tháng 6 2020


Buổi sáng mặt trời đi qua cửa sổ
Có sợi nắng rơi trên bình trà cổ
Có bông hồng héo lay lắt mặt bàn
Có người nằm yên nhìn như nấm mộ


Buổi sáng sương tan con chim thức giấc
Cất tiếng ru buồn nghe đầy tiếng nấc
Tẩu thuốc tàn rồi chẳng ấm bàn tay
Người bỗng bâng khuâng trong cơn tất bật

Buổi sáng lá rung tựa con mắt thở
Có nụ hoa vàng trầm ngâm hé nở
Có đốm nhang trầm đốt mở đầu ngày
Ngôi nhà vắng hoe ngồi lâu chợt sợ

Buổi sáng lặng lờ mở từng cánh cửa
Người đi xa rồi ta còn một nửa
Chung quanh trống trơn vây bủa hư không
Ta cắn vành môi để nghe máu ứa

Buổi sáng hắt hiu từng ngón tay nhỏ
Không tiếng dế buồn gáy nơi ngọn cỏ
Chén trà nguội dần đọng chút tàn hơi
Đời chẳng còn chi thôi đành buông bỏ

Buổi sáng qua đi ta còn ở đó
Lòng bịt bít bùng không nơi nhốt gió
Nhìn đốm máu đỏ chảy dưới cánh tay
Cuộn mình trong chăn ta nằm một xó
18.6.2020
DODUYNGOC
Ảnh: Thái Ngọc Sơn


Tôi còn nỗi buồn nhưng không muốn kể
Tôi có niềm đau nhưng mà mặc kệ
Người bỏ đi rồi sao tôi không quên
Vết thương chưa khô thấy mình quá tệ


Tôi vẫn vô tình đi ngang qua đó
Tôi luôn tần ngần trước con ngõ nhỏ
Có nhát dao nào đâm nhẹ vào lưng
Nắng rọi đỉnh đầu chói con mắt ngó

Tôi nghe sóng biển chợt nhớ một thời
Những bước chân trần với cuộc rong chơi
Giờ nhìn lên núi thấy rừng hiu hắt
Hát điệu nhạc buồn của kẻ mồ côi

Tường đã xanh rêu người không ngó lại
Cơn mưa ngập ngừng xô ngã bước chân
Còn nửa cuộc đời làm người thất bại
Tim hối đến đi lòng bỗng ngại ngần
9.6.2020
DODUYNGOC



Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được xưng tụng là Bà chúa thơ Nôm. Làm câu đối mà bằng tiếng Nôm không phải dễ dàng. Thông thường câu đối thường chứa điển tích Trung Hoa, dùng chữ Hán để thể hiện. Ở câu đối cũng như thơ Hồ Xuán Hương rặt Nôm, mà lại toàn những chữ Nôm độc đáo và ấn tượng. Vào thời kỳ của bà mà viết được như thế chẳng khác gì một cuộc cách mạng (Đỗ Duy Ngọc - Phê bình thơ và câu đối của Hồ Xuân Hương - Tiểu luận, Sài Gòn 1974)

Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thôn Tiên Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt đường, chiết tự họ Hồ của mình ra thành 2 chữ Cổ và Nguyệt. Hồ Xuân Hương ở với mẹ, có đi học, sáng dạ, thông minh, nhưng không được học nhiều, thích làm thơ. Khi Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Yên gặp Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa (1802-1804), bắt đầu cuộc đời mười năm lận đận, vợ cả ghen tuông, thân phận như nàng Tiểu Thanh. Dứt tình với Tổng Cóc, quan Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển cầu hôn, đám hỏi chẳng bao lâu thì mẹ mất, phải cư tang mẹ, đến đầu năm 1816 Hồ Xuân Hương mới về Yên Quảng được hai năm thì chồng bị bắt và kết án tử hình. Xuân Hương đi tu rồi trở về làng Nghi Tàm chết trong cô đơn, không một bài thơ phúng điếu.

Tự thuật và ứng khẩu
Câu đối vịnh cái Âm Hộ:
Khi khép tối om om, quân tử tò mò nhìn chăng thấy
Lúc mở ra toang hoác, anh hùng tấp tỉnh đứng coi

Ứng khẩu khi bị trượt ngã:
Hôm ấy, Hồ Xuân Hương cùng bạn bè ra phố dạo chơi, không may bà dẫm phải chỗ trơn trượt té sõng soài xuống đất. Người đi đường và bạn bè thấy vậy cười lăn cười bò, bà liền giơ tay trỏ lên trời đọc luôn đôi câu đối:
Giơ tay với thử, Trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem, Đất vắn dài

Hồ Xuân Hương khi du ngoạn qua cửa Gió ở Đèo Ngang, đã viết:
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá
Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút nuôi cho lọt khách cổ kim

Câu đối Tết:
Đêm ba mươi tống cựu, khép cánh càn khôn, một then đưa đẩy khìn khin khít khịt
Sáng mồng một nghinh tân, mở lò tạo hóa, hai cánh banh ra toác toạc toàng toang

Câu đối nhận xét về tình duyên của mình:
Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay

Hồ Xuân Hương và quan lớn:
Hôm ấy, một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh hồ Tây. Trời trong, nước xanh, cảnh vật đẹp đến nao lòng vì bao nhiêu tinh tú của đất trời dường như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi mà tâm hồn nhạy cảm của bà nhìn ra và quyết định dừng lại an cư lập nghiệp chứ không tiến vào kinh thành Thăng Long - nơi bao văn võ bá quan, dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều tìm vào - vì vị trí khuất nẻo so với kinh thành...Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to:
Võng đào quan lớn đi trên ấy
Váy rách bà con giặt dưới này
Ví cái võng điều của quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác quan thời nay là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực thì quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao cửa rộng, vợ nọ con kia, còn ô dù võng lọng, nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi gì cho dân đâu? Nghe câu đối, cả thầy, cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa, biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy...Chuyện này mà để lan truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghêng ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp mê hồn.

Đối đáp với Chiêu Hổ
Phạm Đình Hổ tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Chiêu Hổ người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: "Làm người con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời..." Tuy đọc nhiều sách, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ. Khi Gia Long lên ngôi, ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, dưới đây là những giai thoại đối đáp giữa hai người:

Những câu đối chào hỏi khi gặp gỡ:
Hồ Xuân Hương ra: Khấp như thiếu nữ vu quy nhật (Khóc như thiếu nữ vui ngày cưới)
Chiêu Hổ đối: Tiếu tự thư sinh lạc đệ thi (Cười như anh khóa lúc hỏng thi)
Chiêu Hổ hứng khởi lại ra: Người Cổ lại còn theo thói Nguyệt (Chữ cổ ghép với chữ nguyệt là chữ hồ, ý nói Hồ Xuân Hương đã lớn tuổi mà vẫn đa tình)
Hồ Xuân Hương đối: Buồng Xuân đâu đã nhạt mùi Hương (Chữ Xuân với ghép chữ Hương là tên, ý nói Hồ Xuân Hương này đâu đã phải là người “nhạt phấn phai hương”, đâu đã chịu già hom!)
Có thuyết nói cả 2 vế đều của Chiêu Hổ viết tặng Hồ Xuân Hương, vế sau thay chữ "đâu đã" bằng chữ "chi để". Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà, còn tách ra lại là sự trách khéo: "Đã tự coi là người cổ hủ, trọng nề nếp, gia phong lại còn thích thói hưởng nguyệt, xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi xuân thì còn hương sắc, mà không gìn giữ nền nếp, gia phong thì buồng xuân còn để lạnh đến bao giờ?

Lúc mới quen nhau, Chiêu Hổ còn ngại ngùng, Xuân Hương đùa:
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, nhắn nhe toan những sự gùm ghè, gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, chưa dám cho nên phải rụt rè.
Chiêu Hổ cả thẹn nổi máu nóng anh hùng phản công liều lĩnh: Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe, bảo nhe không được gậy ông ghè! ông ghè không được ông ghè mãi, ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!
Ta thấy Chiêu Hổ mất bình tỉnh, lời thơ hồ đồ, nóng nảy. Tuy nhiên chúng ta thấy hai người đừa bởn rất thân tình.

Một hôm, Chiêu Hổ đến chơi nhà Hồ Xuân Hương, khi đi qua sân, đụng phải quần áo của nàng đang phơi. Hồ Xuân Hương xuất thần đọc: Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau mỗi khi nắng cực
Chiêu Hổ đối lại: Thuyền rồng, mui vẽ, vém buồm lên rồi sẽ lộn lèo

Bữa nọ, Chiêu Hổ hơi men chếnh choáng ghé sang nhà Hồ Xuân Hương chơi, mượn cớ say rượu ông vừa nói chuyện vừa đưa tay quờ quạng lung tung, Hồ Xuân Hương biết Chiêu Hổ giả đò liền tức cảnh thành thơ:
Vẫn giả tỉnh vẫn giả say, sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày? này này chị bảo cho mà biết, chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Chiêu Hổ đáp: 'Nào ai tỉnh nào ai say, nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày? hang hùm ví bẳng không ai mó, ao có hùm con bỗng trốc tay?
Văn bản cổ nhất chép giai thoại này không gọi là thơ Chiêu Hổ mà ghi là thơ "Mắng người say rượu", các văn bản về sau dựa vào chữ hùm, hùm con nên cho rằng đó là của Chiêu Hổ đối đáp với Hồ Xuân Hương.

Năm 1804 sau khi thôi Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương vay tiền Chiêu Hổ để mở hiệu sách ở Phố Nam gần đền Lý Quốc Sư, Xuân Hương vay năm quan tiền. Chiêu Hổ cho mượn có ba, Xuân Hương trách:
Sao nói rằng năm lại có ba? trách người quân tử hẹn sai ra, bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, nhờ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ đáp: Rằng gián thì năm quí có ba, bởi người thục nữ tính không ra, ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt, cho cả cành đa lẫn củ đa.
Xuân Hương trách Chiêu Hổ là Cuội, nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa trên mặt trăng, có lẽ Chiêu Hổ cũng không giàu có lắm, nên mượn chuyện tiền quí với tiền gián mà trả lời. Ngày xưa một quan có mười tiền, tiền gián có 36 đồng, một quan bằng 360 đồng, do đó 5 quan bằng 1800 đồng. Tiền quí có 60 đồng; do đó 3 quan tiền quí bằng 60 X 3 = 1800 đồng. Xuân Hương tưởng mượn Chiêu Hổ tiền quí, nhưng Chiêu Hổ cho mượn tiền gián, trách Xuân Hương sao tính không ra.

Năm 1821, Phạm Đình Hổ dâng sách được vua Minh Mạng vời ra: Ông được bổ làm Hành Tẩu Viện Hàn Lâm. Xuân Hương năm ấy chồng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường, hay tin đã làm câu đối mừng Chiêu Hổ với lời đùa nhẹ nhàng:
Mặc áo Giáp, dãi cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý
Hồ Xuân Hương lấy những chữ trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý ý muốn chế diễu Chiêu Hổ chỉ đỗ Tú Tài, nhờ dâng sách mà được làm quan nay mặc áo đẹp ra vẻ ta đây.
Chiêu Hổ nổi nóng, đối đáp bằng lời mắng nặng nề: Làm đĩ Càn, tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn
vế đối lấy những chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn, Đoài mắng Xuân Hương là 'con đi càn dỡ lại còn tự phụ, cho mình khôn'. Những lời mắng nặng nề ấy đã chấm dứt mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ. Trong thư hồi âm, đoạn cuối ông viết hai câu kết để cắt tình đoạn nghĩa với "bà chúa thơ nôm":
Nay đã mần cha thằng xích tử
Rầy thì đù mẹ cái hồng nhan
Xích tử là con đỏ, trỏ dân chúng. Theo Lê Thước, thì hai câu này là của Nguyễn Công Trứ - thân hai câu này là vô nghĩa lý: tại sao đã được mần cha thằng xích tử, thì lại đù mẹ cái hồng nhan! Không thèm đù nữa, hay lại đù hơn bao giờ hết? Chẳng qua đây là đối chọi chữ chan chát cho thích. Những chuyện tục truyền như thế này, rất có thể không phải là sự có thật (có ý kiến cho Chiêu Hổ chỉ là nhân vật trong giai thoại, không phải là Phạm Đình Hổ), nếu mà có thì như vậy thật đáng buồn biết chừng nào, Chiêu Hổ thì có vợ con, yên nhà yên cửa, tốt thân tốt thế, quan lớn sống lâu! Còn Xuân Hương thì lận đận, long đong, chưa bề nào! Hạ những lời đùa như thế giữa hai người tài tử ai đáng hơn ai?

Đối đáp với học trò
Một hôm sau ngày mưa, Hồ Xuân Hương đến trường, giẫm phải hòn gạch dưới có bùn bắn lên tận cẳng chân (hồi đó con gái còn mặc váy) Hồ Xuân Hương phải ra cầu ao cúi xuống vén váy rửa cẳng chân. Một cậu học trò tinh nghịch trông thấy liền đọc một vế:
Nê nếnh do chi tầm hà xứ? (Đại ý: Bùn bắn lên cẳng chân để tìm cái gì trên ấy nhỉ?)
Hồ Xuân Hương liền đáp: Mạc tương thoá thủ tiếu anh hùng (Đại ý: Khi cúi xuống rửa tay thấy nó cười người anh hùng như cậu).

Đối đáp với nhà sư
Tương truyền khi Xuân Hương qua chùa chơi, vốn biết Xuân Hương nổi tiếng thơ phú, nhà sư liền cho chú tiểu mang ra 1 vế thách đối.
Vế ra như sau: Thông ba sáu bộ chân kinh, dẫu chẳng La Hán Kim Cương, cũng cao tăng đạt đạo
Hồ Xuân Hương liền bảo chú tiểu đưa bút và viết ngay vế đối lại bên cạnh: Dù hay ba vạn chín nghìn, không biết méo tròn ngang dọc, thì cũng đếch ra người

Đối đáp với Tổng Cóc (có thuyết khác nói cả 2 vế đều của Hồ Xuân Hương)
Trong thời gian theo cha về Sơn Dương dạy học, Hồ Xuân Hương được nhiều cậu Tú, anh Nho ngấp nghé chuyện riêng tư, trong những người đó có Tổng Cóc. Ông Tổng Cóc có tên thường gọi là Kình, quê ở làng Gáp, xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ). Khi đi lính lên chức Đội, gọi là Đội Kình. Khi làm Phó tổng được gọi là Tổng Kình. Tên chữ của Tổng Kình là Nguyễn Công Hòa. Cóc là tên gọi lúc còn bé. Gọi tên xấu xí thế cho tà ma bớt quấy. Sau này Hồ Xuân Hương có bài thơ Khóc Tổng Cóc nên dân làng mới gọi ông là Tổng Cóc. Tổng Cóc là con cháu quan nghè làng Gáp Nguyễn Quang Thành. Tương truyền Tổng Cóc kết thân với Tú Điếc làng Xuân Lũng và Nho Trâm người làng Kinh Kệ. Ba người quen biết Hồ Xuân Hương trong dịp họ đi thi Hương. Nhờ sự mối manh của họ, mà cụ Đồ Xứ người Nghệ An (đỗ đầu xứ nên khi dạy học họi là Đồ Xứ) đã dẫn con gái Hồ Xuân Hương về làng Sơn Dương cạnh làng Gáp để dạy học. Một hôm, nhân ngày Tết Nguyên đán, cậu Tú Kình cùng một số thư sinh đem biếu quà Tết cho cụ đồ Hồ Sĩ Danh, thân sinh Hồ Xuân Hương, bị Hồ Xuân Hương ra câu đối:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới
Tú Kình đối lại: Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào
Nhờ câu đối này, Tổng Cóc cưới Hồ Xuân Hương về làm vợ kế, đương nhiên bị vợ cả và con cái bất bình, nhưng vì “trai làm nên lấy năm bảy vợ”, nên họ phải ngậm đắng nuốt cay. Một lần vợ chồng có va chạm, Tổng Cóc giận dỗi viết thư trách móc để dưới gối rồi bỏ đi xa một thời gian, khi Tổng Cóc về thì Hồ Xuân Hương đã không từ mà biệt. Mãi lâu sau Tổng Cóc mới dò la biết Hồ Xuân Hương đang sống trong phủ Vĩnh Tường, tính đếm ngày tháng, Tổng Cóc biết Hồ Xuân Hương đã sinh đẻ. Ông đến phủ Vĩnh Tường chỉ dám lân la ngoài phố, chờ con sen trong phủ ra hỏi mới biết được con gái Hồ Xuân Hương đã chết khi sinh ra. Tổng Cóc đành tay không ra về, ông viết mấy câu đối tỏ vẻ nuối tiếc như sau:
Thảo lai băng ngọc kính (Nói đến tấm gương bằng ngọc)
Xuân tận hóa công hương (Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân)
Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Tấm gương trong trắng ví với người con gái trong trắng, nhưng khi hết xuân thì thợ trời cũng chịu”.
Độc bằng đan quế thượng (Chi bằng lúc ta vin cành quế đỏ)
Hỏa phóng bích hoa hương (Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm)
Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Chỉ biết dựa vào phúc đức, con cháu khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi”.

Đối đáp với ông đồ Bút
Khi tiếp chuyện một ông đồ tên là Bút ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Hồ Xuân Hương (có một thời cùng gia đình sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, nay là vùng vườn Bách Thảo, Hà Nội), ra vế đối: Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.
Ông đồ Bút đối lại: Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa
“Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra.

Đối đáp với Dương Trí Tản
Một lần về quê nội Quỳnh Đôi, Hồ Xuân Hương cũng đối đầu ngang ngửa với các sĩ tử, ông đồ- những người ngưỡng mộ bà lũ lượt kéo tới nhà để xem mặt, bắt...hồn thơ, xem có đúng "danh bất hư truyền" như người đời tán tụng không? Trước mặt họ là một người đàn bà nhan sắc chưa phải chim sa cá lặn, dung mạo cũng chẳng phô bày nhung lụa, phấn son, nhưng phong thái đoan trang, ngôn từ lịch thiệp, lại nổi tiếng về trình độ học vấn, giỏi thơ nôm, khiến ai cũng cảm thấy hài lòng, mến mộ. Cuộc thi tài diễn ra ngay tối đầu tiên, tất cả các sĩ tử, văn nhân đều bị đánh bại, riêng ông đồ Dương Trí Tản - tính tình ngang ngạnh, tự phụ, là ra vẻ bất cần. Chờ cho đám bạn bè thất trận đi vãn ông mới thủng thẳng tìm đến ra mắt người đẹp. Rít xong điếu thuốc lào, nhả khói mù mịt gian phòng, Trí Tản cố tình ứng khẩu lại bài thơ đã chuẩn bị sẵn:
Eo lưng thắt đáy thật là xinh, điếu ai hơn được điếu cô mình, thoắt châm thoắt bén duyên hương lửa, càng núc càng say tính với tình

Hồ Xuân Hương đối: Giương oai giễu võ thật là kinh, danh tiếng bao năm đã Tản mình, thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa, tài Trí ra sao hỏi tính tình?
Bài thơ tỏ rõ bản lĩnh nhanh nhạy, sắc sảo và cũng không kém phần thẳng thắn, quyết liệt của Hồ Xuân Hương, dùng chính cái tên của ông đồ rởm, gõ đầu trẻ không xong, còn đòi gõ đầu Hồ Xuân Hương? Mượn điếu bát để tỏ tình thân...gái, chưa được gái già này cho phép đã tính chuyện ái ân (hương lửa) trong khi Xuân Hương có cả đống người chạy theo tán tỉnh nơi kinh kỳ, đô hội còn không được nữa là người nghiện thuốc lào, suốt ngày hun khói mù trời, ăn nói ngạo mạn, xấc xược như ông ta. Xuân Hương là con người bằng xương, bằng thịt, thích cảm xúc êm dịu, tao nhã, chứ đâu phải cái điếu bát trơ khấc, để ông muốn bén duyên hương lửa, ân ái vợ chồng lúc nào là có thể đè ra như đè điếu được? Bên cạnh đó còn có cả họ tên của ông Dương cũng được lồng ghép vào. Vừa song phi đã ngã ngựa, ông Trí không dám giữ bộ mặt dương dương tự đắc nữa mà nhân lúc mọi người tản đi vì trời khuya, bèn bấm bụng rút lui, thua tài trí Xuân Hương và trở thành bằng hữu. Từ đó ông ta thôi ti toe, không còn giở thói đàn anh, bắt nạt, lấn lướt, lớp nho sinh, văn sĩ trong làng nữa.

Năm 1788, sau khi treo ba chữ “Cổ Nguyệt Đường” lên, khiến khách văn chương thành Thăng Long tò mò kéo đến tấp nập. Hồ Xuân Hương đã nổi hứng ra vế đối hiểm hóc:
Gái Cổ Nguyệt chơi Hồ cổ Nguyệt, Nguyệt Nguyệt bằng quân tử trượng phu.
Trong vế đối hai chữ ‘nguyệt” ghép lại thì thành chữ “bằng” (朋), chữ “bằng” ở đây có nghĩa là bằng hữu. Vế đối ngầm khoe bàn bè bằng hữu của Cổ Nguyệt Đường đều là bậc quân tử trượng phu.

Phải mấy năm sau, Dương Trí Tản mới đối lại được như sau: Trai Kỳ Sơn chơi núi Kỳ Sơn, Sơn Sơn xuất anh hùng hào kiệt.
Tuy nhiên, những người am tường Hán học bình luận rằng vế đáp của Dương Trí Tản chưa chỉnh so với vế đối của Hồ Xuân Hương, vì tuy vế sau hai chữ “sơn” ghép với nhau thì thành chữ “xuất”, nhưng vế trước chữ “Kỳ” không ghép được với chữ “sơn” để nên nghĩa như chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt”.

Cũng giai thoại này nhưng có thuyết khác lại chép vế ra rằng: Gái Vọng Nguyệt chơi giăng vọng nguyệt, (Nguyệt 月) (nguyệt 月) (bằng 朋) tể tướng công khanh. Ở đây có tên làng Vọng Nguyệt (làng Vọng), huyện Yên Phong, tỉnh bắc Ninh là làng nhiều người đậu tiến sĩ. Ý nói, gái làng Vọng Nguyệt chỉ chơi "giăng vọng nguyệt" là trăng rằm, và kết bạn (bằng 朋) với ai có tài làm tể tướng. Vế đối như sau: Trai Tam Sơn đứng núi Tam Sơn, (Sơn 山) (sơn 山) (xuất 出) anh hùng hào kiệt. Làng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn; nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng có 2 Trạng nguyên là Nguyễn Quang Quan và Ngô Miễn Thiệu.
Vọng nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong) xưa có tên là làng Ngột Nhì. Người họ Chu đến đây khai cơ lập nghiệp đầu tiên. Sau khi ông tổ họ Chu mất, mộ ông được đặt ở đồng Đống Tranh, nhìn xuống một cái ao bán nguyệt. Do vậy, làng được đặt tên tự là Vọng Nguyệt. Vọng Nguyệt nghĩa là trong trăng, đẹp và thơ mộng đến kỳ ảo. Đây là một làng cổ mang đầy đủ bản tính của quê hương Bắc Ninh trong truyền thống: anh hùng và trữ tình. Tính anh hùng được biểu hiện rõ trong câu chuyện dân gian và mối tình sử giữa chàng trai làng Vọng Nguyệt Chu Đình Dự và công chúa Lý Nguyệt Sinh. Họ gặp nhau trong ngày hội xuân và trai tài, gái sắc đã nên nghĩa trăm năm. Gặp khi giặc Tống xâm lấn nước ta, họ đã lập đội dân binh, góp phần vào chiến thắng hào hùng trên sông Như Nguyệt mùa xuân 1077. Nay, Vọng Nguyệt vẫn còn đền thờ Nguyệt Sinh công chúa, mối duyên tình kỳ ngộ giữa người con gái Vọng Nguyệt Chu Thị Bột và chàng thư sinh Tam Sơn Ngô Sử Toàn đã để lại cho người đời một đôi câu đối như trên mà sự kết hợp giữa chữ tình và chữ tài thật quả tùng lai ít thấy.

Gần đây, có người là Hồ Bá Quỳnh xin đổi lại câu của Dương Trí Tản như sau:
“Trai Nhân Sơn gặp tiên Nhân Sơn, sơn sơn xuất công hầu khanh tướng”
Về phía Tây Nam cách làng Quỳnh Đôi khoảng 3km có làng Nhân Sơn. Nay thuộc xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu gần thị trấn Cầu Giát. Ngay trong làng ấy có hòn núi gọi là Lèn Nhân Sơn rất đẹp. Núi Nhân Sơn nay đã bị phá đá nung vôi gần hết. Nhưng truyền thuyết vẫn còn vì đã đi vào lòng dân. Truyền thuyết kể rằng: Nhiều đêm trăng thanh gió mát người ta tưởng thấy các cô tiên thưởng nguyệt cạnh các ông tiên đánh cờ. Dưới chân núi có ngôi đền cổ nhân dân thường hương khói lễ vật phụng thờ. Câu đối này đảm bảo được chữ Nhân là người ghép với chữ Sơn là núi thì thành chữ Tiên (ông Tiên, cô tiên) và hai chữ sơn ghép lại thành chữ xuất như ông Dương Trí Tản đối.
Hồ Bá Quỳnh biệt danh là ông “vua hiến kế” (nguyên cán bộ Ủy ban vật giá tỉnh Nghệ An, ngụ xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) vị Tiến sĩ được coi là một trong những cha đẻ của ý tưởng “Hưu nông dân”, có hàng trăm tờ trình ở tầm kinh bang tế thế, quốc kế dân sinh... làm lợi cho cộng đồng nhiều tỉ đồng, nhưng lại không nuôi nổi vợ con

Hồ Xuân Hương và Khâm sai đại thần
Khi Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, tiến ra Bắc Hà, viên khâm sai lúc bấy giờ được lệnh đi kinh lý các tỉnh có gặp Hồ Xuân Hương để xin câu đối. Bà liền viết:
Thiên tử tinh kỳ đương bán diện (Che nửa mảnh rực cờ thiên tử)
Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ (Trấn ba góc, rõ tài tướng quân)
Câu đối trên có nghĩa đen là: Cờ xí của nhà vua treo khắp mọi nơi, che nửa mặt người. Uy danh của vị khâm sai rất to lớn, bao trùm cả ba cõi. Câu đối được treo lên, vua Gia Long nắc nỏm khen, bàn dân thiên hạ cười mủm mỉm, còn quan bé, quan to giật điếng người...vì phong cách nghịch ngợm của Hồ Xuân Hưng chẳng giấu vào đâu được, khen vua mà lại xỏ ngầm chết vua đấy. Bán diện nghĩa là khuôn mặt chia ra làm hai nửa theo chiều dọc, còn áp tam thuỳ...chỉ khác gì áp vào cái chỗ ba góc da còn thiếu ấy? Đến nỗi chúa dấu vua yêu một cái này thì tướng quân dại gì buông tha? Câu đối được hiểu theo nghĩa ngầm rằng:
Che nửa mặt, rực cờ Thiên tử
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân
Wikiquote
DODUYNGOC chép lại





Vừa rồi có người Thầy giáo cũ vốn là Thầy dạy học của anh ruột tui thời trung học, tui cũng gọi là Thầy, có hỏi tui về mấy câu đối nổi tiếng lâu nay. Trong quá trình tìm tư liệu để trả lời Thầy cho đầy đủ, tui tìm được mấy giai thoại về câu đối của Lê Quý Đôn. Xin chép ra đây mọi người cùng đọc

Lê Quý Đôn thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương, quê ở làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Một lần, Lê Danh Phương cùng các bạn thiếu niên thường ra cái ao rộng trước cổng làng để tắm. Bỗng có một vị quan lớn đi qua; có ý hỏi đường đến thăm nhà quan Thượng Thư Lê Phú Thứ. Cậu bé Lê Danh Phương thản nhiên đứng dạng hai chân, dang hai tay ra để cản đường. Rồi cậu nói: “Đố ông biết chữ gì đây? Nếu biết, cháu sẽ đưa ông về nhà, còn nếu không thì đợi đấy!” Vị quan lớn rất khó chịu và không muốn trả lời… Lê Danh Phương liền giải thích: “Chữ Thái (太), thế mà cũng không biết!”… Cuối cùng, vị quan lớn cũng tìm đến được nhà bạn. Ông rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé trần truồng hồi nãy, bây giờ lại đang ngồi im trên cái ghế đẩu ở trong vườn nhà quan Thượng. Khi nghe vị quan bạn thuật lại chuyện với một thái độ bực dọc, quan Thượng thư Lê Phú Thứ cảm thấy rất ngượng ngùng, xấu hổ với bạn; lập tức gọi Lê Danh Phương vào nhà để mắng, rồi ra điều kiện: cậu phải làm ngay một bài thơ với đầu đề "Rắn đầu biếng học" để xin lỗi cha và bác; nếu không làm được thì sẽ bị đánh đòn. Chỉ một lát sau, Lê Danh Phương đã viết xong bài thơ và thoát được đòn roi của cha.

Nội dung bài thơ như sau:
Chẳng phải Liu Điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha,
Thẹn đèn Hổ Lửa đau lòng mẹ,
Nay thét Mai Gầm rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da,
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo Hổ Mang danh tiếng thế gia

(Để thể hiện lời tự thú, tự trách, tự hứa của bản thân trước người cha và người bạn của cha mình, ngoài việc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nghiêm trang, ngắn gọn, chặt chẽ; ngoài việc sử dụng những yếu tố ngôn từ trong một số câu tục ngữ và đơn vị thành ngữ tiếng Việt rất tế nhị; ngoài việc sử dụng kết hợp từ thuần Nôm với một vài từ Hán - Việt và điển cố văn học khá hợp lý, Lê Danh Phương còn chú ý sử dụng nhiều danh từ tiếng Việt chỉ một số loài bò sát, nhất là một số loài rắn độc. Từ rắn là một danh từ chỉ động vật thuộc loài bò sát, thân dài có vảy, không chân, di chuyển bằng cách uốn thân. Trong bài thơ Rắn đầu biếng học của Lê Danh Phương, từ rắn đầu là danh từ đã được chuyển hóa thành tính từ để chỉ từ rắn trong rắn mặt - một khẩu ngữ; nói về hạng trẻ con không chịu nghe theo những lời dạy dỗ của cha mẹ, bất chấp cả sự răn đe của người trên và trở nên rất bướng bỉnh, khó bảo. Tương tự, từ liu điu là một danh từ chỉ loài rắn nhỏ, có nọc độc ở hàm trên, đẻ con, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái đã được tác giả sử dụng trong câu phá đề theo biện pháp tu từ ẩn dụ để chỉ hạng người không được học hành, bình thường. Từ hổ lửa là một danh từ chỉ loài rắn độc có khoang, màu đỏ như màu lửa được tác giả dùng trong câu thực thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành tính từ thể hiện một phản ứng tâm lý hổ thẹn của con người; ở đây là người mẹ. Từ mai gầm là danh từ chỉ chung loài rắn độc còn có tên là cạp nong, cạp nia. Rắn cạp nong thân có nhiều khoang đen - vàng xen kẽ. Rắn cạp nia thân có nhiều khoang đen - trắng xen kẽ, cỡ nhỏ hơn cạp nong. Từ mai gầm là danh từ được tác giả sử dụng trong câu thực thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành động từ thể hiện thái độ giận dữ, bực tức của con người; ở đây là người cha. Từ ráo trong rắn ráo là danh từ chỉ loài rắn lành, cỡ trung bình, lưng màu nâu, bụng màu vàng, ăn ếch nhái được tác giả sử dụng trong câu luận thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành động từ ráo mép chỉ thói quen nói dối rất xấu của người con trước cha mẹ. Từ lằn trong thằn lằn là danh từ chỉ loài động vật thuộc nhóm bò sát, thân và đuôi dài phủ vảy, bốn chi khỏe, sống ở bờ bụi, ăn sâu bọ được tác giả dùng trong câu luận thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ để chỉ hậu quả ở việc xử phạt của người cha đối với con mình về chuyện biếng học. Từ trâu là danh từ chỉ rắn hổ trâu - một loài rắn hổ mang rất lớn, rất khoẻ, rất độc, da màu đen được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ ấp Trâu; quê hương Mạnh Tử (Trung Quốc). Tương tự, từ lỗ là danh từ liên quan đến nơi ở của rắn, được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất cũng theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ nước Lỗ; quê hương Khổng Tử (Trung Quốc). Từ hổ mang là danh từ chỉ loài rắn độc có tập tính ngẩng đầu, bạnh mang để đe dọa kẻ địch được tác giả dùng trong câu kết thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ chỉ một trạng thái tâm lý của con người (xấu hổ mang danh). Bên cạnh việc dùng hai từ địa danh (Trâu, Lỗ) chỉ quê hương của Mạnh Tử, Khổng Tử; tượng trưng cho Nho học, khi viết bài thơ Rắn đầu biếng học, Lê Danh Phương còn lựa chọn những từ trong một số câu tục ngữ Việt và trong một số đơn vị thành ngữ tiếng Việt để đặt vào những vị trí cần thiết ở đầu đề và cả trong tám câu thơ của bài thơ: từ Rắn đầu trong đầu đề và trong câu thừa đề có trong thành ngữ "Rắn đầu rắn mặt"; từ liu điu trong câu phá đề có ở tục ngữ: "Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu"; từ giống trong câu phá đề có trong thành ngữ "Giống nào ra giống ấy"; từ đau lòng trong câu thực thứ nhất có trong thành ngữ "Đau lòng xót ruột"; cụm từ nay thét mai gầm trong câu thực thứ hai xuất phát từ thành ngữ "Nay thét mai gào"; từ ráo mép trong câu luận thứ nhất có trong thành ngữ "Ráo mồm ráo mép"; cụm từ năm ba trong câu luận thứ hai bắt nguồn từ câu tục ngữ "Năm bà ba chuyện"; cụm từ siêng học trong câu kết thứ nhất bắt nguồn từ câu tục ngữ "Siêng làm thì có, siêng học thì hay"; cụm từ hổ mang danh trong câu kết thứ hai có trong thành ngữ "Xấu hổ mang danh"; và từ thế gia trong câu kết thứ hai có trong thành ngữ "Thế gia vọng tộc". Nhờ phối hợp sử dụng ngôn từ và thể loại hết sức nhuần nhuyễn, tinh tế,

Lê Danh Phương qua bài thơ Rắn đầu biếng học đã nói lên đầy đủ những khía cạnh trong nội dung lời tự thú, tự trách, tự hứa của mình: tuy bản thân vốn sinh ra từ một gia đình có học, nhưng cậu lại ương bướng, ngang ngạnh, khó dạy bảo, không chăm lo học hành; và tự nhận thấy với những lỗi ấy chắc chắn cậu sẽ bị cha xử phạt nặng. Những lỗi của cậu đã làm cho mẹ rất đau lòng, xót ruột mỗi khi thắp đèn cho cậu học, mỗi lần nhóm lửa nấu cơm cho cậu ăn. Những lỗi của cậu không chỉ gợi niềm đau xót, hổ thẹn âm thầm, thường xuyên ở mẹ, mà còn dẫn đến thái độ bực tức, lo lắng, giận dữ ở cha. Dù mẹ có buồn, dù cha có giận và thậm chí nhiều lần đã bị cha xử phạt nghiêm khắc, nhưng cậu vẫn “lếu láo”; nghĩa là vẫn học bài một cách qua loa, đại khái, cốt cho có, cho xong. Mãi đến lúc này, trước một lỗi rất nặng (vừa biếng học, vừa vô lễ), cậu mới thực sự biết nhận lỗi và biết hứa từ nay chăm chỉ học hành để xứng đáng con nhà quyền thế, để xứng danh với truyền thống học phong của gia đình. Cả quan Thượng và vị khách chẳng những hết giận, mà còn tỏ ra rất thán phục về tài làm thơ của cậu bé)

vế đối:
Những muốn Tự Do cho mới nhà,
Thơ câu dại ý cóc mò tha,
Sách lề Đường Luật còng lưng mẹ,
Thầy thưởng Trường Ca mát bụng cha,
Song Thất sao quên câu tuấn kiệt,
Tứ Ngôn chăng nhớ bậc tài ba,
Vững lòng Lục Bát mà vui đạo,
Kim Cổ Phong lưu thi Việt gia
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
(Tự Do, Đường Luật, Trường Ca, Song Thất, Tứ Ngôn, Lục Bát, Cổ Phong là các thể loại thơ. Trong bài thơ này,Cóc dùng với nghĩa là con cóc, ý nói thơ dở, thơ con cóc; Song Thất cũng có thể hiểu là cửa sổ (song) trong nhà (thất); Tứ Ngôn có thể hiểu là ý tứ (tứ) cao lớn (ngôn, vì theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, "ngôn" còn có nghĩa là cao lớn); Lục Bát cũng có thể hiểu là sông Lục, núi Bát thuộc tỉnh Bắc Ninh (bao gồm Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) quê hương những làn Quan họ, một cái nôi của thơ ca Việt Nam. Ngoài ra, Lục Bát cũng có nghĩa là "lục tìm chén bát" để ăn cơm, "có thực mới vực được đạo")

Một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm ông Lê Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn trực tiếp thử tài. Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới.

Ông khách nói: "Ta nghe cháu còn bé mà đã hay chữ, nhà cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là: Tam xuyên (三川)!"
Vế đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét sổ ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên(川). "Tam xuyên" (三川) lại có nghĩa "ba con sông". Lê Quý Đôn chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông khách rất vui vì tìm được vế đối rất hiểm, liền hỏi: "Sao, có đối được không, cháu bé?"

Lê Quý Đôn lễ phép thưa: "Dạ, cháu xin đối là: Tứ mục (四目)!".
"Tứ mục" (四目) có nghĩa "bốn con mắt". Chữ đối lại thật chuẩn, chữ "tứ" (四) viết quay dọc lại, cũng là chữ "mục" (目).

Sinh thời Lê Quý Đôn nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy.

Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ: "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn" (Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi). Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao, cụ lại đọc "chi". Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi: "Bẩm, "chi" nào ạ?" Cụ thở than rằng: "Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?"

Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại (Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó)
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ (Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu)

Thấy câu đối hay và lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc rằng: "Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ "chi" anh ơi". Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại, bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì. Có thuyết khác nói giai thoại này là do cụ già viết cho Cao Bá Quát.

Tuy bị cụ già làm cho bẽ mặt nhưng Lê Quý Đôn vẫn chưa bỏ được tính kiêu ngạo, sau đó ông đến cầu siêu cho cha ở ngôi chùa làng.

Nhà sư trụ trì thấy ông thì mừng rỡ mà rằng: "Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo, chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đối thế này, xin quan chỉ cho:

Hạ bất khả hạ, thượng bất khả thượng (dưới không thể dưới, trên không thể trên)
Chỉ nghi tại hạ, bất khả tại thượng (đúng nên ở dưới, không thể ở trên)

Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra, đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên. Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo.

Qua hai lần gặp cao nhân, Lê Quý Đôn đã bớt kiêu ngạo hơn nhưng cái tính tự mãn chưa thể sửa ngay được trong một sớm một chiều, ông hạ chữ "nghi nhất tự lai vấn" xuống nhưng lại viết mấy chữ: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn” vào cái bảng, hễ đi đâu thì cho thằng đầy tớ đi trước cầm. Một hôm qua đò, ông lái đò nhìn thấy dòng chữ trên rất khó chịu liền nói: "Tôi ra câu đối ông đối được thì để bảng này cầm đi, nếu không đối được thì đập cái bảng đi!"

Lê Quý Đôn đồng ý, thời gian đối là thời gian đò qua sông. Lê Quý Đôn bảo: "Ông xuất đối đi". Ông lái đò nhìn vào khoang thuyền, trên bếp đang nấu thịt con hôn trong nồi ba ông đọc luôn:
Con Ba Ba nấu nồi ba, tam tam chi cửu thật là chín chưng

Lê Quý Đôn nghĩ nát óc cho đến khi đò sang sông mà vẫn không đối được, ông lái đò đập cái bảng ấy đi, từ đó cái tật coi thường người khác của ông mất hẳn vì ông hiểu rằng "mình hay nhưng có người hay nữa".

Câu một có lẽ chúng ta đã rõ ông lái đò chơi chữ “Ba ba” với hai nghĩa (số 3 và con Ba Ba) Câu hai chia thành hai phần: “Tam tam chi cửu (chơi tiếng Hán hoàn toàn có nghĩa là : ba lần ba là chín, và cửu vừa là số 9 vừa là tính từ “chín”); “thật là chín chưng” nghĩa tiếng Việt hoàn toàn như “chín ngấu, chín mùi, chín rục...

1. Gần đây có người là Diên Minh đối như sau: Chim Đa Đa đậu nhánh đa, vô vàn trú thất khéo mà lạc nhau
(Vế một dùng “Đa đa” với hai nghĩa (chim Đa Đa và nhiều), đạt tiêu chuẩn của vế xướng. Vế hai với phần một: “Vô vàn/trú thất”với từ Việt là “vô vàn”, từ Hán là “trú thất” (Thất : động, lều, chỗ trú đơn giản - còn có nghĩa là mất, thất lạc); phần hai thuần Việt “khéo mà lạc nhau”. Vô vàn:(无穷多: nhiều nhiều, đọc trại ra cho dễ nghe của nguyên từ “vô vạn” là từ Hán. Do đó, câu đối của Diên Minh có thể nói là đạt yêu cầu được 90% (vế một 50% + vế hai 40%)

2. Vế đối khác 1: Chim cô cô đáp nhà cô, đơn đơn như nhất líu lô một mình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Wikipedia, chim cô cô có 2 loại: Cô cô đầu xám (Cochoa Purpurea ) và Cô cô xanh (Cochoa viridis). Cô cô đầu xám được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, và Việt Nam. Chim Cô cô đầu xám là một loài chim màu sắc rực rỡ, thích sống yên tĩnh, nó thường hay đứng bất động một mình trong các tán cây. Chữ cô được dùng trong từ "nhà cô" có thể hiểu theo nghĩa danh từ (như cô giáo, cô gái, cô cậu...) hoặc theo nghĩa tính từ (cô thân độc mã, cô quạnh...). Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, chữ "cô" còn có nghĩa là một mình, chữ đơn cũng còn có nghĩa là một mình. Đơn đơn như nhất dùng ý nghĩa 1x1=1 để đối với 3x3=9 của vế ra. Có thể thay cụm từ "Đơn đơn như nhất" bỡi "Nhất nhất như nhất" mà vế đối không thay đổi ý nghĩa. Vế đối tả một con chim cô cô đậu một mình trên một ngôi nhà cô độc (hoặc ngôi nhà của cô giáo "hay cô gái, bà cô" chỉ ở một mình)

3. Vế đối khác 2: Biển mười mười cấp anh mười, thập thập đẳng bách sướng cười trăm vui (Thiền Long) ("Con ba ba" là danh từ chung chỉ con vật thuộc loài ba ba. "Nồi ba" cũng là danh từ chung; Phần đầu vế đối: "Biển mười mười" là danh từ chung chỉ biển số đăng ký cho các xe có số thứ tự 1010. Trên thực tế Biển số 1010 được gọi theo các cách: "một không một không" hoặc "mười mười" hoặc "một nghìn không trăm mười"; "Anh mười" chỉ chung người anh thứ 10; Phần hai vế đối (số hán việt) : thập = 10; bách = 100; thập thập đẳng bách: 10X10=100, phần thuần việt "sướng cười trăm vui" : diễn tả trạng thái đạt niềm vui lớn "trăm vui" vì biển số đẹp, chữ "trăm" lặp lại nghĩa chữ "bách" đối chữ "chín" lặp lại nghĩa chữ "cửu")

4. Vế đối khác 3: Đường hai hai qua nước hai, nhị nhị thành tứ đúng bài tư duy (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Đường 22 là quốc lộ Xuyên Á từ Tây Ninh qua Cam pu chia là nước thứ hai sau Việt Nam)

Vế đối khác 4: Mười mười đúng cả vừa mười. Thập thập như bách đúng rồi trăm nguyên. (Nguyễn Sư Giao)





Ngày trước, những nhà giàu sang, phú quý, nhà quan lớn, tiệm buôn bán lớn thường có câu đối ở ban thờ hay ở trước cửa hiệu. Những câu đối này như lời giới thiệu gia thế hoặc ước vọng của chủ nhân. Giới thiệu một số câu đối tiêu biểu ở ba miền.

- Câu đối gắn trước của hiệu của một số gia đình ở huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng
Gia đình có cửa hiệu mang tên Mộc Lợi:
Mộc gia tiên đức sáng cơ nghiệp (Cái đức đời trước của gia đình họ Mộc an dựng nên cơ nghiệp)
Lợi phát tài nguyên chấn gia thanh (Nên lợi lộc tiền tố đời nay làm uy danh gia tộc mình thêm)

- Gia đình có cửa hiệu mang tên Kim Lợi:
Kim ngọc mãn đường tích thiên tứ (Vàng ngọc đầy nhà là do thụ hưởng được ơn của trời)
Lợi lộ hanh thông vạn đại xương (Con đường lợi lộc có tốt đẹp là do gia tộc: muôn đời làm điều tốt)

- Câu đối treo ở cửa nhà anh thợ mộc ở Tiền Giang
Cuối thế kỷ XIX, ông Nguyễn Minh Triết ở làng Đông Mỹ Thượng (Cai Lậy, Tiền Giang) viết đôi câu đối cho anh thợ mộc hay dùng bùa trừ yểm hại nhà chủ, để anh ta treo bàn thờ tổ sư:
Anh linh thiên tải hộ (Anh linh nghìn năm phù hộ)
Hiển hách vạn thu truyền (Hiển hách vạn thủa lưu truyền)
Câu đối này đọc qua thì thấy câu đối rất hay, tứ sâu, nghĩa đẹp. Nhưng đọc lái thì…"tải hộ" thành "tổ hại"; "thu truyền" thành "thiên trù" (trời trừ). Làm ăn như thế thì chỉ tổ hại hoặc hại đến tổ tiên, sẽ bị trời trừ, trời úm.

- Câu đối khắc tại nhà Nguyễn Đăng Tại làng Đại Mão-Trung Thôn, Bắc Ninh
Thôn Đại Mão có tên chữ là "Đại Mão Trung" tên nôm "Làng Giữa", thuộc xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trong làng có cụ Lê Nho Thầm là con của cụ Lê Nho Cúc, thường gọi là cụ giáo Cúc. Ông Thầm có người con gái lớn là Lê Thị Đăng sau khi tốt nghiệp Trung cấp sư phạm thì đi dạy học và xây dựng gia đình cùng với Nguyễn Đăng Tại người thôn Lam Cầu, Nguyễn Đăng Tại là Phó Giám đốc Công ty Thông tin tín hiệu Bắc Giang. Nhận thức và cũng là để giáo dục cháu con về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người với gia đình và xã hội, tại cổng nhà, Nguyễn Đăng Tại tự tay viết đôi câu đối nói về cái cổng, nơi phân giới giữa xã hội và gia đình :
Nhất phiến ám vân, phụ tử tôn tằng xuất quá tuân pháp luật
Song long giới địa, công hầu tao mặc nhập nội thị gia phong
Tạm dịch nghĩa:
Trên có nóc che trời, cha con cháu chắt ra ngoài nhất nhất phải tuân theo Pháp luật của Nhà nước
Hai cột ngăn cách giữa trong nhà - ngoài đường, bất kỳ ai dù là công hầu khanh tướng khi vào tới nhà cũng phải tuân theo nền nếp của gia đình

- Những câu đối ghi chép trong sách "Tam xã đăng khoa lục" ở xã Tứ Trưng
Tam xã đăng khoa lục là cuốn sách ghi chép các nhà khoa bảng của ba xã Kẻ Rưng là Văn Trưng, Lăng Trưng và Hiến Trưng, xưa thuộc huyện Bạch Hạc phủ Tam Đái trấn Sơn Tây nay là xã Tứ Trưng, gồm ba thôn Văn Trưng, Vĩnh Trưng (trước là Lăng Trưng) và Thế Trưng (trước là Hiến Trưng) thuộc huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài ra còn có thôn Bảo Trưng (trước là Nhủ Trưng) nay đã cắt sang xã bên. Hiện nay còn lại đôi câu đối ca ngợi ba xã có nhiều người thi đỗ làm quan:
Câu đối của nhà thờ họ Nguyễn:
Đồng thế đồng triều tam Tiến sĩ
Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh qui
Nghĩa là:
Cùng thời ba vị Tiến sĩ làm quan cùng triều
Một nhà hai người thi đỗ về làng vinh quy một ngày
Câu đối ở nhà thờ họ Nguyễn nhưng có ý nghĩa đối với cả xã. Ba vị tiến sĩ là hai cha con cụ Nguyễn Tiến Sách, Nguyễn Đình Toản và cụ Đỗ Hi Thiều
Câu đối ở nhà thờ họ Đặng:
Bách thế xưng thần lịch niên dữ quốc
Bát thôn cư thủ do tộc nhi hương
Nghĩa là:
Làm quan trăm đời nhiều năm giúp nước
Giữ đất tám thôn nhờ họ nên làng
Vế trên của câu đối họ Đặng cũng như các họ khác trong xã có nhiều người nối đời làm quan. Còn vế dưới nói về nghiệp võ của họ Đặng

- Câu đối treo ở ban thờ gia đình ông Phạm Vũ Ngọ ở xóm 3 Đôn Thư huyện Thanh Oai
Xuân hoa mãn mục, hỷ khí doanh môn
Tử đệ tân cần, xuân phong nhập hộ
Vào cuối đời Nhà Trần (trước sau năm 1375), có ba anh em một nhà ở đất Ái Châu thiên cư ra Bắc tìm đất lập nghiệp, trong đó Phạm Tiên Công chọn vùng Thời Trung – Đôn Thư, sau đã định cư ở Trang Thời Trung (tức xã Phương Trung bây giờ) và trở thành Thủy Tổ của Phạm Tam Chi nơi đây. Sau khi nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, song cũng phải đến năm Gia Long thứ 6 (1807), khoa thi Hương đầu tiên sau một thời gian gián đoạn mới lại được tổ chức. Khoa thi đó ở Đôn Thư có hai chú cháu cùng đi thi là cụ Phạm Đình Dư (đời thứ 6) và cụ Phạm Vũ Quyền (đời thứ 7), cả hai cụ đều thi đỗ. Phạm Vũ Quyền khi dự thi tuổi còn thấp, còn chưa có tên trong sổ đinh, phải mượn tên của chú ruột là Phạm Vũ Phác. Tư nghiệp Phạm Vũ Phác sau được phong Tế Tửu. Tế tửu Phạm Vũ Phác (tức Phạm Vũ Quyền) khi về hưu trí, được vua ban áo bào, được cấp tiền làm nhà dưỡng lão và được mang đôi biển “Hồi tị – Túc Tĩnh” về quê sử dụng như ở nhiệm sở khi còn đương chức. Cụ nghỉ hưu ở quê, dân làng thường gọi cụ là “Cụ Tế”, năm cụ qua đời, nhà vua gửi viếng đôi câu đối:
“Sự nghiệp tam triều vọng
Văn chương nhất quốc sư”

- Những câu đối khắc tại 1 số ngôi nhà cổ ở làng Phú Mộng - thành phố Huế
Nhà vườn Phú Mộng là cách gọi chung cho các ngôi nhà vườn hiện diện trong khu vực Phú Mộng phường Kim Long thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. "Phú Mộng viên" là vườn của ông Hoàng Xuân Bậc, ngôi nhà xưa nay vốn là phủ thờ Tôn Thất Thuyết. "An Lạc Viên" lại là ngôi nhà vườn theo một cách riêng của ông Võ Văn Long, nơi du khách có thể đọc thấy ý tứ của gia chủ qua việc chọn cây, bày cảnh và thưởng thức tài nữ công gia chánh của mẹ con bà chủ vườn. Bà Mai Thị Kim Hoàn và cô con gái Mai Chi đã bày trên chiếc bàn tre góc vườn những lẵng bánh trái được làm y hết hoa quả thật. Không ai nghĩ những đào, lê, táo, lựu... kia lại được làm từ... bột cộng với tài hoa gia chánh của phụ nữ Huế. Trước cổng ngôi nhà vườn bà Phạm Thị Túy - xưa là nhà ở của thượng thư bộ lễ Phạm Hữu Ðiền, có đôi câu đối:
Nhập thất hoán hiệp tương đức mỹ
Thường môn thảo mộc cộng tri xuân
Tạm dịch:
Vào nhà, cái lớn nhất là đạo đức và vẻ đẹp
Ở ngoài cửa, màu xanh hoa lá cỏ cây cùng nhau làm nên cảnh sắc
Trong gian giữa nhà ông Võ Văn Long là hai câu:
Ngũ hoa đài phán hương sơn vĩ
Thốn thảo thừa hoang cẩm thượng y
Tạm dịch:
Mùi hương của đám đài hoa rụng ẩn mình trong ngàn lau lách
Sắc màu của thảm cỏ hoang như một chiếc áo gấm

- Câu đối khắc tại ngôi nhà cổ độc đáo tại Tiên Cảnh, Tiên Phước, Quảng Nam
Huỳnh Thúc Kháng hiệu Mính Viên, Mính Viên tức "vườn chè", nghĩa rộng hơn là người sinh ra tại xứ "vườn chè". Nơi ấy, một vùng đồi núi bát úp dựa lưng vào dãy Trường Sơn. Có thời gian "Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an" đã lui gót về quê nuôi chí. Căn nhà xưa nay đã trở thành di tích tại thôn 5, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Trong nhà còn lưu đôi câu liễn bị mối mọt thời gian gặm nhấm dần nhưng tâm niệm và khí tiết của chủ nhân đầu tiên, xuất thân nhà nho trong họ của cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn đó: "
Bách tải triệu bằng bồi phước trạch
Nhất sinh trì thủ trọng can trường
Năm 1939, Ngô Đình Diệm lúc đó là thượng thư, vào Quảng Nam chơi với anh mình là tổng đốc Ngô Đình Khôi, nghe tiếng ngôi nhà tìm đến thương lượng. Hôm đó buổi trưa. Tri huyện Tiên Phước Phạm Xuân Chánh dẫn đầu đoàn người ngựa đi trước, Thượng thư Ngô Đình Diệm đi sau. Ông Chánh mới nói: "Cụ thượng muốn mua lại căn nhà!" Người cháu bên họ ngoại của Huỳnh Thúc Kháng là Nguyễn Huỳnh Anh lúc đó là chủ sở hữu ngôi nhà đã từ chối rồi chỉ cho mọi người câu đối treo trên cột. Kể xong ông đọc luôn:
"Tổ đức càn khôn đại
Tôn công nhật nguyệt đường"
Căn nhà ông cố để lại coi như được dựng nên từ phước đức ông bà, không thể bán!

- Những câu đối khắc trong các ngôi nhà cổ ở Hội An có nội dung khuyên con cháu học hành
Canh độc lưỡng đồ, độc khả vinh thân canh khả phú (Nông học đôi đường, học sớm vinh thân nông sớm phú)
Kiệm cần nhị chí, cần năng sáng nghiệm kiệm năng thành (Kiệm cần hai chữ, cần cù sáng nghiệp kiệm thành công)
Thập niên song hạ vô nhân vấn (Mười năm đèn sách không ai hỏi)
Nhất cử thành danh thiên hạ tri (Thi trúng thành danh thiên hạ hay)
Thư sơn hữu lộ cần vi kính (Núi sách có đường, biết cần cù sẽ tìm ra đường ấy)
Học hải vô nhai khổ tác chu (Biển học vô bờ, khổ luyện sẽ là con thuyền đưa về bến thành công)
Quân tử tâm năng khuất năng thân tùy cơ ứng biến (Lòng người quân tử phải biết duỗi co tùy lúc và phải biết tùy cơ ứng biến)
Thiên hạ sự vô nan vô dị hữu chí cánh thành (Việc trong thiên hạ không khó cũng không dễ miễn có chí tất sẽ thành công)

- Những câu đối khắc trong nhà ông Trần Công Vàng, P. Phú Cường, Tx. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương
Chánh tâm vi tiên, minh đức triệu cơ truyền thế viễn
Trung lập bất ỷ, thánh ngôn thuỳ huấn lịch niên tân
Nghĩa là:
Trước hết tâm phải chính, làm sáng đức để xây dựng cơ nghiệp lâu dài
Tự lập, không ỷ lại, lời thánh nhân truyền dạy mãi với thời gian
Và:
Sáng nghiệp duy nan, tổ phụ tu thường tân khổ
Thủ thành bất dị, tử tôn nghi giới xa hoa
Nghĩa là:
Sáng lập nên sự nghiệp khó khăn, tổ phụ phải trải qua nhiều cay đắng
Giữ lấy không dễ, con cháu chớ nên xa hoa

- Câu đối ghi trong cuốn Gia Phả họ Trương ở Đáp Cầu - Bắc Ninh
Yến dực di mưu vinh Bắc địa (Cánh Én đưa tin từ đất Bắc dành cho đời sau sự vinh hiển)
Hồng cơ biệt phái nhẫn Trương môn (Chim Hồng đặt để nhà họ Trương mềm dẻo) (Biệt phái: có phái riêng từ cội gốc dấy lên)
Nghĩa bóng (ý tại ngôn ngoại – ý vượt ra ngoài lời) của câu đối này vô cùng thâm thúy, vô cùng ảo diệu và uyên bác. Nước Yên dành máu từ đất Bắc (vinh=máu), Hồng hạc mang hình bởi họ Trương. “Hồng Hạc” trong vế sau của câu đối là hình ảnh con chim Hồng (chim Lạc) đã được khắc họa trên trống đồng -một dạng biểu tượng quốc huy của người Bách Việt cổ. Ở đây cùng ngầm ý rằng: người họ Trương từ thời đại Hùng Vương, Hồng Bàng đã tham gia phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng cơ đồ Bách Việt. Họ Trương có gốc gác từ Thanh Hà quận ở Trực Lệ hay Phúc Kiến, đều thuộc nước Yên của đất Bách Việt cổ phía nam sông Dương Tử, di cư về phương Nam vì nhiều lý do và giai đoạn khác nhau trong lịch sử.

- Câu đối ghi trong Gia Phả họ Phùng ở Nam Cường
Qua khỏi cầu đường sắt Yên Xuân, rẽ phải khoảng 1km bên bờ hữu ngạn sông Lam là xóm 1, xã Nam Cường, Nam Đàn, Nghệ An. Đền thờ các tiên tổ họ Phùng có hai tòa khá khang trang, đẹp đẽ, ở tách riêng ngoài xóm, nằm giữa đồng ruộng thoáng đãng. Đền thờ xưa thuộc làng Xuân Trạch, xã Hạ Khê, tổng Phù Long, huyện Hưng Nguyên, nay thuộc xã Nam Cường, huyện Nam Đàn. Gia phả dòng họ Phùng ở Nam Cường được lập vào năm 1788, do Thượng tướng, Quận công Phùng Viết Đán biên soạn. Trong Gia Phả có ghi chép 1 câu đối nội dung như sau:
“Phù Long sinh hào kiệt phụ quốc công cần lưu quốc sử
Phùng tộc hiển phúc thần độ dân ân đức thấu nhân tâm”

- Câu đối trong cuốn Lều Chõng của Ngô Tất Tổ
"Thuỷ ứng Chu hoa tam bạch hậu,
Trường trưng Thương quả thập hoàng sơ".
Chu đối Thương, (Nhà Chu nối tiếp sau nhà Thương và trước nhà Tần ở Trung Quốc) Hoa đối Quả, Tam đối Thập, Bạch đối Hoàng, Hậu đối Sơ. Từng chữ một đối nhau chan chát, Câu này được tác giả cho là "Thần Cú".

- Câu đối trong cuốn Bút Nghiên của Chu Thiên
Vế ra: Ba Sĩ ngồi một Kỷ, đội đức Đường Nghiêu (“Ba chữ sỹ 士 đè trên chữ kỷ 几 thì thành chữ Nghiêu 堯”)
vế đối: Một Bách xách hai Cung, đáng tài Lý Bật (“Chữ Bách 百 kẹp ở giữa hai chữ Cung弓, gọi là chữ Bật 弼”)
Đường Nghiêu là những vị vua giỏi trong lịch sử Trung Quốc. Chữ Nghiêu có ba chữ Sĩ ở trên chữ Kỹ là ghế: ba sĩ ngồi một ghế trong truyện cũng để tả cảnh ba người có học cùng đến cầu hôn). Lý Bật là vị tướng giỏi đời Lý- Đường được phong tước vương ngang với Quách Tử Nghi. Chữ Bật có một chữ bách ở giữa và hai chữ cung ở hai bên
Hoặc câu đối chữ nôm :
Vốn giòng thi lễ đôi tám xuân thu, gặp khách thư sinh đem lòng dục dịch
Trong câu này có lấy tên ngũ kinh là : Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu
Câu này đuoc đối lại: Đệ tử Trương Chu mười năm Khổng Mạnh, thấy nàng nhan sắc nên phải thưa trình.
Trong câu đối lại có lấy tên họ các bật thánh hiền là : Khổng Tử, Mạnh Tử và Trương Tử, Chu Tử, Trình Tử. Ba vị sau là ba vị danh nho đời Tống.

- Câu đối “mừng đám cưới” trong sách “Giai-Thoại Câu Đối” của Quỳnh-Liên-Tử Bảo Vân Bùi Văn Bảo (1917 - 1998)
Bùi Văn Bảo hiệu Bảo Vân và Bê Bình Phương sinh tại Thái Bình. Tốt nghiệp lớp Sư phạm năm 1940, trường Bưởi ở Hà Nội, Việt Nam. Vào Sài Gòn viết thêm cho báo Tự Do (mục Ðàn Ngang Cung) cho Ca Bắc (ở Sài Gòn) năm 1956 nghỉ viết báo, soạn sách giáo khoa tiểu học và xuất bản báo Tuổi Xanh cho thiếu nhi. Năm 1975 di cư sang Canada lại soạn sách dạy tiếng Việt cho trẻ em và viết thơ và văn cho nhiều báo ở hải ngoại. Trong bài thơ "Giữ gìn tiếng Việt" có hai câu mở đầu mà nhiều người biết là:
Chỉ sợ đàn con quên Việt Ngữ
Ðừng lo lũ trẻ kém Anh Văn
Trong tác phẩm Giai Thoại Câu Đối có có ghi chép về 1 đôi câu đối mừng đám cưới như sau rất độc đáo như sau:
“Tơ hồng vương vấn, cho nên em về làm dâu ông Hoa-Thịnh-Đốn
Nguyệt lão xe duyên, thành ra anh đi ở rể bà Trưng-Nữ-Vương”

- Câu đối của danh nhân Nguyễn Sinh Khiêm khắc tại nhà thuốc Đông Cát - thành phố Huế tỉnh Thừa Thiên
Nguyễn Sinh Khiêm (1888 - 1950) còn có tên Nguyễn Tất Đạt, là anh ruột của Nguyễn Tất Thành, người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Khoảng năm 1936-1939, ông thường ghé vào tiệm thuốc bắc thầy Đoàn Ngọc Phách (cháu nội thầy Cảnh, ở Sịa) ở chợ Kệ đàm đạo và cân thuốc. Năm 1943-1944, ông có đi lại vùng Kim Long, thường lui tới tiệm thuốc bắc Đồng Cát (của thầy Hườn, Kim Long). Gia đình này quen gọi thầy Nghệ là Cụ Cố Đạt. Nhìn tiệm thuốc có tên Đồng Cát, ông lấy 2 chữ đầu làm đôi câu đối:
Đồng chí, đồng tình, kiêm đồng đạo
Cát tâm, cát sự, tịnh cát tường

- Câu đối khắc tại Nhà Thuốc Đông Y Gia Tuyền Trần Ngọc Chấn
Nhà Thuốc đông y gia truyền Trần Ngọc Chấn phòng 6 ngõ 84 Hoàng Đạo Thành- Kim Giang- Thanh Xuân- HN. Theo gia phả họ Trần còn ghi chép lại được thì Cụ thượng tổ khởi nghiệp y đời thứ nhất là Cụ Trần Hữu Tạo (1580 - 1650) đến Lương y Trần Ngọc Chấn (1916-1995) là đời thứ 13, lương y Trần Ngọc Tấn (con trai lớn của cụ Chấn) là đời thứ 14 và đến bác sỹ Trần Thịnh là đời thứ 15 liên tục kế thừa. Lương y Trần Ngọc Báo (1873-1963) Đời thứ 11 có sở trường trị bệnh nhi khoa, thuốc suy dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, đặc biệt có kinh nghiệm chữa bệnh đậu mùa, dập được nhiều vụ dịch tiêu biểu như vụ Cụ cứu trăm người dân xã Quảng Nạp huyện Thanh Ba - Phú Thọ do vậy vì cảm ơn đức của Cụ chức sắc và dân làng đã tặng Cụ đôi câu đối chữ Hán:
"Hạc toán tràng sinh, quế tử lan tôn bằng hậu ấm
Long chân đế vượng, kim tinh ngọc kiểm khế linh thuyên"
ý nghĩa:
Tuổi hạc bền lâu, con quế cháu lan nương bóng cả
Lộc tài thịnh vượng, vàng dòng ngọc nén chứa đầy kho

- Những câu đối ghi chép trong tập sách Hán Nôm ở tư gia cụ đồ Nguyễn Tòng Mậu
Nguyễn Tòng Mậu là thầy đồ định cư tại ven sông Cái Cối, xã An Hữu, đối diện đình thần An Hữu - đình Rạch Chanh, tại nhà cụ hiện có 1 tập sách quý. Đó là một tuyển tập gồm nhiều tác phẩm rất đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung. Chữ trong tập sách hoàn toàn là chữ viết tay, phần lớn tương đối dễ đọc vì thống nhất về nét viết, kiểu chữ và phong cách trình bày. Tuy nhiên, khoảng mươi trang về cuối trình bày không ổn định và chữ viết khó đọc, có thể là do người khác viết thêm vào. Trong tập sách này có ghi chép lại 1 số câu đối khá hay như sau:
* Câu đối cháu ngoại khóc ông:
“Nhớ thuở ông còn ông dắt cháu, cháu biết chững; ông nâng cháu, cháu biết cười; nhấc công đức ấy mà cân, nội ngoại hai bề, yêu thương một lòng coi cũng thế.
Bây giờ cháu đến cháu hỏi ông, ông chẳng thưa; cháu tìm ông, ông chẳng thấy; nghĩ cảnh tình này mà ngán, âm dương đôi ngã, nhớ thương chút dạ biết bao nguôi.”
* Câu đối của Trung Bắc và Học báo:
“Hơn mười năm một ngọn bút ngôn đàn, vẫy vùng ngoài bắc trong nam, dốc nhiệt thành gây dựng lối văn ta, công ấy dễ cùng cây cỏ mục.
Trong sáu tháng hai lần tang báo quán, ngao ngán người còn kẻ khuất, mở di thảo ngậm ngùi màu mực cũ, sầu này theo với nước mây xa.”
* Câu đối do ông Nguyễn Mạnh Bỗng điếu ông Phan Kế Bính, ông Bỗng đã trích chọn những sự kiện, công việc, chí hướng, tính cách của ông Phan Kế Bính, sắp đặt chúng trong một cấu tứ huyền diệu của loại câu đối mà viết nên những dòng ca ngợi công lao người đã khuất và bày tỏ tấm lòng kính trọng, nể phục của ông:
“Tình nặng với giang sơn, khi bôn tẩu, khi hô hào, Nam Bắc hai Kỳ, làng báo sinh nhai, mấy độ quốc dân tâm đã mệt.
Công to cùng học giới, nào dịch phiên, nào trước tác, lâm lang mấy bộ, nhà Nho sự nghiệp, ngàn năm văn học sử còn ghi.”
* Câu đối Tết:
“Cũng muốn trồng nêu e quỷ khiếp
Rắp toan nổ pháo sợ trời kinh”
* Câu đối hôn sự:
“Bình giai lão rượu đào dâng rót, vách đề thơ ghi tạc trăm năm
Khay hợp hoan trầu quế bưng mời, sân nổ pháo vui mừng hai họ”

- Câu đối do nhà thơ Lê Khả Sĩ viết tặng nhà thuốc Nguyễn Hữu Toàn ở Hải Phòng
Lương y Nguyễn Hữu Toàn là cháu nội của Y Gia Nguyễn Hữu Hách, được sự đồng ý của cụ Hách và gia đình (sau khi cụ mất), Lương y Nguyễn Hữu Toàn đã thành lập “Phòng khám đông y Nguyễn Hữu Toàn”. Năm 1995, Nguyễn Hữu Toàn đã làm được phần mềm hỗ trợ cho chẩn đoán, điều trị bằng thuốc đông y; quản lý theo dõi bệnh nhân và kiểm chứng hiệu quả chữa bệnh của từng bài thuốc. Sử dụng phần mềm này, thầy thuốc có thể kiểm tra, thống kê kết quả chữa bệnh trong nhiều năm đối với từng loại bệnh, từng bài thuốc vào bất cứ thời gian nào một cách dễ dàng chỉ mất vài chục giây. Năm 2000, Hội Đông y Việt Nam cùng Sở Y tế Hải Phòng, Thành hội đông y Hải Phòng đã thăm quan và biểu dương sáng kiến của chương trình này. Nhà thơ Lê Khả Sĩ có tặng nhà thuốc đôi câu đối nội dung như sau:
Hữu Nghĩa Hữu Tình Để Đức Độ Hoá Niềm Vui Hậu Thế
Toàn Tâm Toàn Ý Lo Yên Lành Cho Sự Sống Nhân Dân

- Những câu đối khắc tại di tích vườn An Hiên thành phố Huế
Di tích vườn An Hiên tọa lạc tại thôn Xuân Hòa, xã Hương Long, ở khu vực tả ngạn sông Hương thuộc ngoại ô thành phố Huế. Nhà rường này nguyên là phủ An Hiên do ông Phạm Đăng Thập xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, Đầu thế kỷ XX, ông Thập để phủ lại cho ông Tùng Lễ về làm giám thủ nhà thờ Đức Quốc Công. Năm 1934 ông Tùng Lễ bán lại cho ông bà Tuần phủ Nguyễn Đình Chi và Đào Thị Xuân Yến. Nằm giữa hai trụ và sát lối ra vào có 2 con dơi sãi cánh nhìn xuống cổng miệng ngậm câu đối bằng chữ Hán khảm sành màu xanh viết trên tàu lá chuối thả dọc theo cổng đọc được như sau:
Bình Sơn ái đãi vân thiên đóa
Hương Thủy trừng ngưng nguyệt nhất huyền
Tạm dịch:
Bình Sơn mờ mịt mây nghìn đóa
Hương Thủy trong veo nguyệt một vầng
Từ cổng chính đi theo con đường đất dài 34m sẽ thấy bức bình phong lớn nằm uốn mình hơi chếch về hướng tây che chắn nhà thờ chính. Mặt ngoài bình phong ở hai bên chữ Thọ có câu đối bằng chữ Hán viết màu sơn đen trên nền đỏ đọc được như sau:
Xuân Thủy liên vân nhạn tân cạnh độ
Hòa phong nhập thụ hoa tín tài văn
Tạm dịch:
Mây rợp sông xuân chập chờ nhạn liệng
Cây vờn gió nhẹ thoang thoảng hoa đơm
Gian giữa nhà thiết bàn thờ phật Thích Ca và bàn thờ gia tiên, hai cột trước gian thờ treo đối diễn chữ chân pha thảo:
Thử chí tại cao sơn lưu thủy
Kỳ nhân như thủy trúc bích ngô
Tạm dịch:
Chí ấy ở non cao nước chảy
Người kia như trúc biếc ngô xanh
Trong gian thờ có bức trướng gấm thêu câu đối:
Hồng Lĩnh nãi Hà Bắc chi hùng, quốc tráng phiên hà tư trọng thọ
Long Cương thi ngộ châu chi thắng, gia liên phiệt duyệt xuất danh thần
Tạm dịch:
Cõi Bắc có Hồng Lĩnh hào hùng, đất nước cõi bờ thêm trọng thọ
Quê ta có Long Cương thắng cảnh, nếp nhà dòng dõi nẩy danh thần

vi.m.wikiquote.org


Buổi chiều rất lạ ngồi bên ghế đá
Nghe gió thở dài gọi tên một người
Có vết đau nào còn hằn trên má
Sóng vỗ miên man tựa tiếng ai cười


Buổi chiều rất lạ nghe tiếng chuông xa
Có tiếng cầu kinh từ những căn nhà
Hoa phượng rỏ máu thấm con đường nhỏ
Chẳng còn tiếng ve khi trời vào hạ

Buổi chiều thật lạ với lắm bôn ba
Ta đợi chờ ai giữa mấy sân ga
Người đã đi qua không lần ngó lại
Trong những chua ngoa mong chút thật thà

Buổi chiều thật lạ phố chẳng còn ai
Trong cơn mộng mị chợt giấc mơ bay
Cây rớt lá vàng mùa thu chưa tới
Có kẻ thẫn thờ nghe những tàn phai

Buổi chiều rất lạ chỉ toàn ghế trống
Bè bạn ra đi biết bao trông ngóng
Có tiếng dương cầm buồn hơn nước mắt
Ta ngồi buồn thiu như người mất bóng

Buổi chiều rất lạ thèm bàn tay ai
Bên khung cửa nhỏ ấm cả bờ vai
Bờ môi không son giờ thành nỗi nhớ
Một khúc bi ca cây ngã đường dài
8.6.2020
DODUYNGOC

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget