kháng. Hàng hóa ngổn ngang, không khí như nén lại. Tôi bất lực chẳng biết phải làm gì ngoài việc cứ xức dầu cho chú A Tỷ.
Sáng hôm sau, đoàn xe đến chở người đi vùng kinh tế mới. Tiếng loa oang oang như nhói vào tai, bộ đội, du kích súng ống kè kè đưa từng hộ gia đình lên xe. Những người bị đưa đi ngơ ngác nhìn, đau khổ nhìn, uất ức nhìn nhà cửa, tài sản của mình đóng dấu niêm phong với dấu đỏ loè loẹt như những vết máu. Tôi ngồi theo xe cùng chú A Tỷ và Tiểu Thanh, đồ đạc chỉ được phép lầy mang theo là mấy cái nồi niêu, xong chảo và mùng mền chiếu gối. Tài sản bao nhiêu năm giờ chỉ là một đống đồ chẳng giá trị gì. Chú A Tỷ vẫn im lặng gục đầu. Tiểu Thanh vẫn đầy nước mắt, ngơ ngác không biết ngày mai sẽ ra sao? Nhiều người quay đầu nhìn lại, họ biết tất cả sẽ chẳng còn gì, tất cả đã bị tịch thu.
Xe chạy gần một ngày, qua những đoạn đường đầy bụi, xe dằn xốc liên tục, mặt mũi ai cũng bơ phờ đầy bụi đỏ. Đến chiều khi mặt trời đỏ như máu đang dần xuống ở đầu ngọn cây thì đoàn xe dừng lại. Mọi người bị lùa xuống một khoảng rừng thưa, trước là một bãi đất đầy cỏ dại ngút ngàn, khô cằn, hoang vu trong hoàng hôn. Có lác đác mấy lều tạm bợ đã được dựng sẵn. Loa lại kêu từng hộ gia đình vào lều, nhìn cảnh tượng như cảnh nhập trại tù binh của người Do Thái thời phát xít Đức. Buổi cơm tối được nấu tạm bợ trong chập choạng mờ tối với những ánh lửa hiu hắt. Nhưng chẳng ai nuốt nổi. Cả ngày đi đường quá mệt, tâm trạng lại rối bời, lại nhìn cánh rừng mà mốt mai phải sống ở đây, ai cũng lắc đầu ngao ngán. Nghe mọi người bảo đây là vùng Đắc Nông, Phước Long gì đó. Nghe như chốn xa vạn dặm nào. Tôi thu xếp cho Tiểu Thanh và chú A Tỷ có một chỗ tạm ngụ, sáng hôm sau tôi lại bu mấy xe đò chạy than về lại thành phố.
Lúc này tôi đã nộp đơn xin đi làm mấy cơ quan, nhưng chẳng chỗ nào nhận. Họ bảo lý lịch của tôi có nhiều điểm bất minh, cần làm rõ. Đặc biệt là sao tôi lại trở về Việt Nam vào tháng 12 năm 1974. Họ cho công an điều tra xem tôi trở về để làm gì? Có nhận nhiệm vụ gì của tổ chức nào không v..v? Cũng may, cuối cùng tôi cũng được Sở Giáo dục nhận, nhưng cũng do lý lịch, họ đẩy tôi về dạy học ở Củ Chi. Có lẽ lúc này nhà nước đang thiếu giáo viên quá. Nhìn ngôi trường, tôi quá ngao ngán. Đó là một ngôi trường quê, chỉ có một dãy khoảng năm phòng làm lớp học, một dãy nhà lợp tole khác gồm hai phòng làm phòng ban giám hiệu và kho chứa đồ. Ban đêm thầy cô giáo xếp bàn làm giường, giăng mùng nằm ngủ. Các tiện nghi sinh hoạt thiếu thốn trầm trọng. Tôi tự nhủ cố gắng cho qua rồi tính tiếp.
Tôi không có giờ dạy ngày thứ hai, nên hai tuần một lần thứ bảy tôi qua mấy chặng xe lên Bù Đăng thăm Tiểu Thanh và chú A Tỷ, sáng thứ hai hoặc tối chủ nhật lại bu mấy chặng xe về. Có mấy thứ nhu yếu phẩm cỏn con, có khi chỉ vài muỗng bột ngọt, miếng vải mùng, nhúm hạt tiêu, vài ba gói thuốc lá đen, tôi cũng để dành mang lên cho họ. Họ sống khó khăn quá. Toàn dân thành phố mà bây giờ phải vào rừng chặt cây dựng nhà, học cách trồng cây, gieo mạ, cấy lúa trên miếng đất khô cằn. Lác đác đã có người trốn về. Nhưng về thành phố rồi làm gì, ở đâu? Họ biến thành những kẻ đầu đường xó chợ. Lương thiện thì đi ăn xin, bất lương thì đi ăn trộm, móc túi để sống. Tôi thấy Tiểu Thanh và chú A Tỷ ở đây không ổn rồi, tôi đang tính cách để đưa họ về lại thành phố mà tính mãi chưa ra. Tính chưa xong thì lần thứ ba tôi lên lại Đắc Nông, tôi chứng kiến Tiểu Thanh bị rắn độc cắn cùng hai người khác khi đi rừng. Ba nạn nhân được dân chúng gánh về bệnh viện bằng cái võng và thân cây tre làm đòn khiêng. Chẳng có phương tiện nào khác. Tôi vừa chạy theo vừa niệm khẩn cầu Quan Thế Âm Bồ Tát, nhưng người không đoái hoài. Và cả ba đã chết trên đường đi. Nửa người của Tiểu Thanh tím đen vì nọc độc, mắt Tiểu Thanh không nhắm, mở trừng trừng như muốn nhìn thấu nỗi oan khiên. Chú A Tỷ một lần nữa ngã quỵ, chú bây giờ như bộ xương khô, đôi mắt lạc thần, khuôn mặt như kẻ điên dại. Tiểu Thanh được chôn trong nghĩa địa vừa mới hình thành, lác đác đã có gần chục nấm mồ mới mọc, cỏ chưa kịp xanh vì tuần nào cũng có người chết. Kẻ bị rắn cắn, người bị cây đè, người khác bị bom mìn còn sót nổ khi cuốc đất, người thì thấy bế tắc quá, tự tử chết, đủ cách để chết. Tôi khuyên chú A Tỷ trốn về, nhưng chú bảo bây giờ còn mộ Tiểu Thanh ở đây, con mới mất, chú đi không đành, ở lại để chiều chiều, sáng sáng thắp cho nó cây nhang, đêm đêm chuyện trò với nó, kẻo nó buồn, nó tủi thân. Tôi chỉ biết khóc, tội nghiệp Tiểu Thanh quá. Và tội cho chú A Tỷ nữa. Cũng tội nghiệp cho mọi người bị lùa lên đây. Họ làm gì nên tội. Đã lấy tài sản một đời gom góp của họ, đã cướp nhà của họ, có người chồng đã đi vào trại cải tạo không có ngày về, sao lại đày đoạ họ đến đây với rừng rú, với hoang địa, với đói nghèo và cận kề cái chết như thế này? Cùng một dòng máu đỏ da vàng mà sao người ta tàn nhẫn thế, ác nhân thế? Mà thật ra có thù hằn gì nhau đâu mà phải trả thù. Họ có tội gì đâu mà bắt họ đền tội.
Tôi vẫn tiếp tục đi dạy học ở trường quê đấy. Hàng ngày phải gào giọng rao giảng những điều giả dối, hàng ngày phải tuôn ra những lời ca tụng thời đại đẹp nhất trong lịch sử, ca ngợi những con người đang đày đoạ nhân dân mình trong đói nghèo và lạc hậu. Thỉnh thoảng đôi tuần, tôi lại bu xe về Đắc Nông thăm chú A Tỷ. Có nhiều đêm hai chú cháu nằm nói chuyện suốt đêm trong nước mắt. Chú bảo chú biết con và Tiểu Thanh thương nhau, nếu ngày xưa chắc hôn sự khó thành, nhưng thời buổi đảo điên này, chú định bỏ qua lệ ấy mà tác thành cho hai đứa, không ngờ mẹ nó chết rồi đến nó cũng không sống được. Chú quý con lắm, thôi thì số phận đã thế thì mình phải chịu phần số thế thôi. Rồi chú lại khóc. Chú ôm chặt vai tôi mà khóc, nước mắt đẫm vai tôi, rồi chú uống rượu, uống nhiều lắm dù trước đây chú chưa bao giờ biết đến rượu bia.
Mấy tháng cuối năm học, luyện cho học trò thi tốt nghiệp, rồi bận gác thi, chấm thi, tôi không ghé thăm chú được. Lúc công việc đã vãn, lên thăm thì nghe người ta bảo chú bị lên cơn điên, đưa vào bệnh viện huyện rồi chú trốn về mất biệt, không biết đi đâu. Tôi về thành phố, tìm khắp không gặp chú. Cuối cùng tôi nghĩ bụng chắc chú về khu nhà cũ. Đúng y như thế. Chú về căn nhà cũ, tối nằm ở vỉa hè trước nhà, ngày đi lượm ve chai, đói ai cho gì ăn đấy. Căn nhà của chú cấp cho gia đình cán bộ ngoài Bắc vào. Cũng có vài lần họ đuổi chú đi, nhưng chú lại về, ngủ ở đấy mặc họ la hét, chửi rủa, riết rồi họ chán, họ im. Lâu lâu có dịp về thành phố, tôi lại tìm đến chú, hai chú cháu ra quán, kêu vài món, vài ly bia hơi nhạt nhẽo, lần nào chú cũng khóc. Chú càng ngày càng gầy, áo quần rách rưới. Giờ chú không còn mặc áo thun ba lỗ với chiếc quần ngắn đến đầu gối nữa. Chú mặc bất cứ thứ gì kiếm được hoặc của mọi người mang đến cho. Dân ở khu đấy đã từng biết chú cũng hay giúp chú miếng ăn khi đói, viên thuốc khi bệnh. Nhưng mà lúc đấy ai cũng khó khăn,ai cũng túng bấn, không có gạo trắng để ăn, lương thực toàn bo bo với bột khoai mì với vài ba ký gạo hẩm. Nhiều khi nhiều người muốn giúp chú mà cũng chẳng có gì để giúp.
Mùa mưa năm 1977, không hiểu sao Sài Gòn cứ mưa mãi thế. Nhiều lúc mua từ nửa khuya cho đến hết ngày. Mưa như trút nước. Mưa như trời giận dữ loài người. Lại thêm bệnh ghẻ ngứa. Không biết sao mà người bị bệnh đó lắm thế. Mọi người cứ gãi sồn sột. Gãi đến tróc da, chảy máu. Con nít ngứa khóc suốt đêm, người lớn ngứa không ngủ được. Vào bệnh viện toàn cho thuốc xuyên tâm liên. Bệnh gì cũng xuyên tâm liên. Xuyên tâm liên là thuốc tiên, chữa bá bệnh.
Buổi chiều hôm đấy trời mưa, một trận mưa lịch sử. Đường sá Sài Gòn ngập lên đến bụng, cả thành phố như một biển nước. Lại thêm gió ào ạt, nghe đâu có bão rớt. Lo cho chú A Tỷ, đêm hôm sau tôi ghé chú vì chú chỉ về đó ban đêm. Đến nơi không thấy chú, hỏi thăm thì mọi người bảo chú chết rồi, chết đêm qua, trong cơn mưa bão. Xác chú dập dềnh suốt đêm trước cửa nhà. Sáng sớm bà giúp việc mở cửa định tát nước ra thì thấy xác chú lừng lững trôi vào nhà. Bà giúp việc hoảng quá la hét rầm trời bỏ chạy. Bà chủ nhà trên lầu bước xuống thấy xác chú vào đến giữa nhà, xoay mòng mòng theo con nước dội vào nhà khi có xe qua, bà sợ quá hét lên một tiếng rồi ngất xỉu. Ông chủ nhà là một cán bộ lãnh đạo của thành phố cũng từ trên lầu chạy xuống, thấy xác chú quay tròn giữa phòng khách thì cũng cứng đơ người, sai bà giúp việc lấy cây đẩy ra, nhưng càng đẩy ra, xác lại giạt vào. Ông ta hoảng quá gọi công an. Một giờ sau công an có mặt, xác vẫn xoay tròn. Công an làm biên bản, gọi xe cứu thương đến nhận xác. Lúc đấy, nước bắt đầu rút, xác chú A Tỷ xoay dến chân câu thang, nằm lại đó, đôi chân như muốn bước lên. Người ta chở xác chú đi đâu không rõ.
Từ đấy, người ta đồn nhà ấy có ma. Đêm đêm có người đàn ông đi lên đi xuống cầu thang. Có người còn kể thấy chú đứng ở balcon, mặc áo thun ba lỗ với chiếc quần ngắn đến đầu gối nhìn xuống đường. Gia đình cán bộ hãi quá, xin đổi nhà khác. Những gia đình đến sau đấy cũng ở không yên, đêm thì nghe tiếng khóc, đêm thì nghe tiếng người đi, đêm thì thấy bóng người ngồi thu lu trên ghế. Người không ở được, nhà nước chuyển thành văn phòng của ủy ban phường, sau đó thành đồn công an phường. Mấy anh công an kể đêm nào cũng thấy ma.
Đến thời kỳ đổi mới, nhà nước bán cho một công ty nước ngoài đập bỏ xây cao ốc. Không biết chú còn vất vưởng ở đó không hay đầu thai kiếp khác rồi. Và cũng từ đấy, ngôi nhà, cơ nghiệp cả đời của chú A Tỷ đã biến mất, chẳng còn dấu tích gì trên cõi đời này nữa
Saigon. Tháng mười.
DODUYNGOC




Quán trưa một đống tôi ngồi
Sờn vai quần rách lôi thôi quá chừng
Nhìn quanh thiên hạ dửng dưng
Nhồi thêm cối thuốc lừng khừng khói bay
Đau bàn chân nhức ngón tay
Cắn răng gắng chịu đời bày cuộc chơi
Cánh hoa tàn rụng tả tơi
Chẳng ai ngồi lại phơi bày ruột gan
Phố phường nắng dọi chang chang
Sao nghe rét buốt phũ phàng thịt da
Đường đâu quên lối về nhà
Buổi trưa ngã bảy vỡ oà ngựa xe
Giữa đường dừng lại lắng nghe
Con chim cà chớn lè nhè ngọn cây
Phanh hàng nút lộ ngực gầy
Quơ tay nhốt hết đám mây bềnh bồng
Rú ga tưởng cỡi ngựa hồng
Bờm tung khói toả một vòng lắc lư
Thôi đành cất chuyện riêng tư
Buông vào cát bụi từ từ cũng xong
1.10.2018
DODUYNGOC
L'Homme la Pipe Le Fumeur 
Tranh của hoạ sĩ Cezanne



Con chuồn chuồn đỏ đậu lá xanh
Ta đi biệt xứ mộng tung hoành
Chiều nay cánh đỏ còn bay lại
Nhắc nhớ một thời tóc rất xanh
Ai kéo dùm chiếc kim thời gian
Thời ngựa phi gió núi bàng hoàng
Đạp lá rừng về nơi sóng vỗ
Kiếm sắc ngang hông ý ngang tàng
Giờ kiếm trễ tràng bên bức vách
Cung tên mỏi mệt héo nhành cây
Ngày xưa tóc xoã bồng trong gió
Giờ rụng lưa thưa giữa ngón gầy
Xưa thở lung lay vầng nhật nguyệt
Nắm tay rung chuyển mấy gian nhà
Sang sảng ca ngâm bài tứ tuyệt
Ánh nhìn run rẩy lũ tà ma
Giờ bước cầu thang chân mỏi gối
Loanh quanh giường chiếu với cơn ho
Đèn khêu hết bấc không nhìn tỏ
Muốn ngó gương soi mệt bước mò
Bữa nay gặp lại con chuồn đỏ
Đậu nhấp nhô trên lá tre xanh
Chỉ nhìn tranh thôi sao lệ nhỏ
Lạnh thấm hai vai mộng chẳng thành
DODUYNGOC



Con ốc nằm giữa đại dương
Cũng có khi biển cạn
Tôi hấp hối nằm giữa hoang vu
Không một lời trăn trối
Con dã tràng mon men trên ngực 
Trái tim đã vỡ rồi
Chỉ còn những hạt cát
Dã tràng vẫn mang đi
Con ốc thiếu biển trôi giạt
Mặt trời không đến từ hư vô
Mặt trời lên từ những nấm mồ
Tôi nghe tiếng thở từ chiếc lá
Tôi nghe tiếng khóc từ ngọn gió
Trái đất cựa mình
Những bờ đá dựng lên tiếng hét
Con chim không hót lúc hoàng hôn
Bơ vơ trên những bờ cát cháy
Mạch máu tôi vẫn chảy
Tim vẫn đập
Và những khốn cùng vẫn đuổi theo tôi
Tôi đã bán hết những giấc mơ rồi
Chỉ còn thân trần trụi
Ai đã phóng dao vào tôi
Tôi ăn năn với loài người
Với cỏ cây và muông thú
Và ăn năn trước một người
Những ngọn gió sẽ cuốn hết đi
Cả những lời sám hối
Tôi có tội
Tôi là người có tội
Chiếc thánh gia vẫn còn rướm máu
Chúa cõng hết tội của nhân loại
Nhưng chừa tôi ra
Tôi chất trên vai nỗi đau còn lại
Và đi cùng Chúa lên đồi Golgotha
Gió đến từ đâu và đi về đâu
Không ai biết
Tôi sẽ đi về đâu
Chẳng ai hay
Những đám mây lạc loài trên xứ sở
Những đám mây dị thường
Tiễn nhau đi
Ai giúp tôi qua vực sâu
Đầy máu chảy
Có một mùa đông tôi ngồi chờ 
Những cành cây khẳng khiu cũng đang chờ trổ lá
Chẳng ai mang cho tôi hơi thở
Mùa đông xô ngã tôi
Nằm ngửa nằm ngiêng nằm sấp
Tôi vẫn thấy những ngọn gió lạ lùng lướt qua
Mưa dai dẳng
Ngọn gió mang đi những hạt cát
Tôi chờ ánh lửa
Và con dã tràng sẽ rời thân thể trần truồng của tôi
Để đi về phía biển
Trái đất còn mình tôi
Chỉ một mình thôi.
30.9.2018
DODUYNGOC


@
tên gọi thành tính cách
của người mang quí danh ?
ông là Đỗ Duy Ngọc
đời phải đẹp như tranh
Quảng Bình đất mở mắt
Quảng Trị đất dừng chân
Đà Nẵng tạm cư ngụ
Huế, Sài Gòn thành nhân
qua Sư phạm đại học
thơm tay tình văn khoa
chữ viết cõng vốn sống
từng trang truyện mượt mà
không ngớt mê nghệ thuật
có duyên cùng Paris
tu nghiệp và thành đạt
thời em tóc demi
nhiếp ảnh cùng hội họa
theo ông gần suốt đời
đẻ thêm thú sưu tập
nâng cao đời tuyệt vời
tôi khoái những tranh liễng
các máy ảnh lồng chim
tẩu thuốc đồ sành sứ
ông khổ công săn tìm
trong gia tài đồ cổ
nổi bậc nhất đồng hồ
đọc ông Triệu Xuân viết
chợt đâm ra ngẩn ngơ
hóa ra ông lãng mạn
mê vật hơn mỹ nhân
những thất tình tuyệt đẹp
tôi lây niềm lâng lâng
muốn học ông cung cách
lắng lòng nghe thời gian
từng bước nhịp đời thở
mỏng mảnh thoáng nhẹ nhàng
ông nghe ra được tiếng
tỉnh vật đang thầm thì
tiếng động từ vật tỉnh
trong chết, sống thần kỳ
đi cùng trời cuối đất
lững lững về quê nhà
không tính chuyện được mất
ngất ngưỡng cỡi vespa
trong dòng chảy đời sống
xã hội không đáng vui
đủ bao dung độ lượng
nhập vai như mọi người
lạc quan nhờ kiến thức
thảnh thơi nhờ yêu thương
hít thở trong sáng tác
tẩy bớt vết phiền buồn
vẫn đọc và vẫn viết
tác phẩm không hẳn là
những hình thức cụ thể
mà mở lòng thiết tha
đọc ông như được gặp
một nhân chứng mỗi ngày
một quan tòa từng chuyện
sáng tư duy trình bày
không hời hợt chỉ trích
không châm biếm xỏ xiên
giọng phê bình điềm đạm
với văn phong có duyên
từ chuyện cô ca sĩ
đến chuyện đá bóng tròn
chuyện xin giấy thị thực
cuộc sống đáng buồn hơn
khen ông chỉ chừng ấy
thiếu thừa tùy mỗi người
cùng ông sống chung cõi
thiên đường giàu ngậm ngùi
rất vui được thưởng ngoạn
phác họa chân dung người
năm trăm nét nghệ thuật
qua ông thêm sáng ngời
tôi, ông chưa được gặp
quen biết qua xã giao
chớp nhoáng trên mạng ảo
nhưng không hề tầm phào
xưng hô hơi khách sáo
nhưng đã là điểm chung
cho hết thảy bài viết
lòng nắn từng chân dung
còn viết còn nói được
tiếng Việt mến yêu này
chúng ta là bằng hữu
dù tay chưa nắm tay
Luân Hoán
21.01.2018

Một ngày gió nổi
Co rúm bờ vai
Phố chẳng thấy ai
Lòng buồn quá đỗi
Niệm lời sám hối
Tiếng mõ nát lòng
Chuông vỡ thinh không
Thấy mình quá tội
Đi đâu bước vội
Chân mỏi ngón sầu
Muốn kể đôi câu
Người không ngoảnh lại
Chúa nhìn ái ngại
Thương kẻ khốn cùng
Lòng dạ lung tung
Khóc trên thánh giá
Đường chia bảy ngả
Ta chọn hướng nào
Trăm nẻo hư hao
Ngàn phương héo hắt
Ruột như ai cắt
Có mắt hoá mù
Ta vụng đường tu
Trái tim tàn phế
Ngồi trên chiếc ghế
Nhìn tháng chín qua
Lá thu xuýt xoa
Thương ta lỡ vận
Cũng đành lận đận
Cho hết kiếp này
Chim hết đường bay
Quẩn quanh góc phố
Không qua mệnh số
Đành tiễn người đi
Đến chùa quy y
Thầy không mở cửa
Phật không còn nữa
Chúa cũng bỏ đi
Ta chẳng còn chi
Ôm cây thập giá
Thêm lần vấp ngã
Người bấm khoá rồi
Trăm lỗi tại tôi
Trái tim nát ngấu
Dấu tay cào cấu
Trên bức tường rêu
Không còn tiếng kêu
Đánh rơi chữ ký
Một đời phung phí
Nửa kiếp tiêu hoang
Bao điều lo toan
Gởi trôi theo sóng
Lóng nga lóng ngóng
Tìm chốn trở về
Làm gã nhà quê
Quên bao mộng ảo
Thả trôi phiển não
Mấy quãng ghập ghềnh
Trả hết lênh đênh
Về nơi gió cát
Nằm trên bát ngát
Cười với trăng sao
Năm tháng tiêu hao
Trả về vũ trụ
Tình rồi cũng cũ
Người đã rời xa
Ta làm sân ga
Cho người ghé lại
Đường đi xa ngái
Đến hẹn người đi
Ta giữ được gì
Ngoài bầu khói bụi
Ngọn đèn đã lụi
Bấc đã héo tàn
Đời chuyện hợp tan
Ai mà biết được
Tình như độc dược
Giết được con người
Nhưng trong con ngươi
Chứa đầy nức nở
Cửa xưa người mở
Giờ khép chặt môi
Tôi nhìn bóng tôi
Ngã dài dưới nắng
Một viên đạn bắn
Vỡ toác ngực rồi
Tôi gọi tên tôi
Vang trong mộ địa
26.9.2018
DODUYNGOC

Tui dính với nghề làm bìa sách từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Trong quá trình hành nghề, có nhiều chuyện buồn cười mà không cười nổi, nhất là thời kỳ mở cửa, nhà nhà làm sách, người người làm sách. Mấy ông làm sách chuyên nghiệp, bán buôn thì không nói làm gì, vì họ chuyên môn rồi, rành rẽ rồi nên ít khi xảy ra chuyện thế này thế nọ. Sợ nhất là mấy nhà văn nhà thơ tự in sách đến đặt làm bìa. Và đặc biệt là ghi chức danh trong sách. Có ông đề nghị phải ghi những huân, huy chương có được vào trong bìa bốn hoặc trang đầu ruột sách. Có ông thì bảo ghi các chức danh từ xưa đến lúc về hưu, nhiều khi ghi cả hai trang sách, bởi ông ta liệt kê từ chức tổ trưởng tổ sản xuất cho đến khi làm giám đốc. Đến khi ông đưa cho tui cái carte visite mới sợ, hai mặt đầy chức danh từ tổ trưởng phụ huynh học sinh cho đến bí thư chi bộ tổ hưu trí. Có ông đến vẽ bìa tập thơ, mang theo một chồng bản thảo mấy trăm trang, bảo tui đọc rồi lấy ý tưởng mà vẽ bìa. Tui đành cáo lui vì chẳng có thì giờ đọc mà đọc thì cũng chưa chắc hiểu. Có ông lại làm thơ như vè, khẩu hiệu. Có ông lại đưa hình mặc veston hay quân phục ngực đeo huy chương đỏ lòm, bảo lấy hình đấy cho làm bìa một tập thơ. Lại có ông trong phần tiểu sử kể lể đã từng gặp lãnh đạo này, ông tướng kia và đề nghị đưa hình ông ta bắt tay với lãnh đạo nào đấy vào bìa một. Những trường hợp ấy tui xin đầu hàng, mời bố ra khỏi nhà cho. Lại có ông có bà lượm được cái hình nào đấy ưng ý, nhỏ còn hơn con tem, mờ mịt, màu mè nhem nhuốc bảo lấy đó phóng to làm bìa. Ôi trời đất thiên địa ơi, làm như tui là thánh có thể biến bãi cứt trâu thành ngọc ngà châu báu. Giải thích mấy ông bà ấy cũng bảo photoshop làm được hết mà. Tui hỏi ngược lại: thế ông bà biết Photoshop là cái gì không? Tất cả đều ú ớ, ngơ ngác như nghé lạc bầy. Họ bảo thì nghe nói thế. Có ông thì đưa ảnh chân dung từ thời xa lơ xa lắc nào để vào phần tiểu sử. Tui nghĩ thời nay, ai cũng có cái điện thoại chụp hình, sao không chụp một tấm cho có nét một tý mà phải lấy hình xưa lắc lơ với hình in báo mà dùng. Nhiều khi tui bực quá mới bảo: ông ngồi tui lấy máy ảnh chụp cho ông một tấm chứ ai mà xài hình này được. Khổ thế đấy. Mà sao bây giờ nhà văn nhà thơ ở đâu mà lắm thế? Nhất là nhà thơ. Tướng về hưu cũng in thơ. Giám đốc, Tổng giám đốc cũng in thơ. Bác sĩ, giáo viên in thơ. Cán bộ đương chức, lãnh đạo về hưu cũng in thơ, cứ nườm nượp. Có ngày tiếp ba bốn mối. Mà ông bà nào cũng tưởng mình là thi hào, thi bá ngang hàng với Tản Đà với Nguyễn Du cả. Cũng sợ nhất là mấy ông cà kê dê ngỗng, vào ngồi nói đủ chuyện xong lại kéo ghế vào sát mình, kê miệng gần lỗ tai tui mà bảo: Để tôi đọc anh nghe mấy câu này, nhà thơ A, thi sĩ B nghe xong tái mặt, thất kinh, trầm trồ khen mãi. Thế là đọc, nhiều ông mắc bệnh hôi miệng, thế mà cứ tuôn trào ngay mặt mình, hôi không chịu nổi, lắm lúc nước bọt văng đầy mặt. Có ông tui thấy tào lao quá, từ chối thì lại đem tiền ra mua chuộc. Hỏi: Thế anh thiết kế cái bìa giá bao nhiêu. Tui nói giá. Ông ta bảo: Thế anh làm cho tôi, tôi gởi anh luôn 100 đô. Gặp mấy ông này tui xua chó mời ra khỏi nhà ngay. Cứ tưởng đem tiền ra mà xong việc được à? Mấy ông cả đời mới in cuốn sách nên quan trọng lắm, dặn dò đủ kiểu, về rồi lại phone nhắc nhở đủ điều. Lấy bìa về lại đi hỏi ý khắp nơi, vừa khoe vừa xin ý kiến, chín người mười ý. Thế là đến đề nghị sửa chỗ này, thêm chỗ nọ. Rồi lại xin ý kiến, rồi lại sửa. Tui thường giao hẹn chỉ sửa ba lần, sửa nữa là tui xé bản mẫu, trả tiền lại, mời ra. Thiên hạ bảo tui chảnh, nhưng không phải thế. Tui sẵn sàng sửa hoặc có thể làm mới với những lý do hợp lý, còn toàn nghe người ta mà sửa tào lao thì chấm dứt ngay. Ngày nay, làm trên computer nên việc sửa chữa dễ dàng và thuận tiện. Ngày trước, thập niên bảy tám mươi, làm thủ công, mi từng chữ, kẻ từng hàng, ngồi còm lưng mới xong được cái bìa sách mà sửa hoài thì ai chịu thấu.
Lại có ông nghe báo giá, liền bảo thằng A, Cậu B làm giá rẻ hơn anh nhiều. Tui bảo ăn Phở Dậu thì một tô 70.000 đ nhưng anh ra vỉa hè thì 20.000 cũng có tô phở. Hủ tíu Hồng Phát với Liến Hứa một tô 100.000, nhưng anh anh qua bên kia đường tui chỉ cho có quán bán có 25.000. Muốn rẻ thì cứ đến chỗ nào rẻ mà mua, đến đây chi cho đắt mà than. Người đời bảo: Tiền nào của nấy, có biết không. Chê đắt, xin mời. Ra mau để tui đóng cửa. Mẹ nó! Làm bìa sách mà nhiều khi gặp khách như đi mua tôm mua cá, mệt thiệt.
Tuy vậy, có khách cũng dễ thương và tình nghĩa. Tui nhớ hoài Giáo sư Hoàng Phê. Hồi đấy GS in lần đầu tiên cuốn Từ điển Tiếng Việt. Từ Hà Nội bay vào, ông bảo chỉ vào để đến anh làm cho cái bìa. Tui làm xong, tiền trao cháo múc. Thế nhưng, mỗi lần tái bản, Ông lại gởi tiền vào, mà cuốn ấy thì tái bản hoài, cả chục lần. Mỗi lần có dịp vào Sài Gòn, ông lại ghé thăm, cho quà. Ngày lễ, ngày Tết nào cũng gởi quà, không trực tiếp thì cho ông em là GS Hoàng Quý mang đến. Tui không quan tâm cái quà nhưng tui quý ông cái tình. Hay như ông Nguyễn Khoa Điềm, một thời là quan chức cấp cao, tui làm cho ông mấy cái bìa, lần nào có sách ông vào Sài Gòn cũng kêu tui ra cho được để nói tiếng cám ơn. Tui nghĩ đó là cách đối xử của người trí thức. Anh Trẩn Thanh Phương cũng vậy. Những cách xử sự đó làm cho tui nể, chứ tui chẳng nể gì cái chức của các ông ấy.
Trở lại cái chuyện chức danh, hôm nay tui có tiếp một ông cũng đến thiết kế bìa thơ, ông khoe đang là giám đốc một công ty lớn lắm, ông liệt kê đúng 30 chức vụ đã và đang đảm trách, tui đề nghị bỏ bớt cho gọn, ông không bằng lòng, tui liền mời ông ra cửa, ông cho tài xế nổ máy xe và chứi tui là láo ha..ha. Bực quá mở face xem, tình cờ phát hiện có một anh chàng khoe trên lý lịch face gồm 21 chức danh từ nhà thơ cho đến tổ trưởng cho đến quản lý.. và thủ quỹ câu lạc bộ thơ của huyện. He ..he sao người ta ham danh, ham chức thế nhỉ. Nếu cần chỉ ghi một chức to nhất hoặc một chức đương nhiệm là quá đủ rồi, sao phải kể lể dài dòng quá vậy ta. Tui khoái khai chức danh của mình rất là gọn là: Nhà quê. Thế là quá đủ. Hê..hê
26.9.2018
DODUYNGOC


Nhân có phong trào xây lăng đắp mộ cho các lãnh đạo Việt Nam, những người đã qua đời và một số người đã sắp hết niên hạn. Đọc lại lịch sử để biết thêm tại sao Lăng Vua Tự Đức có tên là Khiêm lăng.
Lăng Tự Đức (嗣德陵) là một quần thể công trình kiến trúc, trong đó có nơi chôn cất Tự Đức, tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới xây dựng, lăng có tên là Vạn Niên Cơ (萬年基), sau cuộc Loạn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung (謙宮). Sau khi Tự Đức băng hà, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng (謙陵).
Lăng Tự Đức có kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của hoàng gia nhà Nguyễn.
Tự Đức, vị vua thứ tư của triều Nguyễn đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh.
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Tuy nhiên, do công việc sưu dịch xây lăng quá cực khổ, lại bị quan lại đánh đập tàn nhẫn, là nguồn gốc cuộc nổi loạn Chày Vôi của dân phu xây lăng.
Tương truyền, dân chúng ta thán:
"Vạn Niên là Vạn Niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân"
Ngày 8-9 âm lịch năm Bính Dần (1866), tức năm Tự Đức thứ 19, do việc xây dựng Vạn niên cơ, quân sĩ và dân phu phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Nhân sự bất mãn đó, với lý do tôn phù Đinh Đạo (cháu ruột Tự Đức, nguyên tên là Ưng Đạo, do cha là An Phong công Hồng Bảo làm loạn nên phải đổi thành Đinh Đạo) lên ngôi vua, Đoàn Hữu Trưng cùng với các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, cùng các đồng chí là Trương Trọng Hòa, Phạm Lương, Tôn Thất Cúc, Tôn Thất Giác, Bùi Văn Liệu, Nguyễn Văn Quí phát động khởi nghĩa. Những người tham gia khởi nghĩa phần đông là nhân công đang uất hận vì bị bắt lao dịch khắc nghiệt để xây dựng Vạn niên cơ. Họ dùng chầy vôi - dụng cụ lao động - làm vũ khí nên tục gọi là "giặc chày vôi". Tuy nhiên, cuộc đảo chính thất bại. Cả nhà Ưng Đạo đều bị hại. Đoàn Hữu Trưng và hai người em bị giết lúc mới 22 tuổi.
Tuy nhiên, do sự việc này, vua phải đổi tên Vạn niên cơ thành Khiêm Cung và viết bài biểu trần tình để tạ tội. Năm 1873, Khiêm Cung mới được hoàn thành, vua Tự Đức vẫn sống thêm 10 năm nữa rồi mới qua đời.
(Wikipedia)
Vua Tự Đức, một ông vua phong kiến mà thấy được cái sai của mình nên viết biểu để tạ tội, điều đó cũng thể hiện cái hay của người xưa. Tiếc thay, ngày nay người ta vẫn muốn là vua sau khi chết, vẫn muốn lăng tẩm nguy nga, mồ mả bạt ngàn mấy chục ngàn thước đất trong khi người cày không có ruộng, người dân vẫn còn nghèo, có người chết phải bó chiếu để chôn. Mà nghĩ cho cùng, người đã chết thì chôn bằng bó chiếu hay lăng tẩm xa hoa cũng chẳng khác gì nhau. Rồi cũng thành cát bụi, giòi bọ đục khoét tấm thân. Cái để lại cho đời là bia miệng, là lúc còn sống bản thân đã làm được gì cho đất nước, cho Tổ quốc và nhân dân, cho những người quanh mình.
Xây lăng mộ cho to rồi trở thành nơi người ta đến chơi bời, ngoạn cảnh. Dần dần thành chốn vui chơi, mất vẻ trang nghiêm mà lại trở thành bia miệng cả trăm, cả ngàn năm nữa.
Mốt mai đây, suốt từ Nam chí Bắc, sẽ có biết bao nhiêu lăng nữa mọc lên. Sống biệt phủ, chết xây lăng. Người lấy đất ruộng, người chiếm cả ngọn núi, kẻ thì bạt cả đồi. Việt Nam trở thành địa điểm du lịch lăng mộ nổi tiếng thế giới. Tự hào thay!!!!

Tui xin thú thiệt, trên đời này có hai con vật mà tui sợ nhất là con chuột và con rắn. Tui ghê con chuột vì sự dơ dáy do sống trong cống rãnh của nó. Còn con rắn thì tui sợ vì nọc độc của nó quá kinh khiếp.

Thế nhưng người ta vẫn ăn thịt chuột một cách bình thản và xuýt xoa khen ngon. Dân miền Tây thì chỉ ăn chuột đồng vì theo họ, chuột đồng sống ngoài ruộng, chỉ ăn lúa nên sạch sẽ cũng như con lươn, con cá con gà. Họ cũng ăn con chuột dừa, còn gọi là con dúi, sống trên cây dừa cao, chỉ ăn đọt dừa. Và với chuột đồng, chuột dừa, người dân miền Tây chế biến nhiều món ăn nhìn rất hấp dẫn. Nhưng mà tui không dám ăn.

Giờ đây tui được biết thêm người dân miền ngoài ăn cả chuột cống. Ghê quá! Con chuột cống ở các bệnh viện, nhà xác nghe đồn ăn cả xác người. Kinh thật! Có con nặng gần kí lô. Lúc đầu nghe kể tui không tin. Nhưng xem xong mấy clip này thì tui thật sự kinh hãi. Có thể vì thói quen, có thể vì quan niệm. Mỗi vùng có khẩu vị và tập tục ăn uống khác nhau, tui không dám lên án hoặc có ý kiến gì. Nhưng riêng tui thì chịu, thà chết không ăn thịt chuột cống.

Tui vốn mang tiếng ba nhe từ nhỏ
Lớn lên hay nói ba lơn
Nhưng có răng mô
Cũng chỉ vui thôi mà
Mạ tui bảo tui ba trợn
Con gái nhà ai mà dám thương mi
Bởi rứa cho nên gần hai chục tuổi tui vẫn chưa có bồ
Mỗi ngày tui đi qua Đập Đá
Mùa hè nắng dội bể đầu
Mùa mưa lội bì bõm
Một mình tui
Tui vô Thành nội đi học vẽ
Người ta vẽ cô gái mặc áo dài
Tui toàn vẽ đàn bà ở lổ
Nhưng mà có ông Thầy khoái tui
Hai Thầy trò khi mô có tiền chạy ra Lạc Thiện ăn bánh khoái
Thầy bảo đàn bà đẹp khi không mặc gì
Rứa mà cứ bắt họ mặc đồ để lên tranh
Tiệm bánh khoái có mấy cô câm
Thầy tui bảo đàn bà không nói là đàn bà khôn lắm đó
Có hôm vô quán bún bò mụ Rớt
Thầy nói mi thấy màu đỏ trong tô bún ni không
Mi pha được màu ni là mi ngon rồi đó
Có bữa ra cồn Hến ăn cơm hến
Ớt cay thấy mụ nội
Ỉa rát lỗ đít
Nhưng mà ngon.
Chỉ có người Huế thấy cơm hến ngon
Lạ rứa đó
Một lần đi phía sân vận động Tự Do
Ăn cơm Âm phủ
Thầy tui nói ai cũng sợ chết
Mà lại khoái ăn cơm âm phủ
Rứa mới lạ đời
Tui ngồi ngó rồi ăn chẳng biết nói chi mô
Tui không có tiền tui đi làm thợ hồ
Thay vì trét màu lên tranh tui trét ciment để xây tường
Tui đạp xích lô
Thay vì nặn tượng
Ba tháng không vô trường
Người ta đuổi học
Tui hết dám nói ba lơn
Nhưng tui cũng không năn nỉ
Tui bỏ trường tui đi
Tui chỉ tiếc cây cổ thụ ở trước sân trường
Với mấy cô người mẫu vú thâm chảy dài như trái mướp
Tui nói dạng chân cho tui vẽ mà các cô cứ khép lại hoài
Tui bu tàu lửa vô Nam.
Ở đó họ không hiểu ba nhe là chi
Nên chẳng ai nói tui ba nhe
Tui ở xóm kinh nước đen
Họ thường nói Đù má
Tui cũng Đù má
Và tui học nói theo tiếng Sài Gòn
Mới đó mà đã năm chục năm.
Thầy tui đã chết vì đói từ năm bảy lăm
Gục trên cầu Tràng Tiền
Chiếc xe đạp chở đàng sau mấy lon sơn đi vẽ khẩu hiệu
Tranh chất đầy nhà chẳng ai mua
Vì bị cho là tranh đồi truỵ
Hôm ni nghe ai đó nói ba lơn
Tự nhiên tui nhớ Huế.
Nhớ Thầy tui
Tui muốn về mà ốt dột không dám về
Bởi vì chừ tui già rồi mà cũng chỉ là thằng đi làm thuê
Bi chừ tui vẽ đàn bà mặc áo
Vì chẳng có ai thuê vẽ tranh con gái ở truồng.
25.9.2018
DODUYNGOC

Chiều nhàn nhạt như đời qua bao tuổi
Phai dần đi những năm tháng trượt dài
Ta đã lăn như một hòn đá cuội
Tê tái chờ dừng lại ở mốt mai
Ta về lại nhánh sầu đông đã héo
Ngón tay gầy rên siết ở bờ vai
Hơi thở buồn níu kéo bước chân ai
Bờ môi mặn xác xơ trong khoảnh khắc
Ta về lại phố phường kia đã khác
Lá chết khô trên sắc những lá cờ
Hàng cột đèn ngơ ngác đứng bơ vơ
Đám bạn cũ đi bốn phương tám ngả
Ngôi nhà cũ bức tường xiêu ngói đổ
Con chó buồn giương mắt sủa vu vơ
Bóng hình xưa trong ký ức phai mờ
Trăng chợt héo báo tin giờ nguyệt tận
Ta về lại sau một đời lận đận
Suối đã khô và rừng cũng không còn
Thân ngựa già đã đến tuổi héo hon
Tay ôm mặt dấu hai hàng lệ chảy
Suốt một kiếp chạy đuổi theo hư ảo
Kiếm mênh mông mà quên mất nẻo về
Tìm lợi danh nên nuôi mãi si mê
Lúc tuyệt vọng biết thân mình nặng quá
Ta về lại đám tro tàn đã hoá
Dưới bùn đen hoa sen nở thắm màu
Nghe cỏ cây lên tiếng hỏi thăm nhau
Ta buông cả xác thân này nhẹ rỗng
22.9.2018
DODUYNGOC

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget