Articles by "Truyện ngắn"



Hắn và cô ấy học cùng trường, hắn trên cô ấy hình như ba lớp. Từ nhà hắn đến trường, đi nửa đường là nhà cô ấy nên thường gặp nhau. Hồi đó học trò thường đi bộ, một số bạn bè đã có xe gắn máy nhưng bố hắn không cho đi xe sợ nguy hiểm, chỉ thỉnh thoảng rảnh rỗi bố hắn chở hắn đến trường, nhưng chỉ năm thì mười hoạ. Thường thường gặp nhau trên đường, hôm thì hắn đi trước, cô ấy đi sau. Những khi như vậy hắn thường đi qua bên kia đường, đi chậm lại cho nàng đi trước rồi băng lại qua đường đi sau lưng nàng một quãng. Hôm nào ngẫu nhiên đi sau, hắn cứ tà tà lẽo đẽo đằng sau, cách hơn mười thước. Hắn khoái đi sau lưng cô ấy để được ngắm những bước chân đi, nhìn gót chân hồng hồng trong đôi guốc mộc, nhìn dáng đi chậm rãi có vẻ đoan trang, thuỳ mị, con gái thời đó được dạy thế, nhìn suối tóc dài đen mướt buông thả ngang lưng với tà áo trắng. Chỉ thế thôi mà lòng rộn rã. Con đường đi qua nhưng hàng phượng đỏ, thuở ấy con đường này đầy phượng. Mùa nắng, hoa phượng đỏ rực dưới bước chân nàng. Trên cao những chùm hoa phượng đỏ rực rỡ trên nền trời xanh. Một cơn gió thoảng qua, nhiều cánh hoa như những giọt máu bay trong gió. Ôi cái thời thật hồn nhiên và lãng mạn. Cô ấy có biết hắn theo không, hắn nghĩ là có biết bởi cũng có nhiều lần cô ấy quay nhìn lại, đôi mắt tròn xoe như có nụ cười. Và hắn làm thơ, viết bao nhiêu là bài thơ về mối tình một chiều đang ươm mầm và lên lá trong lòng cậu học trò lớp đệ tam. Ngày nắng hay ngày mưa, hắn vẫn như cái đuôi suốt đoạn đường đến trường lúc đi cũng như khi về. Con đường đấy có một nhà thờ, thỉnh thoảng giấc trưa đi học về có tiếng chuông ngân nga, mỗi chiều có tiếng kinh cầu. Hắn có viết một bài thơ có tiếng chuông ngân và lời kinh cầu đó.
Hình ảnh ấy kéo dài suốt hai năm mà cũng chẳng có gì thay đổi. Vẫn cô nàng đằng trước và hắn phía sau suốt hai niên học. Hắn học nhảy, năm đệ tam hắn đã thi thí sinh tự do tú tài một bằng cách mua một học bạ lớp đệ nhị của một trường tư thục. Bởi thế năm đang học đệ nhị hắn đã chuẩn bị thi tú tài hai. Đời học sinh của hắn không học lớp đệ nhất ở trường chính thức.
Vừa đậu tú tài hai chuẩn bị ra Huế hoặc vào Sài Gòn học đại học, hắn gom tiền in ba trăm tập thơ, toàn thơ tình viết cho cô ấy, viết về một mối tình câm lặng suốt hai năm, viết về những nỗi buồn không nói được, về những tâm trạng của thằng con trai mới lớn si tình. Trước ngày bay vào Sài Gòn, hắn gói mười tập thơ bằng tờ giấy hoa rất đẹp gởi đến địa chỉ nhà nàng rồi bay mất. Để lại thành phố nhỏ đó một mối tình si, mối tình của tuổi mới lớn nhiều ký ức nhưng không có kỷ niệm.
Hắn không chấp nhận ngành học mà bố hắn yêu cầu nên ở đất Sài Gòn, hắn thuộc diện sinh viên mồ côi, tức là không có trợ cấp của gia đình. Hắn làm đủ việc để kiếm tiền đi học, công việc cuốn hắn đi. Cơm ăn, áo mặc, tiền cours, tiền sách báo, tiền học thêm ngoại ngữ khiến hắn không còn thì giờ để nghĩ ngợi nhiều. Thế nhưng nhiều đêm, thỉnh thoảng ôm đàn dưới trăng, hắn lại nhớ về cô ấy, nhớ thế thôi chứ cũng chẳng biết làm gì. Có lần ghé ký túc xá sinh viên Trường Kỹ sư Phú Thọ, hắn bắt gặp ai đó viết bài thơ của hắn trên tường ở đầu giường. Hắn vui vì cũng có người thích những bài thơ vụng dại một thời của hắn.
Rồi hắn được một cái học bổng đi học xa, bốn năm xa tít mù khơi cũng khiến hắn phai mờ mối tình câm của thuở học trò. Trở về, hắn làm công chức, ngày hai buổi đón xe đến sở làm, rồi về. Hắn vẫn là thằng đàn ông nhạt thếch không biết ăn chơi, nhảy nhót như những bạn cùng sở. Hắn lại không rượu bia, cà phê lê la hàng quán. Cuộc sống của hắn nhàn nhạt ngoài mấy cuốn sách hắn ngấu nghiến hàng đêm và tiếng đàn nỉ non những đêm trăng.
Rồi biến cố lịch sử ào ạt ập tới, cuộc sống mới lắm đổi thay, hắn thất nghiệp vì không đi trình diện sở làm cũ. Hắn lại sống lây lất và cũng đến lúc hắn lập gia đình, vợ hắn là người Sài Gòn. Cuộc đời hắn lại qua một trang mới. Hắn xin đi dạy học, lúc ấy nhu cầu giáo viên rất cần nên hắn được nhận rất dễ dàng nhưng vì lý lịch xấu quá hắn được đưa về một trường xa tít mù ở ngoại thành.
Một lần, lúc hắn đang đứng lớp, có người báo tin vợ hắn lâm bệnh, phải đưa vào nhà thương. Hắn lật đật chạy về vào bệnh viện thăm vợ. Hắn tình cờ gặp cô ấy, người con gái ngày xưa đó trong phòng của bệnh nhân. Cô ấy muôi mẹ bệnh, giường mẹ cô cách giường vợ hắn hai dãy. Cô nhìn hắn với đôi mắt ngạc nhiên tựa hình dấu hỏi. Vẫn đôi mắt đen với rèm mi cong ấy. Hắn nhìn cô ngỡ ngàng, định mở lời hỏi thăm mà không dám mở lời bởi vợ hắn ghen ghê lắm. Đành thôi. Ở lại một đêm với vợ, thỉnh thoảng liếc nhìn qua giường bên kia, không biết cô ấy đang nghĩ gì về cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên này.
Khi trời chưa sáng, hắn lật đật ra bến xe để đến trường dạy học và vợ hắn sẽ được xuất viện trưa nay. Hắn cứ ân hận mãi về việc không có một lời thăm hỏi sau một thời gian khá dài mới được gặp lại.
Dạy được đôi năm, biết hoàn cảnh khó khăn của gia đình hắn, hắn cũng được cấp nhà ở thành phố, một căn nhà nhỏ đủ cho một cặp vợ chồng với một con tá túc. Nhận ngôi nhà trống chẳng có vật dụng gì, hắn xuống phố gần nhà kiếm bộ bàn ghế rẻ tiền làm bàn ăn cũng là nơi làm việc và tiếp khách. Hồi đó ai cũng nghèo, làm nghề thầy giáo lại càng nghèo nên cứ đi loanh quanh mà vẫn chưa tìm được bộ bàn ghế nào vừa ý và hợp với số tiền trong túi. Cuối cùng, có một tiệm đầu phố gần dốc cầu hắn thoáng thấy một bộ bàn ghế bằng gỗ tạp, chắc là giá không đắt lắm. Hắn ghé vào, tiệm lổn ngổn những tủ bàn gỗ mộc nhưng chẳng thấy ai đứng bán. Chỉ có một cô bé khoảng năm sáu tuổi đang ngồi chơi đồ hàng. Cô bé thấy có khách bèn ngừng chơi nói vọng vào trong: Mẹ ơi! Có khách mua hàng nè. Một người đàn bà xuất hiện, vừa nhìn hắn đã nhìn ra là cô ấy dù thời gian đã làm nhan sắc của nàng có chút đổi thay. Cô ấy cũng ngạc nhiên khi thấy hắn, một thoáng nhận ra nhau. Hắn chưa kịp mở lời thì nàng đã nói vọng vào trong: Anh ơi! Anh bạn ngày xưa làm thơ tặng em nè. Hắn vừa nghe đến đó cảm thấy quê xệ quá nên liền vọt lẹ, lúng túng nên đạp mấy cái xe cà tàng không chịu nổ, hắn chèo hai chân đẩy vội xe đi, đường hơi xuống dốc nên hắn lật đật gài số, xe nổ hắn rú xe chạy một mạch.
Nhà hắn cách nhà cô ấy chỉ một con đường và một chiếc cầu. Hắn thường đi qua đó nhưng chẳng có chi để ghé vào cho đến mấy năm sau, người ta trùng tu lại cây cầu, tiệm đồ gỗ của nàng đóng cửa, không biết dọn về đâu?
Gần ba chục năm sau, trong một buổi họp mặt sinh viên của trường đại học cũ, hắn ngồi cạnh một anh bạn. Thời sinh viên la cà hành lang, biết nhau chứ không thân. Hai thằng nói qua nói lại, hoá ra cũng là bạn của nhiều người bạn chung. Nhắc nhiều chuyện ngày xưa nên cũng cảm thấy thân tình như tìm được một người bạn cũ. Hẹn hôm nào uống cà phê nói tiếp.
Sáng hôm sau hắn đi ăn sáng ở cơm tấm Nguyễn Phi Khanh, lại gặp anh bạn ấy cũng ăn sáng ở đấy. Lại tám chuyện cùng nhau và bạn rủ về quán gần nhà uống cà phê. Quán nằm ngay sau lưng nhà cô ấy. Nói năm điều bốn chuyện, hết chuyện trường xưa bạn cũ lại chuyên chính trị, thời sự. Cuối cùng, như thói quen của những người già, hỏi thăm gia đình, con cái của nhau. Anh bạn hắn chỉ ngôi nhà của cô ấy và bảo nhà tôi đấy, vợ người cùng quê Đà Nẵng với ông và có hai con đã lớn. Hắn chột dạ, thấy mẹ rồi, thì ra tay này là chồng của cô ấy. Sao trái đất bé quá vậy ta?
Hắn định bảo hắn có quen biết cô vợ. Nhưng nghĩ chẳng nên nói mà chi. Hay là thằng này nghe vợ kể tên hắn rồi nên làm thân để điều tra chi đây? Câm là hay nhất. Từ lần đó hắn cũng không gặp lại người bạn này.
Thời gian lẹ quá, bỗng chốc mới đó mà đã quá tuồi bảy mươi. Vợ hắn mất đã được mấy năm. Hắn lại cơm hàng cháo chợ. Suốt ngày lang thang quán xá. Hắn phát hiện có một quán cơm ngon, vệ sinh mà giá phải chăng nên trưa, chiều đều đến ăn ở đấy. Quán nằm đối diện căn nhà của cô ấy phía bên kia đường. Đôi khi ăn cơm, hắn thường nhìn qua, căn nhà cứ mãi đóng cửa im ỉm. Hắn đợi một hôm nào đó nhìn thấy nàng, hắn sẽ mạnh dạn đi qua mở một lời chào. Nhưng chờ mãi cũng chẳng thấy. Suốt hơn năm mươi năm biết nhau, hắn chưa được một lời với người hắn đã từng có thời yêu say đắm. Giờ hắn đã là ông nội, cô ấy cũng đã là bà ngoại. Sao cuộc đời không cho hắn gặp lại chỉ một lần nữa thôi để hắn ngỏ được một lời, để thấy được một nụ cười dù biết nụ cười bây giờ đã móm mém rồi.
Chiều nay, như mọi buổi chiều, hắn ngồi ăn cơm quán. Trời mưa lớn, hắn nhìn qua căn nhà trong màn mưa. Căn nhà vẫn đóng cửa im ỉm, chẳng thấy bóng ai.
19.7.2022
DODUYNGOC


Đêm khuya lắm rồi, những ngọn đèn đường vàng vọt cô đơn đổ bóng hắn xuống đường. Hắn đang đi mà chẳng biết sẽ đi về đâu. Nhà hắn đang ở một nơi nào đó trong thành phố này. Căn nhà trống vắng và hoang lạnh. Hắn chưa muốn trở về ngôi nhà với căn phòng đầy sách báo và chiếc giường trơ trọi. Bức tranh hắn đang vẽ dang dở dựng trên giá vẽ sẽ không bao giờ hoàn thành bởi hắn chẳng còn hứng thú. Có chiếc xe rú qua, tiếng nổ giòn trong đêm để lại một vệt khói trắng. Sau một ngày mưa, không khí như dịu lại. Có tiếng gió và hình như có chiếc lá rơi, tiếng rơi rất khẽ. Hắn có cảm giác có người đang ở sau lưng hắn, đi theo hắn. Rất gần, hắn nghe sau lưng có hơi thở. Hắn muốn quay đầu ngoái lại, nhưng trong lòng hắn lại có tiếng ai thì thầm đừng, đừng nhìn lại phía sau. Hắn tần ngần một bước chân, rồi đi tiếp. Đêm vẫn vắng lặng, đã khuya lắm rồi. Có tiếng mèo động đực gào lên trên mái ngói của căn nhà bên kia đường. Tiếng gào man dã, có chút hân hoan nhưng cũng có màu tuyệt vọng. Hắn vẫn có cảm giác có ai đi đằng sau, hắn không quay lại, không nên quay lại.

Phía trước có chiếc ghế đá, hắn ngồi xuống đốt một điếu thuốc, có ai đâu, chung quanh vẫn trống rỗng. Một kẻ trống rỗng. Một đêm trống rỗng. Một thế giới trống rỗng. Điếu thuốc lập loè, khói thuốc bay là đà. Bỗng hắn chợt nghĩ đến những người đàn bà đã đi qua đời hắn. Người còn sống thì xem như đã chết, người chết rồi lại luẩn quẩn đâu đây. Rồi tất cả biến mất như sợi khói vừa tan trong gió. Chỉ còn lại mình hắn, trơ trọi giữa đời. Tất cả đã bỏ đi. Hắn nghe phía ngực trái nhói một cái. Rất nhẹ nhưng làm nhịp tim lỗi một nhịp. Điếu thuốc đã tàn, những ngọn đèn vàng vẫn làm thành những bóng đổ.
Hắn lại nghĩ về cuộc đời, mới như hôm qua tuổi thanh niên tràn nhựa sống với bao nhiêu khát vọng, bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu ước mơ. Thoáng một cái đã thành lão già cô độc với nhiều tiếc nuối. Một thời đã qua đi, bao khao khát đã lụi tàn, bao sức lực đã bị bào mòn, bao ánh lửa đã tắt. Đoạn đường phía trước đang ngắn lại, đời đang thả dốc. Cô quạnh một mình từng bữa ăn, giấc ngủ, hắn đã thấy được tàn phai. Giấc ngủ chẳng tròn lại lắm mộng dữ. Nhiều bữa nhìn đôi đũa, cái chén bơ vơ trên bàn, hắn không còn muốn ăn dù rất đói. Những mảng màu trên tranh, những vệt màu trên tường thành những hình quái dị. Có nhiều đêm không ngủ, hắn ngồi nhìn và tưởng tượng đủ thứ hình thù. Có khi là những khuôn mặt, những khuôn mặt của những người đàn bà. Nhu mì có, thanh lịch có, hân hoan lẫn với muộn phiền, chung tình lẫn với phản trắc. Có khi là bãi hoang tàn hắn đang vùng vẫy trong đó. Có khi là bãi sa mù của quá khứ nhấn chìm hắn xuống. Tất cả cứ lập loè mãi khiến hắn không có giấc ngủ trọn vẹn. Con người sinh ra vốn đã cô đơn. Con người thiếu đôi còn cô đơn hơn nữa. Hắn là kẻ lẻ đôi. Con chim lẻ bạn cất được tiếng kêu, hắn chỉ có sự lặng câm vô vọng.
Đêm càng sâu càng buồn, hắn chẳng muốn trở về nhà. Sương đã xuống lạnh hai vai. Hắn muốn khóc nhưng không khóc được. Nước mắt đã cạn. Nước mắt của người già chỉ là ngân ngấn lệ. Hắn đã già. Già ở tuổi và cũng già cỗi trong trí não. Nửa đêm giữa đường phố hắn thèm một hơi thở trên vai mình, hắn thèm một bàn tay nắm, hắn muốn nghe một giọng nói, tiếng cười. Đêm đã khuya thật rồi, trần gian chẳng còn ai. Chỉ còn mình hắn trơ trọi bao phủ bởi những ngọn đèn vàng. Đời còn có gì đâu. Hắn chợt nghĩ đến một viện dưỡng lão cho mốt mai để giã từ căn phòng không hơi ấm. Bức tranh chỉ còn những vệt màu dở dang, không hình thù. Đêm và người đàn ông buồn như điếu thuốc đã tàn. Đêm rớt hắn lại thành chiếc bóng cô liêu.
Sài Gòn 3.6.2022
DODUYNGOC


1.

Hôm đó hắn rời nhà sớm mười lăm phút, đồng hồ chỉ 6:15. Bình thường 6:30 hắn mới ra khỏi nhà. 

Hắn là người sống nguyên tắc, đúng giờ giấc và đúng hẹn. Đó là những đức tính hắn có được nhờ thời gian hơn mười mấy năm sống trong cô nhi viện của một chủng viện công giáo. Ra đầu ngõ, cô Ba cà phê chào hắn: Thầy Tư hôm nay đi làm sớm thế? Hắn cười, giơ tay chào. Quán cà phê bắt đầu đông khách, cái chào của hắn ngầm chào hết mọi người, bởi toàn người quen cả.

Thật ra hắn chẳng có cuộc hẹn hò nào, đi sớm vì muốn thoát ra khỏi căn nhà, hắn thấy ngột ngạt, khó thở nên đi thôi. Cả đêm hắn không ngủ, vợ hắn chửi rầm rì suốt đêm. Cũng từng ấy chuyện thôi: rằng đàn ông không nuôi nổi vợ, rằng đàn ông mà không có khát vọng làm giàu, rằng đàn ông gì mà hèn, chỉ biết cúi mặt vào nấy cuốn sách vớ vẩn, rằng nhìn anh X, anh Y, nhìn bạn bè kìa, ai cũng công ty, ai cũng xe hơi, vila, vợ người ta như bà hoàng ... Toàn những chuyện cũ rích nhai đi nhai lại cả năm nay rồi. Hắn nghe mãi phát ớn, nhưng hắn không làm cách nào hơn. Ừ thì hắn bất tài, hắn hèn, hắn ngu, nhưng hắn là hắn thôi, hắn chẳng biết luồn cúi, hắn ghê tởm chuyện nịnh hót, hắn căm thù lũ người đạp trên người khác mà ngoi lên. Các frère, các cha dạy hắn thế. Nếu không có biến cố 75, chắc hẳn sẽ xin đi tu và đã thành linh mục rồi. Nhưng đời mà, biết đâu mà lường trước. 

Hắn gặp vợ hắn cũng như duyên phận vậy. Hồi đó hắn đi dạy học, các trường thường tồ chức những sinh hoạt liên trường với nhau. Hắn có giọng hát tốt vì từng hát ca đoàn nên thường được bố trí đại diện trường của hắn thi văn nghệ. Cũng nhiều lần được giải. Có một lần khi hát xong, trên đường đi về lại chỗ ngồi, hắn vấp té vì một cái chân của một cô gái ngáng đường, thấy hắn té, cô gái và các bạn cười khoái trá, hắn tức mà không biết làm gì, mặt đỏ như say rượu. Oái ăm thay, trên đường về, hắn lại bắt gặp cô gái đó bị tai nạn ở ngã tư đường, chiếc xe nằm chỏng chơ, cô gái thì đang bất tỉnh. Người xem thì đông mà chẳng ai có động tĩnh gì, hắn định bỏ đi, nhưng rồi bản chất thiện nhân trỗi dậy trong lòng, hắn gởi xe ở quán bên đường, chỉ là hai chiếc xe đạp thổ tả thôi mà, bồng cô  gái thuê xe taxi vào bệnh viện. Hắn làm mọi thủ tục, vét hết đồng bạc cuối cùng để đóng viện phí, ghi trong hồ sơ là người nhà, ký tên ở dưới nghiêm chỉnh. Bởi lúc đó hắn cũng cuống, nhân viên bệnh viện bảo gì, hắn làm đấy. Hắn ngồi chờ, ngủ quên một lúc cho đến khi y tá gọi tên hắn, hắn ngơ ngác thức giấc và rồi giật thót cả mình khi y tá bảo: chồng hả? Chết mẹ rồi, ngó bộ có chuyện rồi. Hắn ấp úng: Không phải ch..ồng.... là  b ..a..n,! Cô y tá cười nhếch mép: Bà xã tỉnh rồi đấy, vào với bả đi. Hắn bỗng sợ, mặt hơi tái đi. Vào rồi, biết nói chi đây? Hay là đến đây xong nhiệm vụ rồi, dọt được rồi. Nghĩ vậy thôi, nhưng hắn vẫn bước vô. Cô gái thấy hắn thì ngạc nhiên: Anh là người đem tui vào đây đấy hả? Hắn gật. Anh tốt  quá! Hắn gật cái nữa. Sao anh biết chuyện mà đem em vô đây? Hắn định gật, nhưng thấy là cái gật vô duyên. Hắn gãi đầu, ấp úng: Thì tình cờ thấy nên làm vậy. Bây giờ sao rồi? Cô gái cười: Em bị choáng thôi, anh đừng lo. Bình thường rồi. Hắn chợt phát hiện cô gái này cũng đẹp đó chớ. Nụ cười lại có duyên. Chỉ tội bạo dạn quá, hắn nhớ cái gạt chân cho hắn té hồi chiều. Hắn rụt rè: Sao hồi chiều gạt chân cho tui té vậy? Cô gái lại cười: Tại em thích anh, thích giọng hát như ca sĩ chuyên nghiệp của anh, nên chọc chơi. Hắn lại đỏ mặt, hắn tần ngần, tay xoắn lấy chiếc mũ: Thôi. Cô khoẻ rồi thì tôi xin về. Cô gái nắm lấy tay hắn: Sao vội vàng thế, anh đem em vào đây thì anh phải có trách nhiệm đem em về chớ, bỏ em một mình ở đây à. Thế là hắn ngồi lại đó suốt đêm, lúc thì rót cho cô gái ly nước, lúc thì xoay cái gối. Hắn cảm thấy vui vì được săn sóc cho người khác, chuyện đó hắn chưa từng làm cho ai, lại làm cho người khác được vui.

Sau đó là những buổi hẹn hò, tháng sau thì về ở chung trong căn phòng bé tí như tổ chim trên lầu 7 của một chung cư hắn được cấp. Cũng chẳng cưới hỏi gì, cũng chẳng ra phường làm hôn thú. Hắn mồ côi, không biết cha mẹ là ai, chẳng bà con thân thuộc. Cô gái làm vợ hắn thì cả gia đình di tản từ những ngày cuối tháng 4.75. Vợ hắn không đi, không biết vì lí do gì, cô ấy chẳng nói, mà không nói thì hắn không hỏi, tánh của hắn thế. Cũng có một thời gian đầu hạnh phúc, chiều chiều đi dạy về, hai vợ chồng ngồi ngay balcon ca hát, kể chuyện cho nhau nghe. Nhưng vợ hắn không bao giờ kể chuyện ngày xưa, chỉ kể chuyện ở trường ở lớp. Hắn cũng vậy thôi, những chuyện ở cô nhi viện buồn hiu lấy chi mà kể. Vợ hắn dạy môn Pháp văn, hắn dạy môn Văn. Thời gian đó, tiếng Pháp ế chỏng gọng, chẳng có ai thèm học, vợ hắn dạy một tuần có mấy tiết, nhà trường bố trí làm thêm kế toán sổ sách. Môn Văn của hắn cũng chẳng ra gì, trong khi các môn Toán, Lý Hoá, Anh văn người ta hốt bạc nhờ dạy thêm thì hắn chỉ nhờ đồng lương mà sống. Hắn cũng chẳng có nhu cầu gì nhiều, không rượu chè, cờ bạc, gái gú lại càng không, chỉ có hút thuốc lá, tốn kém chẳng bao nhiêu. Hắn thấy sống được thế này là hơn những ngày sống cô nhi viện rồi.

Nhưng vợ hắn lại khác hắn, có chút tiền là son, là phấn, là sắm áo, mua giày. Nhiều bữa đi mua sắm về, mua không được món ưa thích vì không đủ tiền, vợ hắn cứ than: Sao đời tôi lại khổ thế này, chỉ có cái váy mà cũng không đủ tiền mua. Hắn ngồi im hút thuốc, chứ biết nói gì nữa, hắn cũng cảm thấy bất lực. Từ lời than, tiến tới cái liếc, cái nguýt và rồi nói thẳng vào mặt hắn: Thứ đàn ông không nuôi nổi vợ là hèn. Và rồi hục hặc suốt. Chẳng có bữa cơm nào trọn vẹn. 

Cái bất hạnh không dừng ở đó, nhà nước chủ trương thanh lọc lại hàng ngũ giáo viên, Sở Giáo dục gọi hắn lên thắc mắc cái giấy khai sinh của hắn, không cha mẹ, nhưng có cha nuôi là một cố đạo người Pháp, hắn giải thích mãi hắn là con hoang, được chủng viện lượm về nuôi từ hè phố, chẳng có giấy tờ nên các cha làm cho cái giấy khai sinh và đứng ra làm cha đỡ đầu. Cán bộ không tin, cứ cho hắn có yếu tố nước ngoài trong lí lịch nên buộc hắn nghỉ việc. Hắn nhận quyết định tỉnh bơ không một lời xin xỏ, cũng tại cái tánh nó thế, dù hắn chưa biết ngày mai hắn sẽ làm chi để sống, rồi những lời nhiếc móc của vợ nữa. Vợ hắn cũng bị thanh lọc, cũng vướng cả gia đình ở nước ngoài nên không cho đứng lớp mà cho xuống văn phòng làm kế toán, sau này mới biết là tay hiệu phó cũng khoái nhan sắc của cô nàng nên cũng tranh đấu cho chút ưu tiên. Hắn chưa dám kể chuyện buộc nghỉ việc với vợ, hắn rụt rè nhiều lần mà vẫn chưa nói được thì may quá là may, có người quen đang làm phó tổng biên tập ngỏ lời cho hắn vào làm thày cò chữa morasse trong nhà in của báo. Buồn ngủ gặp chiếu manh, hắn tạ ơn Chúa lòng lành giang tay cứu nó đúng lúc. Nhận việc xong, hắn mới báo với vợ đã bỏ dạy về làm báo. Vợ hắn chỉ hỏi: Làm báo lương cao hơn nghề giáo không? Hắn bảo khá hơn chút. Vợ hắn gật: Thế thì được. Người ta vẫn gọi hắn là thầy. Xưa là thầy giáo, nay là thầy cò.

Về ở với nhau được hơn tháng, hắn phát hiện bụng vợ hắn lúp xúp, hắn hỏi: Bầu à? Vợ hắn lườm hắn một cái: Chứ không bầu thì là bụng mỡ à. Hắn vui lắm, hắn sắp có con, con hắn sẽ có cha mẹ đàng hoàng chứ không phải con hoang như hắn. Con hắn cũng sẽ có một gia đình. Nhưng vợ hắn thì bình thường. Chẳng vui, chẳng buồn, chỉ than vãn cho số kiếp sao nghèo mãi!!!

Thế nhưng rồi niềm vui của hắn không được bao lâu, bụng vợ hắn bắt đầu to thì một buổi chiều vợ hắn ra huyết dữ, thấm ướt cả đũng quần, hắn luống cuống chở vợ vào bệnh viện. Ngồi ngoài phòng đợi mà tim hắn cứ đập thình thịch, hắn lo sợ đủ điều. Hắn cầu xin Chúa, cầu xin Đức mẹ Maria lòng lành đoái thương cho gia đình hắn, giúp vợ con hắn được tai qua nạn khỏi. Nhưng Chúa ngó lơ, Đức mẹ cũng chẳng nghe lời cầu xin thảm thiết của hắn, con hắn chết non. Bác sĩ bảo hắn: Tiếc quá, đến ba mươi tuần rồi mà không giữ được. Hắn nghẹn ngào: Cám ơn Bác sĩ, phần số của cháu không được ra đời, chắc cũng là ý Chúa, biết phải làm sao? Nhưng rồi hắn giật mình, vợ chồng hắn về ở với nhau mới hơn bốn tháng, chính xác là bốn tháng mười ngày, sao lại có bào thai hơn bảy tháng? Hắn thấy cổ như ai bóp, không thở được. Thế là hắn bị lừa sao? Thế là thằng nào ăn ốc, hắn đổ vỏ sao? Hắn buồn thúi cả ruột gan, nhưng hắn vẫn vẫn im lặng, nuôi vợ chỉn chu những ngày vợ nằm bệnh viện. Cái nhẫn nhục đó cũng do cái tánh hắn thế, hắn không muốn ai phải băn khoăn về tội lỗi của mình.

Về nhà, lấy cớ đang bệnh, vợ hắn bảo hắn trải chiếu dưới nền nhà mà ngủ vì vợ hắn suốt đêm nhiều lần dậy tiểu, sẽ làm cho hắn thức giấc. Hắn nghe lời ngay, từ đó hắn nằm giữa phòng, trên cái chiếu rách, trời nóng thì cởi trần, mùa lạnh thì quấn tạm mảnh chăn cũ. Một bữa, không biết có chuyện gì vui, vợ hắn lại bắt chuyện với hắn bâng quơ mấy chuyện. Được một lát, hắn chợt nhớ đến cái bào thai, bèn rụt rè hỏi: Vậy chứ cha đứa bé là ai vậy? Vợ hắn quắc mắt lên, hai tròng mắt như lòi hết ra ngoài, nghiến răng nói từng chữ: Anh không cần phải biết, cũng như anh không cần biết quá khứ của tôi, anh chỉ nên biết đó không phải là con anh. Thế thôi. Hắn vớt vát: Nhưng là con của ai? Vợ hắn lại đay nghiến: Biết để làm gì. Nó đã chết rồi, biết nó là con ai để làm gì nữa. Hắn im, tánh nó thế, không muốn cãi với ai. Lúc nào hắn cũng nhận phần thua về mình.

Kể từ hôm đó, vợ hắn không cho hắn động vào người, nằm dưới sàn nhà, nhiều hôm bức bách quá, nhìn lên giường thấy thân thể vợ hắn phô ra dưới làn áo mỏng, hắn tự thủ dâm như thời mới lớn trong cô nhi viện.

Thời gian gần đây, vợ hắn như được lột xác, đẹp và tươi tỉnh hẳn ra. Áo quần, giày dép mua sắm hàng loạt. Vì từ bữa hắn hỏi về bào thai, cơm ai nấy ăn, trưa hắn ăn cơ quan, chiều bữa thì gặm bánh mì, hôm thì gói mì gói. Vợ hắn thì chiều nào cũng diện đồ đẹp, đi suốt, có hôm về say khướt, kêu cửa loạn cả lên. Vợ hắn lại có thêm nhiều bè bạn, các cô gái thì son phấn loè loẹt, mặt dấu vết mỹ viện tùm lum, diện toàn váy ngắn, guốc cao, lũ đàn ông thì mặt mũi ông nào cũng bặm trợn, trông như lũ cô hồn các đảng, thằng thì trọc lóc, thằng thì tóc dài thậm thượt, đi toàn mô tô, người đầy xăm trổ. Mỗi lần vào xóm, mấy chiếc xe nổ bình bịch, đứng từ dưới bóp kèn, kêu réo om xòm, hàng xóm bực mình lắm, nhưng thấy các các ông các bà ấy, ai cũng hãi nên đành im thin thít, chỉ lén lút chửi thầm con vợ hắn, bảo nhau rằng: Cô giáo gì mà bạn bè toàn như lũ xã hội đen. Vợ hắn không biết học ngôn ngữ ở đâu, mỗi lần nhiếc mắng hắn lại đệm thêm chữ địt và đéo, giọng lại lơ lớ như người miền ngoài. Có lẽ lai theo giọng của đám âm hồn mới nhập băng. Cũng có lần vợ hắn đoái hoài tới hắn, nói muốn giúp cho hắn mua chiếc xe mà đi cho ra hồn người, bởi mang tiếng là vợ hắn mà chồng đi chiếc xe cà tàng mất mặt quá. Vợ hắn hỏi hắn có được bao nhiêu tiền, hắn nghĩ bụng hắn làm gì có tiền, lương tuy sau này vợ hắn không thèm cầm nữa, nhưng cũng chỉ đủ cơm gạo và thuốc lá hàng ngày, chẳng có dư. Hắn chợt nhớ chiếc đồng hồ đeo tay, cái này cha Francois lúc về Pháp cởi ra tặng hắn, Omega đàng hoàng, đã có lần đi chùi dầu, tên sửa đồng hồ gạ mua mười một triệu rưỡi. Hắn nghĩ đồ kỷ niệm, ai lại bán đi. Nhưng bây giờ, mua chiếc xe mới thì cũng phải đành lòng thôi. Hắn bèn bảo vợ: Tôi cũng có thể có khoảng hơn mười triệu khi bán chiếc đồng hồ này. Vợ hắn cười khanh khách: Địt mẹ, có mười triệu mà cũng đòi mua xe. Thôi thì tôi tính như vầy. Xe khoảng ba lăm triệu, tôi cho anh mượn thêm hai nhăm triệu, ngày mai ra tiệm hốt về một chiếc mà đi cho ra cái hồn con người. Thế là hắn có chiếc Honda Air Blade mới tinh. Nhưng vợ hắn chưa bao giờ ngổi cho hắn chở, cô ấy chỉ thích ngồi xe môtô nổ bình bịch, ngồi trên yên đít vểnh lên như con nhái hay cũng giống thế ngồi ỉa trên bàn cầu Mỹ, đằng trước có thằng đầu trọc lóc, xăm trổ tùm lum cầm tay lái, rú ga chạy vù vù.

Cũng trước cái hôm mà sáng ra hắn đi sớm mười lăm phút, vợ hắn đem mấy tên bạn âm hồn xăm trổ của cô ấy ra mà so sánh với hắn. Vợ hắn bảo cũng là một thằng đàn ông giống nhau sao mà một bên trông anh hùng hảo hán, làm ra tiền muôn bạc vạn, ăn chơi toàn chỗ lẫy lừng, còn một bên thì như con cù lần, sống rụt cổ với mớ chữ nghĩa chẳng mang lợi ích gì, suốt đời không ăn được miếng ăn ngon, đến được những chỗ sang trọng, sống thế phí cả đời người. Hắn cũng cãi mấy câu, hắn nói đến triết lí sống, hắn đưa ra cách sống của kẻ sống bằng trí tuệ đương nhiên có lối sống khác của lũ lừa đảo kiếm cơm, quên đi những nỗi đau của đồng bào mình, của dân tộc mình. Vợ hắn gầm lên: Rởm! Địt mẹ suy nghĩ của những thằng trí thức nghèo đéo làm được gì nên tự rúc đầu vào cát. Hắn muốn điên, hắn muốn tát vào cái mồm đĩ thoả của vợ hắn, nhưng hắn kìm lại được, ngồi suốt đêm đốt cháy cả bao thuốc. Cái tánh hắn thế, hắn nhẫn nhục quen rồi.

Sáng hôm đó hắn đi làm sớm mười lăm phút, sau một đêm thức trắng, hắn vẫn là kẻ yêu đời, vẫn cảm nhận được những hạt mưa bụi nhè nhẹ như sương trong nắng sớm, hắn khe khẽ huýt sáo một bản nhạc vui. Đời vẫn vui, buồn làm chi, quên đi số phận đẩy đưa hắn gặp một người đàn bà, quên đi một kiếp vợ chồng không tìm thấy hạnh phúc. Hắn lái ngang đường Pasteur, quay qua Lê Thánh Tôn, ghé vào gánh xôi bà Lộc, gánh xôi lừng danh có mặt ở góc phố này đã hơn nửa thế kỷ, định mua gói xôi bắp ngon nổi tiếng của bà. Khách hàng đông quá, lớp trong lớp ngoài. Nghĩ mình là khách quen, hắn nhoài người vào cho bà cụ thấy mặt, sẽ ưu tiên gói cho nó một gói. Khách đông không chen vào được, hắn dựng xe, chen vào trong. Bà cụ đã thấy mặt hắn, cười chào, gói liền cho hắn một gói. Hắn hí hửng đi ra, bỏ gói xôi vào giỏ, hắn quay người lại và trái tim muốn rớt ra ngoài. Chiếc xe mới tinh của hắn không còn đó nữa, ai đó đã lấy mất rồi. Hắn hét lên hãi hùng: Xe tui đâu? Xe tui mới dựng đây đâu rồi? Hắn cuống cuồng nhìn từng người, lắc mạnh vai người đứng cạnh: Xe tui đâu? Xe tui đâu? Mọi người quay lại bàn tán, thương cảm cho hắn, nhưng cũng chẳng ai biết xe hắn đâu, ai là người lấy xe của hắn. Có người bày cho hắn đi báo công an, người mách gắn về miệt Gò Vấp tìm đám xã hội đen thuê tìm, mỗi người một ý nháo nhào cả lên. Hắn ngồi phịch xuống lề đường, chiếc túi bỏ nghiêng, gói xôi lăn lóc bên vệ đường. Hắn ôm đầu, vò tóc, hắn không còn là con người bình tĩnh, nhẫn nhục, ít bộc lộ tình cảm như cái tánh thường ngày của hắn nữa. Hắn đau đớn, hắn muộn phiền và tiếc nuối, đánh mất luôn con người của hắn.

2.

Nghe theo lời mọi người, hắn đi báo công an, thủ tục qua loa, chiếu lệ, làm đơn cớ mất rồi về. Hắn buồn không biết đi đâu, gọi điện thoại đến toà soạn xin nghỉ một bữa, rồi lang thang miết, thấy chiếc xe Honda Blade nào cũng nhìn kỹ, cứ ngỡ là xe mình. Hắn lang thang đến trưa, đi ngang qua quán thịt chó đường 3 tháng 2, hắn tạt vào, buồn quá, tập uống chén rượu quên sầu. Gọi mấy dĩa thịt, kêu xị rượu, người ta bảo người say không biết buồn, hắn mong xị rượu này sẽ giúp hắn quên buồn. Hắn uống chậm rãi, cứ mãi ngồi trầm ngâm. Bàn bên cạnh cũng có một người khách ngồi một mình. Lão này người trông cổ quái, để râu ba chòm lượt thượt, ánh mắt sắc cứ láo liên, nhìn như đốt cháy người ta. Lão mặt cái áo jacket đen, đội cái mũ nỉ xưa lắc lơ cũng màu đen. Khuôn mặt xương xẩu xám ngoét, nếu lão cầm thêm lưỡi hái người ta sẽ hình dung ra thần chết hay lão phù thuỷ trong các truyện cổ tích. Lão cứ nhìn sang hắn mà cười, nụ cười bí hiểm làm chòm râu rung rung. Hắn thấy e ngại, cứ cúi mặt mà ăn, lâu lâu nhăn mặt hớp li rượu đắng, hơi rượu tràn đầy hai lỗ mũi. Bỗng hắn thấy có một bàn tay gầy guộc đặt trên vai hắn, hắn hốt hoảng nhìn lui, lão già đã đứng sau lưng hắn, nhìn hắn và cười, phô những chiếc răng nhọn vàng khè: lão nói như rít trong cổ họng: Buồn lắm phải không? Đời mà sao không buồn được. Cho ta ngồi chung cùng uống rượu quên buồn nhé. Độc ẩm làm sao vui. Vừa nói lão vừa ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh hắn. Hắn gượng cười: Xin mời lão. Và rồi cả hai cùng uống, hết chai này lại kêu chai khác. Lão già vẫn tỉnh queo, còn hắn thì đã say khướt, nhìn một hoá hai, mặt đất cứ quay vòng vòng dưới chân hắn. Lão già bỗng kê miệng sát vào tay hắn: có muốn bay lên trời không? Hắn nhừa nhựa: Là sao? Lão già lại càng sát vào hắn: Là đi trên trời, là cách xa mặt đất đầy khói bụi, là thoát cảnh chen lấn của trần gian, là một mình một cõi khi mọi người phải luồn lách mà sống. 

Bỗng dưng hắn nhớ đến những ngày còn bé ở cô nhi viện, những lúc nghĩ đến cảnh sum vầy của một gia đình có cha mẹ, anh em. Hắn thèm lắm một gia đình. Hắn thường leo lên mái nhà cô nhi viện, nhìn sang gia đình hàng xóm đang sinh hoạt hay đang cùng nhau sum họp mà ước ao. Hắn muốn bay lên như chim, bay thật cao, để nhìn thấy được cảnh của nhiều gia đình, bay lên cao để không còn nỗi buồn của đứa trẻ mồ côi. Nhiều khi đi thả diều, nó cũng muốn được như cánh diều bay giữa trời lộng gió, được tự do trong bầu trời xanh biếc. Và trong cơn say hôm nay, có người bảo nó có muốn đi trên trời không, có muốn thực hiện ước mơ của một thời thơ dại. Trong vô thức của quá khứ, hắn gật đầu, hắn muốn được thực hiện ước mơ. Lão già cười, lão bảo hãy há miệng ra, nuốt viên thuốc này, ngươi sẽ đi trên trời giống như đi trên mặt đất, ngươi sẽ thành NGƯỜI ĐI TRÊN TRỜI duy nhất trên thế giới này bằng chính đôi chân của mình. Không chút do dự, hắn há miệng thật to và lão già chỉ dùng hai ngón tay khẩy nhẹ, viên thuốc đi lọt vào thẳng bao tử của hắn. Hắn nghe thấy một luồng hơi nóng chạy dọc sống lưng, đi xuống hai cẳng chân của hắn và nằm ở đó. Đôi chân hắn ấm như đang hơ trên một lò than. Lão già lại kề tai hằn thủ thỉ: Bí mật, giữ bí mật về viên thuốc này, ngươi sẽ sống, bằng ngược lại, ngươi sẽ chết ngay lập tức. Nhớ chưa. Hắn say lắm rồi, đầu đã nghẹo một bên, nước dãi chảy bên khoé miệng, nhưng vẫn nghe loáng thoáng những lời cuối cùng của lão. Hắn ngước lên, định đưa bàn tay lên như minh chứng đã nghe và sẽ giữ lời. Nhưng lão già như luồng gió, biến mất tiêu. Hắn rùng mình, lạnh dọc sống lưng và hình như tỉnh rượu đôi chút. Hắn trả tiền và ngật ngưỡng đi về. Hắn không biết phải về đâu, loanh quanh mãi lại thấy về nhà. Lần từng bước lên lầu bảy, hắn thấy trời như sà xuống đầu hắn, cứ quay mòng mòng. Đứng trước cửa phòng, hắn ngại gặp vợ, không biết nói sao về vụ mất xe, nên cứ ngập ngừng trước cửa. Hắn mở hé cửa sổ nhìn vào. Và hắn tỉnh hẳn rượu, hắn thấy trời vẫn trên cao và không quay mòng mòng nữa, nhưng hắn lại thấy máu đông cứng lại, tim như ai bóp nghẹt, không thở được, tay hắn run run và chân thì muốn khuỵ xuống. Hắn nhìn thấy vợ hắn đang làm tình với thằng đầu trọc. Vợ hắn thì rên mà cái mông của thằng trọc thì cứ nhấp nhô đẩy tới. Hắn thắy đắng họng, và hắn lặng lẽ rời đi. Hăn lê bước bải hoải xuống cầu thang và ngồi ở đó cho đến khi mặt trời tắt sau những mái nhà bên kia phố. Hắn không cảm thấy đau, không cảm thấy buồn., nhưng có một vật gì đó cứ khóet mãi trong lòng hắn. Hắn cảm thấy bị sỉ nhục, hắn thấy hắn bị xúc phạm nặng nề. Hắn đã hình dung cảnh này khi chúng hẹn chở nhau đi, nhưng khi chứng kiến trước mắt thì cảm giác hoàn toàn khác. 

Rồi hắn cũng phải lên phòng, vợ hắn với chiếc váy hờ hững phủ lên người đang say ngủ, sau cuộc ái ân thoả mãn người ta cần ngủ. Nhưng hắn đang khó chịu trong lòng, hắn đánh thức vợ hắn dậy, trả thù vợ nó bằng cách báo cho biết là chiếc xe ba mươi lăm triệu đã bị mất rồi. Vợ nó tru tréo lên, hết địt đến đéo, ồn ào cả một vùng. Hàng xóm bu lại rồi tản ra, ai cũng lắc đầu. Đợi vợ nghỉ mệt,hắn mới thong thả giằn từng tiếng: Tôi biết rõ hồi trưa cô đã làm tình với ai trên chiếc giường này. Nhà tôi không phải là nhà thổ, cô muốn  làm đĩ thì đi chỗ khác, chỗ này không phải là chỗ để mấy người làm chuyện thú vật. Vợ hắn đang há miệng để tiếp tục chửi, nghe hắn nói xong thì khép miệng lại, giọng bớt hàm hồ hơn: Thôi được, tôi cũng muốn chấm dứt lâu rồi, nhưng chưa có dịp, bây giờ tình hình thế này thì tôi sẽ đi, nhà của anh anh ở, anh và tôi cũng chẳng có trói buộc gì nhau, nên cũng chẳng có gì để bàn bạc. Hắn ngồi im, hút thuốc, trở lại chính con người của hắn, thản nhiên trước mọi chuyện. Và rồi vợ hắn đi, chấm dứt một cuộc tình. Cũng xong một đời vợ.

3.

Đêm đó hắn cũng chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Chỉ thấy cuộc sống của hắn thừa thải và vô tích sự quá. Hắn cũng quên mất cơn say bữa trưa, quên mất lão già và câu chuyện huyền ảo của lão. Hắn thấy mình nên chết đi, sống thế cũng đủ cho một đời người rồi, sống nữa cũng chỉ lập lại những điều đã sống. Hắn ngồi trên balcon, nhìn xuống những mái nhà, nhìn thấy những gia đình đang sống với nhau. Ngoài xa kia là khu nhà mới xây của tầng lớp cán bộ cấp cao, những ngôi nhà thật là đẹp, đêm đêm đèn sáng như ngày. Họ ở một thế  giới khác không có gì giống cuộc sống và thế giới của hắn và rất nhiều người khác. Hắn liên tục đốt thuốc và trong khoảnh khắc không kìm hãm, hắn đứng trên thềm balcon rổi nhảy xuống trần gian lộn xộn phía dưới. Ra khỏi khoảng không, hai chân của hắn quơ quào trong không khí như bản năng sinh tồn và rồi hắn cảm thấy như đang đứng trên mặt đất, hai chân chạm vào không khí nhưng lại vững chải như đứng trên nền nhà. Hắn thử bước đi, nhưng bước chân chẳng khác chi như đang đi trên đường. Lúc đầu hắn hơi hãi, nhưng rồi nhớ đến lão già trong quán thịt chó, hắn ý thức được rằng điều huyền ảo đó chính là sự thật. Hắn đã đạt được ước mơ của quá khứ. Hắn đi loanh quanh, khi xuống thấp một chút, lúc lại lên cao một chút. Thú vị thật. Hắn men ra khoảng không trống trải phía trước, nhìn xuống giòng xe chạy trên đường, nhìn từng đoàn người lũ lượt chen lấn nhau, hắn cười rú lên thích thú, từ nay hắn đã có một thế giới mới, một thế giới khác loài người nhưng vẫn ở trong thế giới này. Bỗng có người ở dưới kia phát hiện ra hắn đang lửng lơ giữa trời, đoàn xe đang chạy đứng hẳn lại, đoàn ngưới đang lũ lượt cũng đứng hẳn lại, tất cả đều ngước mắt lên để nhìn thấy hắn. Có nhiều ánh chớp loé của máy chụp hình, có tiếng la hét của đám đông. Hắn sợ, thế giới của hắn đã bị phát giác, rồi sẽ bị phá vỡ, hắn lật đật chạy vào phòng, đóng cửa và ngồi thở. Hắn sẽ bị phát hiện, cuộc sống của hắn sẽ không còn như cũ nữa. 

Đêm đó, hắn chìm trong giấc ngủ mộng mị trên chiếc giường mà đã mấy tháng rồi hắn không được ngã lưng. 

Ngay sau đấy chỉ năm phút, tất cả báo mạng ở Sài Gòn đều đăng bài về một con người thần bí đi được trên trời, nhưng rất tiếc không có tấm hình nào đủ rõ để thấy được nhân vật. Sáng hôm sau cũng thế, tất cả tờ báo đểu đăng tin nhân vật kỳ bí đang đi trên trời, cũng chẳng có tấm hình nào rõ mặt. Các tôn giáo đều cho rằng đó chính là thánh chủ của tôn giáo mình. Nhiều người dân đem hoa, đem nến đặt ngay khu vực nhìn thấy người đi trên trời, nhiều kẻ còn quỳ lạy cầu xin, khấn vái cho đến hết đêm. Báo chí nóng như hơ trên lò lửa, bịa ra nhiều chuyện kỳ bí, đặt nhiều tít rất dữ dội để câu view. Đám phóng viên ảnh mang nhiều ống kính dài cả thước chầu chực suốt ngày, đám phóng viên mang laptop, ipad gặp ai cũng phỏng vấn có thấy gì không. Chính quyền, công an, an ninh chuẩn bị phương án, họp bàn đến tối mịt. Nhưng người đi trên trời vẫn bặt vô âm tín. Hắn đang đi đâu?

4.

Sáng hôm đấy hắn rời nhà sớm. Đi bộ. Đương nhiên. Xe mất rồi thì đi bằng hai chân thôi. Và hắn lại chợt nhớ ra đêm qua hắn đã đi được ở trên trời. Hắn nghĩ: giá mà không có ai để ý nhỉ, hắn phi một cái lên chỗ bát ngát kia, lượn lờ đến cơ quan, sướng phải biết. Ngang chỗ cô Ba cà phê, hắn vẫy tay chào, cô Ba nói với theo: Thầy Tư hôm nay lại đi sớm. Trong giọng nói có chút thương hại khi cô nghĩ đến cảnh nhà hắn hôm qua. Cuộc chia ly của một cuộc tình. Gì cũng thấy xót xa. Hắn chờ ở trạm xe buýt, phố dần đông, nhiều người đi ngang chỗ toà chung cư cũ xì của hắn, ngước nhìn chỉ chỏ.

Hắn đến cơ quan và vào bàn như mọi lần, xấp bài nằm một chồng trên bàn, hắn phải sửa xong trước trưa nay. Hắn lại thấy đang lười, hắn là thằng rất nghiêm chỉnh và có trách nhiệm trong công việc. Nhưng giờ thì hắn thấy oải. Phía bên kia, nhóm dàn trang và trình bày báo đang xúm lại trước màn hình. Tên trưởng nhóm đang phân tích gì đấy trên hình. Hắn không ưa tên này, mặt dơi, tai chuột lại ti hí mắt lươn. Người đã xấu tánh tình lại rất tệ. Chuyên đi soi mói chuyện người khác. Tên này làm công tác đoàn, đang là đối tượng phấn đấu vào đảng. Tên này hay lân la hỏi chuyện hắn, hỏi như điều tra, nhưng tánh hắn không thích nói nhiều về mình cho kẻ khác, cho nên trong ý nghĩ của tên này, hắn có điều gì che dấu, nên cứ tìm cách gợi chuyện hoài. Bỗng dưng tên này hét lên: A đù!!! Tui nghĩ ra rồi. Hắn click chuột, zoom hình lên và hỏi: Thấy giống ai không? Mới nhìn tui đã ngờ ngợ. Cả đám nhìn vào rồi ngước nhìn qua bàn hắn. Hắn chột dạ, hình như cả đám đã thấy gì đó liên quan đến hắn, dính líu cái vụ đi trên trời đêm qua chăng? Cái tin này đang hot quá mà! Hắn cúi mặt như muốn che đi mặt mình, làm như đang cắm cúi say mê với công việc, nhưng hai tai giỏng lên lắng nghe chúng nó nói gì. Có đứa bảo: Ừ! Có vẻ giống. Nhưng mà không lẽ... Có thằng lại gạt đi: Chuyện tầm phào, thằng cha cù lần đấy mà làm gì làm được chuyện động trời thế? Lại có kẻ bảo: Mấy ông rảnh quá hà. Làm việc đi! Chỉ có tên trưởng nhóm sau khi buông tiếng A đù là trầm ngâm, nó liếc qua hắn, liếc đến mấy lần. Hắn không hiểu trong đầu tên đó đang suy nghĩ gì, nhưng hắn biết chắc suy nghĩ đó có liên quan đến hắn.

Trưa ăn cơm ở căn tin, tên này đến vỗ vai hắn và hỏi: Đêm qua đi đâu thế? Hắn cảnh giác: Đi đâu là đi đâu? Nằm ngủ sớm chứ đi đâu? Có chuyện gì à? Tên này cười giả lả, hai mắt tít lại như hai sợi dây chì, cái tai chuột rung rung: Hỏi chơi thôi. Thế là tốt. Hắn nghĩ, chắc tên này đã phát hiện chi rồi, ngồi ăn cơm mà hắn thấy bụng lo lo, dính với thằng này là lắm rắc rối, nó là thằng rất thông minh nhưng cũng rất nham hiểm. Phải nghĩ cách đề phòng mới được.

Khuya. Không ngủ được, hắn ra balcon ngồi hút thuốc, thấy lòng thật trống trải, thấy đời buồn tênh. Dưới kia giòng người vẫn trà trộn nhau đi tới, luẩn quẩn với những kế sinh nhai. Hắn muốn bước ra khoảng không gian của trên trời kia, đi trên tất cả muôn người, lặng lẽ một thế giới khác, không đua chen, không lấn bước ai. Nhưng hắn ngại. Hắn sợ lại bị phát hiện như đêm qua. Hắn biết, dưới kia có bao kẻ ngồi rình chờ đợi sự xuất hiện của hắn. Hắn đành kìm hãm khát khao lại. Ngồi nhìn đêm trôi đi.

Mấy ngày rồi, tin người đi trên trời chẳng thêm gì mới. Một ngày biết bao chuyện lướt qua đời, cha hiếp con, vợ cắt của quý của chồng, ca sĩ trẻ chửi nghệ sĩ già, đồng tiền tụt giá, cán bộ bị bắt, chuyện phá núi xây vila, chuyện quan nuôi gái tốn hàng tỉ đồng mua xe, sắm nhà, chuyện nhà đất đang lên giá, cô diễn viên đóng phim lộ cả mông trần, clip sex thầy chùa làm tình bằng miệng mấy chục phút, tay chơi trẻ lộ clip làm tình với cả đàn người đẹp.., Những tin tức dồn lên nhau, đè lên nhau tràn ngập báo chí, che khuất dần chuyện có một người đi ở trên trời. Có thể người ta chưa quên, nhưng người ta không nhắc đến nữa. 

Hằng đêm, hắn ngồi ở hàng hiên, nhìn xuống đường, rồi nhìn lên trời. Đêm hè, trời cao tít đầy sao. Hắn thèm được đi trong không gian đó, để được thong dong quên sự đời. Hơn tuần nay rồi, những phút khát khao như thế, hắn cảm giác đôi chân như có lửa, nóng ngùn ngụt, cứ thúc hắn bước qua cái bờ xi măng, bước đến cái không gian vô tận chào mời. Nhưng hắn sợ, một nỗi sợ mơ hồ, hắn biết vẫn có người đang rình rập dưới kia chờ cơ hội, chỉ cần hắn bước đi trên không gian kia, hình ảnh của hắn sẽ bị thu vào ống kính ngay, và hậu quả như thế nào, hắn cũng chưa hình dung ra nổi. 

Một đêm, không ngủ được, hắn trằn trọc mãi. Nóng. Cái nóng mùa hè cộng thêm cái nóng như lửa đốt đôi chân, cứ hối thúc hắn đứng dậy và thôi thúc hắn trôi ra khoảng không gian đầy gió. Và khi chịu hết nổi, hắn đành đầu hàng. Hắn trùm áo khoác đen có mũ, bịt khẩu trang màu tối, mang kính đen thay cái kính cận có đôi mắt lấp lánh, hắn bước ra ngoài và đi. Lúc đó đã khuya lắm rồi, đường vắng, hắn men theo những hàng cây và những góc tối. Hắn đi càng lúc càng cao, những bước chân nhẹ nhàng thật êm ái, những bước chân như bước trên tấm đệm không khí mới thoải mái làm sao! Hắn không dám đi xa, chỉ loanh quanh trên trời cao khu vực nhà hắn. Phía bên kia, dãy vila của cán bộ lúc nào cũng sáng choang đèn đuốc, hắn muốn một lần qua đó, nhìn vào những căn nhà đẹp đẽ kia, nhưng hắn sợ bị phát hiện. Bên đó là biểu tượng của sự giàu sang, quyền lực, phía chung cư hắn ở như mảng đối lập, cũ kỹ, tối tăm, rệu rã. Hắn trở về lúc ánh sáng của bầu trời bắt đầu ngày mới và hắn cảm thấy thật sung sướng, thật hạnh phúc sau nhiều giờ lang thang ở trên trời.

Kể từ hôm đó, đêm nào hắn cũng tranh thủ ngủ sớm, khuya lại thức dậy, choàng đồ đen ngao du giữa trời. Càng ngày không gian hoạt động của hắn càng mở rộng và một hôm hắn đánh bạo bước qua thế giới của ánh đèn bên kia đường. Hắn nhìn vào thế giới đó và choáng ngợp. Nhà nào cũng đẹp, đồ đạc toàn thứ bóng lộn đắt tiền. Nhà nào cũng có vườn cây, ao cá, hồ bơi, thảm cỏ xanh rì. Căn phòng nào cũng đầy đủ tiện nghi. Đúng là ở thời đại này, không ai giàu hơn cán bộ lãnh đạo. Từ hôm đó, hắn khoái lân la khu vực này, vì phía bên kia chỉ là mảng tối đen, xám ngoét. Phía bên này, hắn thấy được nhiều điều, nhiều cảnh khác lạ. Hắn nhìn vào từng ngôi nhà, từng căn phòng cửa để ngỏ, và có hôm hắn nhìn thấy lão già làm tình với cô gái trẻ măng, có bữa lại bắt gặp một cặp phi công trẻ lái máy bay bà già, có đêm lại nhìn thấy hai đứa trẻ làm tình ngay hàng hiên. Hắn tự hỏi, sao giới này làm tình loạn cả lên vậy nhỉ. Hắn cũng từng nhìn thấy trong căn phòng tràn ngập tiền lấy ra từ các phong bì, cả vợ lẫn chồng ngồi đếm. Có khi thấy cả vàng và kim cương lấp lánh. Đặc biệt, hắn thường đứng trên cao để nhìn những tiệc tùng đầy ắp thức ăn ngoài sân với những chiếc đèn cao áp sáng rực, xe hơi sắp hàng dài và những người phục vụ lăng xăng trong tiếng nhạc xập xình, đôi khi xuất hiện những ca sĩ đình đám và nhiều lãnh đạo cấp cao. Hắn lạ lẫm không khí đó, vì từ nhỏ đến lớn, hắn chưa bao giờ được tham dự những bữa tiệc thế này. Con mồ côi, ở cô nhi viện, lớn lên thì kiếm cơm hộc máu, lễ tiệc thế này trước đây hắn chỉ thấy trong phim ảnh hay trong cuốn tiểu thuyết. Đó là một thế giới khác, hoàn toàn khác với thế giới hắn đang sống. Và chính cái tính tò mò đó đã hại hắn. Lần đó tiệc lớn lắm, tổ chức trong căn vi la lớn nhất khu đó, có ca sĩ Tuấn Ngọc đến hát. Đó là giọng ca hắn hâm mộ, một giọng trầm ấm, đầy nam tính mà chất chứa hồn phách của những ca từ. Anh ta hát như hơi thở. Bữa nay anh ấy hát bài Riêng một góc trời, bài hát hắn thích, nên nghe mê mẩn. Tiếng hát vút lên ở cuối đoạn, hắn đắm say với tiếng hát, lời ca nên cứ từ từ hạ thấp độ cao lúc nào không hay. Có một ánh chớp loé của máy ảnh làm hắn giật mình, hắn chỉ kịp nghiêng mình né luồng ánh sáng rồi vút đi như chạy trên đường, tim thình thịch. Hắn nghĩ đã có ai đó chụp được tấm hình của hắn. Hắn sợ, cả đêm đó hắn nằm thao thức mãi.

Sự kiện người đi trên trời lại được khơi dậy khi một tờ báo đăng hình ảnh độc quyền chụp được người đi trên trời. Tấm hình chụp nghiêng, một người mặc đồ đen từ đầu đến chân, nét mặt được ánh đèn rọi vào nên cũng thấy được phần nào khuôn mặt. Báo chí lại rần rần. Nhiều tít giật gân được tung ra: "Người đi trên trời: những bí ẩn"."Bức chân dung của người bí mật", "Người đi trên trời là ai?", "Những khám phá hé lộ người đi trên trời"....Thiên hạ lại xôn xao, báo mạng liên tục giật tít, người người ngồi bàn luận, đoán mò khắp phố và đầy các vỉa hè. Ban lãnh đạo thành phố họp, công an lập chuyên án, bộ đội chuẩn bị diễn tập. Thành phố mùa hè đã nóng càng nóng hơn. Hắn bắt đầu thấy sợ hãi hơn, đi đường hắn đội cái mũ sùm sụp, tránh nhìn mọi người. Đến cơ quan, hắn cúi mặt làm việc, không dám lân la nói chuyện như bình thường. Hình như tên mặt dơi tai chuột đó cứ nhìn hắn mãi. Y dán mắt vào màn hình, phóng to hình trên báo rồi cứ liếc hắn, rồi lại nhìn hình. Hắn lo. Thằng này quái lắm, chắc chắn là hắn nhìn thấy điều gì đó trong hình rồi. Y bước qua bàn hắn, nhìn xuống đôi sandal của hắn và y cười khoái trá, hai con mắt tít lại như hai vết chì, hàm răng hô càng vẩu ra. Hắn chột dạ vì tiếng cười hả hê của y. Chết mẹ, chắc hắn nhìn ra đôi sandal. Kiểu này chắc khó thoát rồi, mồ hôi tứa ra ướt cả lưng hắn.

Chiều hôm đấy, khi bước ra cổng toà soạn, thấy bên đường ở quán cà phê vỉa hè có hai thanh niên đứng dậy bước sang đường, hắn đã thấy lòng nghi ngại rồi. Hai người tiến đến kẹp sát hắn, một người móc trong túi một chiếc thẻ màu đỏ đưa ngang tầm mắt hắn, nhưng hắn chẳng thấy gì, tay kia vừa kẹp tay hắn vừa nói như rít trong cổ họng: Anh đã bị bắt, đi theo chúng tôi, không nên kháng cự vô ích. Hắn có cảm giác như bị dìu đi. Và hắn chẳng kịp phản ứng gì, bước chân vẫn bình thường băng qua đường đến chiếc xe hơi chờ sẵn.

Hắn quay lại ngước nhìn trên cửa sổ của toà soạn, thấy thằng tai chuột chồm ra nhìn xuống với vẻ mặt hân hoan, đắc thắng kèm nụ cười ngạo nghễ.

Thế là hắn đã bị bắt. Người đi trên trời đã bị bắt. Nhưng báo chí im re, không một tờ báo nào đăng tin này, kể cả hàng loạt báo mạng. An ninh và tuyên huấn chỉ thị đây là chuyện bí mật quốc gia, báo chí không được léng phéng. 

5.

Thế là hắn đã bị bắt. Hắn nghĩ trước sau gì cũng có ngày này, nhưng không ngờ nó lại đến sớm thế? Nhưng rồi hắn chợt nghĩ, hắn bị bắt vì tội gì? Luật pháp cái xứ này đâu có ghi cái tội nào là tội đi trên trời đâu? Luật pháp quy định cho thấy công dân được quyền làm những điều không ghi cấm trong luật mà. Nhưng dù không có tội thì hắn cũng đã bị bắt. Chiếc xe rù ga chạy đi. Hắn nhìn ra ngoài, những phố xá, những dòng xe, những con người vẫn tấp nập vụt qua. Xe chở hắn đi đâu? Rồi người ta sẽ làm gì với hắn? Đọc báo thấy nhiều chuyện người bị bắt đi vào cơ quan công an và đi ra là xác chết trên băng ca. Hắn chợt lạnh sống lưng, người lạnh toát, mồ hôi tuôn ra như tắm, mặt xanh lè. Cũng đã có nhiều khi hắn nghĩ đến cái chết, và muốn tìm đến cái chết vì thấy đời đôi lúc vô vị quá. Nhưng giờ, với ý nghĩ kề cận cái chết bỗng nhiên hắn sợ. Anh công an ngồi bên trái hắn, nhìn hắn liền hỏi: Anh sao thế? Trúng gió à? Hay sợ gì? Chẳng có gì đâu mà sợ. Vừa nói anh ta vừa trấn an hắn bằng cái bóp nhẹ vào vai. Hắn cười gượng, nụ cười méo mó: không sao, tôi chỉ hơi mệt một tí thôi. Xe chạy qua một bùng binh và hắn biết xe đang trên đường Nguyễn Trãi. Con đường đó có nhiều cơ quan công an của trung ương, hắn chợt hiểu là hắn bị bắt bởi lệnh từ bộ chứ không phải của thành phố, nếu không là chở đến Sở Công an ở Trần Hưng Đạo chứ? Kiểu này không biết may hay rủi đây, trong suy nghĩ của hắn, dính tới bộ chắc là mệt rồi.

Xe chạy vào trong một cơ quan rộng rãi, có nhiều toà nhà sát nhau, thấp thoáng có nhiều bộ đồ xanh của lực lượng công an. Hắn được đưa vào một trong những toà nhà đó. Một anh công an chỉ cho hắn ngồi vào chiếc ghế trước một cái bàn đầy hồ sơ và một chiếc điện thoại. Hắn ngồi đấy, gần cả tiếng đồng hồ chẳng ai đoái hoài đến hắn. Chỉ thấy điện thoại reo liên tục và mấy anh công an cũng liên tiếp trả lời. Hắn lắng nghe xem trong những cuộc trao đổi có chuyện của hắn không mà không đoán được. Hắn thèm thuốc lá, đã mấy tiếng đồng hồ không được hút, hắn thèm vật vã. Không biết trong này có cho hút thuốc không? Hắn lục túi tìm gói thuốc. Chẳng thấy. Chắc hắn bỏ quên ở hộc bàn cơ quan hay rớt đâu đó rồi. Một anh công an đi vào, trên tay cầm điếu thuốc đang hút dở. Hắn ngửi thấy mùi thuốc lá lan toả trong phòng, cơn thèm thuốc khiến hắn dạn dĩ pha chút liều mạng. Hắn chồm lên xin anh ta điếu thuốc. Hắn bảo thèm thuốc quá, nhịn mấy giờ rồi. Anh chàng công an nhìn hắn, ánh mắt hơi ngạc nhiên nhưng có vẻ có thiện cảm. Anh ta rút ra bao thuốc ba số, hắn nhìn theo bàn tay của anh ta. Ồ, thuốc ba số  ngoại đàng hoàng. Anh rút cho hắn năm điếu, đưa cho hắn và bảo, hút đi. Hắn run run cám ơn, đốt lửa, điếu thuốc mới ngon làm sao. Thường ngày hắn chỉ hút con mèo, giá vừa túi tiền, ít khi hút được thuốc ba số ngoại mà giờ lại được hút trong cơn thèm. Điếu thuốc mới đã làm sao.

Hắn cảm thấy mệt, lại buồn ngủ. Chập chờn. Giờ đã quá bữa cơm chiều, hắn thấy đói. Hắn lại thèm dĩa cơm, tô mì gói hay ổ bánh mì không cũng được. Cả thời gian ngồi trên ghế, hắn cảm thấy mỏi và tự hỏi sao không thấy ai đả động gì tới hắn. Chắc là đợi lệnh. Người đi ra, kẻ đi vào có người nhìn hắn một cái nhưng có người chẳng để ý gì đến hắn. Hắn nghĩ hi vọng chuyện đi trên trời của hắn là chuyện nhỏ, chắc không sao. Cuối cùng cũng có người ngồi vào ghế, đối diện với hắn, đưa cho hắn một tờ giấy, bảo khai lý lịch, nhân thân. Hắn cầm tờ giấy, chưa vội đọc và hắn ngước nhìn kẻ đối diện bằng cặp mắt van lơn: Anh ơi, tôi nhát đòn lắm, các anh muốn biết gì, hỏi gì tôi xin nói hết, kể hết. Chỉ xin các anh đừng đánh đập, tra khảo tôi, tôi sợ bị đánh lắm. Xin các anh. Anh chàng công an trẻ cười cười, ai có làm chi anh đâu nào, đánh đập, tra khảo gì đâu. Chỉ yêu cầu anh khai thật, khai chính xác những yêu cầu của chúng tôi. Cứ khai thật thì chẳng có gì lo lắng cả. Hắn hơi yên lòng một chút, lí nhí trong miệng lời cảm ơn. Hắn điền đầy đủ vào trong tờ khai một cách nhanh chóng. Từ sau 1975 đến giờ, hắn đã khai không biết bao nhiêu tờ lý lịch in sẵn như thế này. Xin việc khai, bổ sung hồ sơ khai, xin cấp nhà khai, di chuyển chỗ ở khai, tạm trú tạm vắng khai. Hắn thuộc lòng các chi tiết nên chỉ điền vào như vô thức. Chỉ một loáng là xong. Anh ta hỏi hắn khi nhận lại tờ khai, đói bụng chưa, muốn ăn gì không? Hắn mừng muốn khóc, hắn vốn mau nước mắt mà, hắn lập cập vừa trả lời vừa cười cầu tài, cám ơn, cám ơn, tôi đói, có gì cho tôi ăn chút.

Người ta mang cho hắn ổ mì thịt lại kèm thêm gói thuốc lá ba số, thuốc ngoại mới ngon chứ. Ổ bánh mì cũng ngon, hắn nhìn giấy gói bánh, thì ra là bánh mì Nguyên Sinh ngay phía đối diện. Đó là tiệm bánh mì nằm góc đường Nguyễn Trãi, Trần Đình Xu. Hắn cũng được ăn ở đấy vài lần, thịt nguội và nhất là pa tê ở đấy có thể là ngon nhất Sài Gòn, nhưng giá hơi cao so với gói xôi năm , bảy ngàn lề đường. Nên buổi sáng hắn chỉ dám chọn xôi. Mà sao hắn được ưu đãi thế nhỉ? Cán bộ công an thì chưa ai nặng lời với hắn suốt cả chiều nay, lại cho ăn ngon, thuốc lá xịn. Hắn lại lo. Kinh nghiệm cuộc đời cho hắn nỗi lo đó. Hồi xưa còn ở trong cô nhi viện, cứ mỗi lần được Linh mục giám đốc  hay các frère gọi lên phòng, cho bánh, uống nước ngọt, ân cần hỏi han là có chuyện. Có khi là chuyện vui mà cũng có lúc là chuyện buồn. Bây giờ vào cơ quan công an, được quan tâm ưu ái thế này chắc là chuyện buồn chứ khó có chuyện vui. Miếng bánh mì thịt ngon quá, ăn mà lo, không biết chuyện gì sẽ đến đây? Hắn hút thêm điếu thuốc để trấn tĩnh. Thôi kệ mẹ nó, chuyện gì tới thì phải tới, lo cũng chẳng giải quyết được gì.

Đến tối, hắn được bố trí vào căn phòng nhỏ nằm ngay trong phòng lớn của tòa nhà. Có lẽ phòng này dành cho các nhân viện ngủ trưa hay trực đêm. Phòng có quạt máy, hai giường cá nhân, hai tủ nhỏ đầu giương. Phòng được thông qua phòng lớn bên ngoài bằng một khung cửa kiếng lùa khá lớn và một cửa ra vào. Hắn nằm trằn trọc không biết ngày mai sẽ ra sao. Hắn sợ phải vào nhà tù. Hắn đọc báo thấy nhà tù thường có đại bàng, hành hạ tù mới dữ lắm. Hắn cũng được biết nhà tù cuộc sống đầy kinh hãi, lại lao động miệt mài mà hắn thuộc loại chỉ làm được việc bàn giấy. Hắn lại thêm lo. Trằn trọc mãi. Thấy trên kệ tủ có chồng báo, hắn mở ra đọc. Chẳng thấy tờ báo nào đăng tin người đi trên trời bị bắt. Tin này đúng ra là hot lắm mà, sao toàn bộ các báo không thấy có đăng dòng nào? Chắc là có lệnh của công an, tuyên huấn chỉ đạo rồi. Thế có nghĩa là trọng án à? Nguy rồi đây. Hắn nhỏm dậy, đốt thuốc nhìn ra. Đêm đã khuya, im ắng lạ thường. Thỉnh thoảng có tiếng xe dội vào. Càng khuya càng im, hắn nghe được tiếng lá rơi xuống thềm, nghe được tiếng thở hồi hộp trong tim hắn. Hắn nghĩ nhiều chuyện, lật qua lật lại nhiều chi tiết đã xảy ra trong ngày vừa qua để tìm cho ra mục đích của cuộc bắt bớ này là gì? Sao nhìn qua thấy hình như chẳng có gì có vẻ quan trọng.

6.

Nhưng hắn đã lầm, chuyện quan trọng nhiều hơn hắn nghĩ. Buổi sáng hắn được gọi ra bàn, ngồi vào ghế chờ đợi. Người ta mang cho hắn dĩa bánh cuốn và ly cà phê sữa. Hắn ăn bánh ngon lành nhưng không uống cà phê vì hắn không biết uống cà phê. Hắn thấy trên bàn có ấm trà, hắn rót uống và chờ đợi. Một lát thì có một người đến, có vẻ ông này là sĩ quan cao cấp hay cán bộ chỉ huy gì đấy. Mọi người đều lên tiếng chào, người thì gọi anh Sáu, người gọi sếp, người thưa thủ trưởng. Ông ta kéo ghế ngồi đối diện với hắn. Tuổi trung niên, tóc rễ tre hớt ngắn, mặt dài kiểu mặt ngựa, xương xẩu, răng hô, da đen mai mái như người mắc bệnh sốt rét. Thân hình ông ta gầy đét. Trong giới quan chức và nhất là cán bộ công an bây giờ mà kiếm một ông thủ trưởng ốm o như ông này coi bộ khó. Ông ta cất tiếng chào hắn, giọng rặt Nam bộ. Nghe giọng hắn mừng trong bụng, hắn sợ bị tra hỏi bằng giọng miền ngoài. Ông ta ân cần hỏi hắn đêm qua ngủ ngon không, phòng có nóng lắm không. Nghe giọng thân thiện ấy trong bụng hắn cũng bớt lo. Ông ta bảo thôi giờ ta làm việc nhé. Ban đầu ông hỏi về cuộc đời của hắn. Hắn thật thà kể hết. Hắn là con mồ côi, không cha mẹ. Được cô nhi viện Công giáo lượm về nuôi. Lớn lên từ viện cô nhi, được các cha đùm bọc, nuôi nấng và dạy dỗ cho đến khi ra đời đi làm thầy giáo, lấy vợ rồi làm thầy cò cho báo. Ông ta nghe một cách lơ đãng, đốt thuốc liên tục và cậu công an trẻ ngồi bên hí hoáy viết biên bản. Đột nhiên, ông ta chồm người tới trước, dụi điếu thước đang hút dở, nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi: Tại sao anh đi được trên trời, anh đi trên trời để làm gì và thu thập điều gì? Hắn vẫn thủng thẳng kể lại vì buồn chuyện gia đình, bị mất chiếc xe mới sắm, hắn đi ăn thịt chó, say và buồn nên một hôm hắn muốn tự tử. Hắn nhảy từ trên lầu cao để tìm cái chết và không ngờ hắn lại đi được trên trời. Chỉ có vậy. Hắn cũng không biết tại sao hắn lại có khả năng đặc biệt ấy. Ông ta bảo anh có dấu điều gì không? Hắn lắc đầu bảo hắn nói thật, không dấu diếm điều gì. Thật ra, trong lời khai, hắn có dấu hai điều, một là hắn nhìn thấy vợ hắn làm tình với tình nhân trên chiếc giường của vợ chồng hắn. Vì theo hắn nghĩ, ai lại đem cái chuyện thối tha và mất mặt đàn ông ấy kể cho người khác nghe và hắn cũng không muốn nói xấu phụ nữ, nhất là người một thời là vợ hắn. Hai là chuyện lão già bí hiểm cho hắn viên thuốc để đi trên trời. Lão già đã bảo hắn không được nói với ai và hắn cũng nghĩ có nói ra cũng chẳng ai tin, lại bảo hắn phịa chuyện thì càng thêm tội. Nên hắn im về hai chi tiết đó. Ông thủ trưởng ngồi nghe, chẳng thấy phản ứng gì trên khuôn mặt khắc khổ. Lúc đó đã trưa, cuộc hỏi cung cũng đã kéo dài gần hai tiếng đồng hồ. Ông đứng dậy, hút tiếp điếu thuốc, đưa cho hắn một điếu rồi đi ra cửa chẳng chào ai. Hắn chẳng đọc lại biên bản, cầm bút ký tên nơi chỗ người khai rồi lại đốt thuốc. Hắn nghĩ cuộc hỏi cung sẽ rất gay cấn, sẽ có những lời hằn học, đe doạ, sẽ có cảnh xô ghế đập bàn. Nhưng tuyệt nhiên không, giống như cuộc nói chuyện của hai người bình thường, thân thiện và hoà nhã. Chính điều đó làm cho hắn muốn điên. Tại sao lại có thể có không khí ấy trong một cơ sở quan trọng của công an. Tại sao không có đe doạ, không có những câu nói thô lỗ thường thấy, không có sử dụng bạo lực như đã từng có. Sau này hắn mới biết vụ này thuộc quyền của trung ương, là trọng án, có chuyên đề rõ ràng. Tuy không phải là vụ buôn ma tuý xuyên quốc gia, cũng không phải là vụ giết người hàng loạt, cũng không phải là vụ án phản động lật đổ chính quyền mà là một việc rất đặc biệt không mang tính hình sự cũng như chính trị nhưng rất quan trọng vì đây là một vụ kỳ lạ chưa từng có ở Việt Nam cũng như trên thế giới: Người đi trên trời.

Hắn lại đưa về phòng cũ sau khi được ăn một dĩa cơm sườn bì chả ngon thật ngon và có thêm gói thuốc đi kèm. Cả đêm qua không ngủ, lòng cũng bớt thấp thỏm, hắn lơ mơ ngủ. Ngủ chưa được bao láu thì nghe bên ngoài có tiếng quát tháo, tiếng đập bàn. Hắn nhỏm dậy, ngó ra. Có một người bị bắt mới bị giải vào, cán bộ đang hỏi cung. Hình như anh này dính vào một vụ cướp gì đấy nhưng anh không nhận, anh bảo anh vô tội. Và cũng hình như bên công an có bằng chứng để kết tội anh. Bên nói qua, bên trả lời lại. Bên bảo có, bên nói không nên anh chàng hỏi cung nổi giận, đấm cho anh kia mấy đấm và cái tát. Hắn trở lại giường, lại thiu thiu ngủ thì nghe tiếng đấm tiếng đá vọng vào. Anh chàng bị cho là cướp bị trói trên ghế, hai tay bị cuộn dây quấn chặt sau lưng, hứng chịu những cú đấm, cú đá vào bụng, vào ngực, vào mặt. Thấy có máu chảy từ mũi của anh ta. Đầu anh ta gục xuống, tóc tai rối bời. Hắn sợ. Hắn nghĩ đến ngày mai có thể là người ngồi trên chiếc ghế ấy và hứng chịu những cú đấm, cú lên gối ấy. Anh chàng ra tay đấm đá lại chính là anh chàng cho anh năm điếu thuốc với nụ cười. Sao con người có khuôn mặt hiền lành thế mà có thể ra tay những đòn ác nghiệt thế nhỉ? Nghĩ đến đấy, hắn lại sợ. Cơn sợ hãi làm hắn toát mồ hôi. Hắn bò về giường, tiếng đấm đá huỳnh huỵch vẫn tiếp tục vọng vào một lát thì ngưng. Có lẽ người ra đòn cũng thấm mệt mà người bị đòn cũng đã gục rồi. Hắn lại  ngủ. Được một giấc thì hắn tỉnh dậy. Chiều chập choạng, im ắng quá. Hắn đốt điếu thuốc nhìn ra khung cửa, chợt giật mình. Anh chàng bị cho là cướp hồi chiều đang bị treo nơi cửa sổ, cổ anh bị buộc bằng dây nịt như người treo cổ nhưng không siết hết cỡ. Tay bị trói. Chân anh chạm đất chỉ nhờ mấy ngón chân, chỉ cần anh không rướn người mà cho cả bàn chán sát đất, dây nịt sẽ siết chặt cổ anh và anh sẽ chết vì nghẹn thở. Hắn ngồi hút thuốc nhìn ra, mặt anh đã tái nhợt, tóc rối bê bết. Đôi mắt nhìn như tuyệt vọng, như cầu xin, như căm giận. Người anh ướt sũng nhìn như một kẻ đang chết vì treo cổ. Một lát sau hắn nghe tiếng thở ằng ặc như người bị bóp cổ. Nhìn ra hắn thấy chân anh đã chạm đất có lẽ không chịu được sự mỏi mệt, dây nịt siết mạnh vào cổ anh như chiếc thòng lọng, mặt anh tím tái, mắt lồi ra và miệng há hốc như con cá đớp không khí. Hắn chạy ra, đỡ anh lên và nới vòng dây nịt. Anh vẫn khò khè thở, mặt tím tái và lưỡi thè ra, nước dãi chảy xuống ngực. Hắn la lên có người chết, có người chết. Tiếng la trong phòng trống vọng lại như tiếng echo của cái ampli hỏng. Hắn lại tiếp tục hét to hơn, có người chết, cứu với, có người chết. Một lát sau có hai anh công an chạy vào, cùng với hắn đỡ anh ta xuống. Anh ta vẫn chưa tỉnh dù dây nịt đã tháo ra khỏi cổ. Anh nằm yên không động đậy. Một anh công an làm động tác hô hấp nhân tạo, một anh kề miệng thở qua miệng của anh. Một lúc sau anh mở mắt, hai dòng nước mắt chảy dài. Anh nhìn mọi người, không nói, chỉ nấc một tiếng rồi im.

Đêm đó, anh được ngủ cùng phòng với hắn. Anh kể anh là shipper, đi giao hàng cho nhà ông cán bộ. Biệt thự không có ai, anh bấm chuông mấy lần mà không người mở cửa, đành quay xe đi. Ai dè nhà ông cán bộ lãnh đạo đó sau hoặc trước đó đã bị cướp, nghe bảo mất tiền, vàng, đô la, hột soàn nhiều lắm. Công an đến điều tra, mở camera thấy mặt của anh bị thu hình trong đấy còn bọn cướp chắc chúng đã dùng gì đó che khuất camera lúc tiến trình vụ cướp. Căn cứ vào đó, công an bắt anh, cố ghép anh nhận tội. Nhưng mà anh đâu có cướp đâu mà nhận. Mà nhận rồi lấy quái chi mà bù. Có phải vài trăm, vài triệu đâu, vụ này bị mất vài chục tỷ, anh lấy đâu mà đền, nhận để mà đi tù rục cương à. Nên anh quyết không nhận. Anh cám ơn hắn đã cứu anh, nếu hắn không phát hiện kịp, chắc giờ anh ấy đã thành xác chết nằm trong ngăn lạnh rồi. Từ tờ mờ sáng, người ta giải anh đi đâu không biết, hắn chẳng rõ rồi số phận anh sẽ ra sao.

7.

Sáng hôm đó hắn cũng bị giải đi, xe chở hắn đến sân bay, đi kèm có hai công an nữa. Hắn bị di lý ra Hà Nội. Ở Hà Nội suốt mấy tuần lễ, người ta cũng hỏi mãi về nhân thân hắn, vì sao hắn đi được trên trời. Hắn cứ phải lặp đi lặp lại từng đấy lời khai. Lần nào cũng dấu nhẹm vụ vợ hắn ngoại tình và chuyện lão già bí hiểm. Có một lần một ông chắc là quan to, hỏi hắn sao đi được trên trời và cũng như mọi lần hắn kể hết như đã từng khai. Ông ta lúc đầu còn anh tôi, sau thì nổi điên đập bàn nói lớn: Địt mẹ, tao ăn thịt chó từ lúc còn là bào thai cho đến giờ đã gần hết đời người, làm đéo gì có chuyện ăn thịt chó mà bay được. Thằng này láo. Hắn vẫn điềm nhiên khai như thế và tất cả những lần sau cũng khai không khác. Người ta chở hắn đến bệnh viện, bác sĩ lấy máu, lấy nước tiểu, lấy phân, soi ruột, chọc lấy tuỷ của hắn đi xét nghiệm. Họ còn chích phóng xạ rồi đẩy hắn vào một cái lò để nghiên cứu. Rồi đi chụp xương, chụp cơ.  Không ít lần bác sĩ đến đo huyết áp, nhịp tim, kiểm tra phản xạ các cơ. Nói chung là kiểm tra toàn bộ cơ thể hắn, nhưng hình như họ không tìm thấy điều gì bất thường.

Một buổi chiều, một đoàn xe đến chở hắn đi. Đường đi khá xa. Đến khoảng tối thì đến một thung lũng xanh tươi, bốn bề là những vách núi đá. Đoàn đi đông lắm, có nhiều quan to, bụng bự, kè kè đám bảo vệ. Cũng có nhiều người hắn nghe loáng thoáng mấy người trao đổi với nhau là các nhà khoa học của Viện nghiên cứu nào đó. Còn có mấy ông Trung Quốc và cả Nga xô nữa. Đoàn có hai chiếc xe chở máy móc lỉnh kỉnh, dây nhợ lòng thòng. Đến nơi, họ cho hắn uống một ly màu trắng như sữa nhưng chẳng có mùi vị gì rồi gắn cho hắn cái tai nghe điều khiển từ mặt đất. Trang bị xong đoàn yêu cầu hắn đi trên trời cho mọi người xem. Hắn tuân lệnh ngay đâu dám cãi. Hắn đi bộ một quãng ngắn rồi nhún mình kên, đi từ thấp lên cao như đi giữa đường phố vậy. Cả đoàn há hốc mồm nhìn theo như những đứa trẻ ngóng con diều của mình đang bay trên trời cao. Hắn đi vòng vòng, rẽ trái, qua phải, lên cao, xuống thấp theo lệnh từ phía dưới. Hắn nghĩ nếu muốn trốn, hắn chỉ càn không theo hiệu lệnh, đi thẳng một mạch là xong ngay. Nhưng rồi đi về đâu, rồi sẽ sống như thế nào, công an Việt Nam hay lắm, khi đã muốn tìm, dù ở chân trời góc bể, xó xỉnh nào họ cũng tìm ra. Đành thôi, làm robot cho họ điều khiển và thực hành theo lệnh của họ. Đi trên trời cao, dù đang thân tù tội hắn vẫn cảm thấy sướng, thấy lòng thanh thản ngước lên nhìn thấy bầu trời với các vì sao, ngó xuống thấy biển, thấy sông, thấy hồ, thấy suối, thấy rừng cây xanh, ruộng đồng bát ngát mênh mông.

Đi được khoảng hai giờ, có lệnh đi xuống, hắn như vừa rời giấc mơ bước xuống. Người ta quấn vào người hắn đủ thứ dây. Đội cho hắn cái mũ như phi hành gia vũ trụ, mang cho hắn một đôi giày nặng như chì rồi bỏ hắn vào một cái xuồng đấy các mặt đồng hồ có đèn xanh đỏ. Có tiếng tít tít, có tiếng rè rè, tiếng như nước chảy, xe chạy, tiếng đạn nổ, tiếng ì ầm như bom. Mọi chuyện kéo dài gần cả giờ. Lại leo lên xe, chạy về. Trên xe mọi người nhìn hắn như hắn là người hành tinh. Mấy cha Tàu với mấy thằng Nga thì huyên thuyên nói gì với nhau liên tục.

8.

Gần tuần lễ sau thì hắn được thả. Hắn đến sân bay Nội Bài với một tài xế. Đến nơi, tài xế đưa cho hắn một chiếc vé bay chuyến 21:00. Hắn về một mình, không ai đi kèm, có nghĩa là hắn đã được tự do. Về đến nhà đã nửa đêm, hắn leo lên nhà ngủ một giấc cho đến sáng, mong rằng mọi chuyện sẽ qua. Từ đây hắn sẽ được yên ổn để sống. Sáng ra, hắn đến toà soạn trình diện nhưng tay trưởng phòng báo cho hắn biết hắn đã bị đuổi việc. Hắn lặng lẽ đi về không một thắc mắc. Có lẽ ở toà báo chẳng có ai biết hắn là người đi trên trời ngoài cái thằng mỏ nhọn. Nhưng cái mỏ nịnh nọt của nó chắc cũng có lệnh khoá rồi nên nó im thin thít. Hắn đi lang thang trên phố suốt cả ngày, đầu trống rỗng, chẳng tính chi được ngày mai. Buổi tối ăn cơm bình dân bên vỉa hè, hắn có uống miếng rượu giải sầu, đầu cũng lâng lâng. Hắn đi bộ về khu nhà lúc đã khuya, đường bắt đầu vắng. Ngọn đè đường vàng vọt đồ bóng hắn in xuống đường đơn côi. Hắn buồn, Rất buồn. Hắn thấy cuộc đời bế tắc, tương lai mịt mờ. Đang đi, hắn tự nhủ bay lên một cái nào, đi lên trời lang thang suốt đêm nay để quên hết những thứ khốn khổ ở trần gian xô bồ này. Và hắn nhảy lên một cú thật cao để mở đầu một chuyến. Nhưng hắn không đi trên trời được nữa, cú nhảy đã làm cho hắn ngã quỵ, hai chân gãy mất rồi. Hắn gục xuống như thân cây bị đốn ngã. Hắn nằm một đống trong cơn đau tột cùng. Trong cơn mơ màng, hắn thấy lão già bí hiểm xuất hiện, móm mém cười và vẫy tay với hắn. Lão biến mất là hắn ngất đi, không còn biết gì nữa.

Phần cuối truyện

Hắn tỉnh dậy thấy mình đang ở trong bệnh viện, hai chân bó bột trắng xoá, cơn đau còn âm ĩ. Đầu giường có chiếc xe lăn mới tinh được để sẵn. Nửa tháng ở bệnh viện, cơm nước, thuốc men đầy đủ, hắn lo không biết lấy tiền đâu mà trả đây. Hắn nghĩ đến chuyện trốn viện, nhưng hắn vốn là người lương thiện nên suy nghĩ đó qua nhanh rồi mất hút. Ngày ra viện, hắn đến phòng nhận giấy xuất viện mà lòng đầy lo âu, không biết xử trí thế nào. Khi nhận giấy, cô nhAn viên chẳng hỏi tiền bạc gì còn cười chúc hắn mau khoẻ. Hắn hỏi chi phí bao nhiêu và có thể trả theo cách nào? Cô gái lại cười bảo ông nội anh trả hết rồi, xe lăn ổng cũng mua cho anh đó. Mà nói thiệt nghe, ông của anh tu theo đạo nào mà ăn mặc như trong phim kiếm hiệp của Hồng Kông vậy? Hắn không trả lời, lăn xe đi, trong đầu nghĩ đến lão già bí hiểm. Lão là ai? Sao lão lại theo hắn mãi thế? Cứ đến phút 89 là có mặt lão xuất hiện. Lạ thế chứ.

Từ đấy, ngày ngày nơi góc phố gần cái chung cư đang xuống cấp, có một người đàn ông không già mà cũng chẳng trẻ, khuôn mặt sáng nhưng đượm buồn, hai chân bó bột trắng, ngồi trên xe lăn ôm đàn hát những bài tình ca của một thời. Giọng anh có tình, tiếng đàn anh réo rắt nên khách qua đường cũng nhiều người cho anh tiền vào cái mũ da đã sờn để trước mặt. Người qua, kẻ lại nhưng chẳng ai biết anh què trước mặt là người đã từng đi trên trời nhưng giờ này anh không còn đi được trên trời nữa mà đi dưới đất cũng không xong, phải di chuyển bằng chiếc xe lăn.

Một hôm hắn thấy lão xuất hiện bên kia đường. Lão vẫn thế, vẫn bộ áo quần đó, chiếc mũ đó, đôi tay khẳng khiu đó, khuôn mặt tái sắc nhọn đó. Lão đưa tay vẫy hắn, hắn vẫy tay chào lại. Và đó là lần cuối cùng hắn gặp lão. Lần cuối cùng.

Viết xong 18.7.2021

Ngày thứ 10 Sài Gòn lockdown

DODUYNGOC


Bước Không Qua Số Phận – Đỗ Duy Ngọc

1.
Tôi học chung với Nhân từ năm 1964 lớp đệ ngũ. Trước đó, tôi có năm năm học nội trú trường Pellerin, một trường dòng Lasan ở Huế do các Frère giảng dạy. Những năm học ở đó, tôi luôn đứng đầu lớp, là niềm tự hào của các Frère phụ trách và gia đình. Nhưng từ khi về học ở Đà nẵng, tôi chưa bao giờ vượt qua được Nhân. Lúc nhỏ tôi rất xấu tính, hay ganh tị, không muốn ai hơn mình. Do vậy, tôi chẳng ưa gì Nhân.

Thành phố này có hai ông Đốc. Một ông Đốc học phụ trách chuyện giáo dục của toàn thành, ông Đốc này là ba Nhân. Ông Đốc thứ hai là ông Đốc tờ, tức là ba tôi, quản lý ngành y tế của thành phố. Mấy ông quan chức thường tụ họp nhau vào sáng chủ nhật ăn sáng, uống cà phê, bàn chuyện thời thế. Sau khi mất nhiều thì giờ trao đổi chuyện chính trị, chuyện thế sự, chuyện tiếp đó thường là chuyện con cái. Và lần nào cũng vậy, việc học hành giỏi giang, thông minh của Nhân lại được đem ra tán dương. Mỗi lần nghe chuyện, tôi rất khó chịu. Tự nghĩ mình cũng học giỏi có thua gì Nhân mà chẳng bao giờ được nhắc tới. Nhân càng được ngợi khen, tôi càng thêm ghét hắn. Khác hẳn tôi, Nhân rất muốn làm thân với tôi. 

Tôi càng tránh hắn càng cố đến gần. Lần nào gặp tôi hắn cũng nở nụ cười thật tươi, còn tôi thì mặt nặng như chì. Nhân đẹp trai, tuy người hơi thấp. Da trắng, mũi cao, mấy lọn tóc xoăn lúc nào cũng lòa xòa trước trán. Môi lúc nào cũng đỏ như son. Mà kể cũng lạ. Nhà ông Đốc học có năm người con, hai trai ba gái, chỉ có mình Nhân là đẹp, mấy đứa còn lại đứa nào cũng xấu như ma. Lại thêm có đứa con gái kế Nhân bị thần kinh, hay bỏ nhà đi lang thang, đứa em trai út thì bị bệnh down, lúc nào cũng ngơ ngác, nước dãi chảy lòng thòng. Vì cảnh nhà như thế nên ông Đốc học rất kỳ vọng ở Nhân, Nhân là niềm tin, niềm tự hào và cũng là lẽ sống của ông. 

Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế. Nghe vậy, hắn chỉ cười, giờ học nào cũng ghi chép rất cẩn thận.

Không những học giỏi, Nhân còn đá banh rất siêu, đánh cờ tướng rất cừ. Lại thêm rất giỏi võ. Không biết hắn học võ từ khi nào mà tay hắn cứng như thép, cỡ mấy viên gạch xây nhà hoặc năm ba viên gạch thẻ chỉ cần hắn vung tay là bị bể đôi ngay. Hắn múa gậy vun vút, đá ném không chạm vào người hắn. Cỡ hai người công kênh nhau, người trên cầm mấy cục gạch, hắn chỉ cần lấy đà chạy ba bước, bay lên đá viên gạch vỡ nát. Hay nhất là trèo tường. Nhân chạy lấy đà, tung người thẳng góc với bức tường, chạy thoăn thoắt lên trần nhà. Y như là mấy nhân vật trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Mỗi lần Nhân làm trò, cả bọn học trò chúng tôi trố mắt, há mồm mà nhìn, lắc đầu thán phục.Mọi người đặt cho hắn cái tên là Siêu Nhân. Tôi vừa sợ vừa ghét hắn. Tôi vốn ốm yếu, lại chúa nhát gan, chúng bạn gọi tôi là con mọt sách. Cho nên dù không ưa, tôi cũng nể sợ hắn. Không biết có phải vì võ công thâm hậu quá mà đôi mắt của Nhân trông lạ lắm. Ánh nhìn như dao sắc, như có lửa, như muốn bóp nát người ta, đầy sát khí. Tôi thường tránh ánh mắt của hắn. Nụ cười của hắn thân thiện nhưng đôi mắt thì đầy hăm dọa.

Trong các môn học, tôi chỉ nhỉnh hơn Nhân môn Pháp văn và hai môn phụ là âm nhạc và hội họa. Bởi những môn này tôi được rèn luyện năm năm ở trường dòng Lasan. Nhưng đến năm đệ tam, tiếng Pháp của hắn tiến bộ đến không ngờ, đến thầy giáo già dạy Pháp văn cũng ngạc nhiên. Sau này tôi mới biết là suốt cả mùa hè hắn chỉ tập trung vào môn học đó, cả ngày nghe đài Pháp để luyện giọng và lảm nhảm luôn mồm mấy từ vựng. Có một lần tình cờ tôi thấy trên bìa sách Pháp văn của Siêu Nhân có ghi câu bằng chữ in đậm VOULOIR C'EST POUVOIR. Có lẽ đó là quan niệm của Nhân.

Cuối năm đệ tam, Nhân lại khiến cho các Thầy và đám học trò thêm thán phục khi giải bài thi toán tú tài 1 ban B chỉ trong 27 phút. Hắn lại tiếp tục là tấm gương cho các bậc cha mẹ thường nhắn nhủ các con: gắng học cho giỏi như anh Nhân. Hắn đi đến đâu cũng được mọi người trầm trồ khen ngợi. Bởi thời đó, người giàu có không được trọng nể bằng người học giỏi. Ngay cả những quan chức cũng rất trân trọng người tài, học trò gỉỏi. Năm học đó, hắn lãnh phần thưởng lớn lắm, phải thuê xích lô chở về nhà. Ông Đôc học rất hãnh diện. Mà hãnh diện cũng phải thôi, cha mẹ nào lại không sướng khi có người con như thế.

Trong lớp chúng tôi, thường chia ra hai nhóm rõ rệt. Mấy đứa nhỏ con, học kha khá thường ngồi mấy bàn trên, còn mấy bàn cuối lớp mà mấy thầy gọi là xóm nhà lá toàn là mấy đứa bự con, ba trợn, chơi nhiều hơn học và thường chọc phá mọi người. Cầm đầu xóm này là thằng Hồ Lê. Đó là một thằng sừng sỏ tuy cũng có tố chất thông minh, học hành cũng không đến nỗi tệ. Hồ Lê người đen giòn, cao to lừng lững, mặt chữ điền, góc cạnh. Ngay trên trán có một vết sẹo dài khiến khuôn mặt của hắn càng thêm vẻ anh chị. Hắn bảo đó là vết tích chiến tranh. Hỏi thêm nữa hắn sẽ trừng mắt hăm dọa nên chẳng ai dám lên tiếng thắc mắc nữa. Nhà Hồ Lê nằm trong hẻm sâu sau lưng nhà tôi, mẹ hắn bán rau hành ở chợ. Nhà hắn trơ trọi chỉ hai mẹ con và không bao giờ hắn nhắc đến cha. Tôi sợ hắn lắm, vì hắn hình như rất ghét tôi, cứ tìm mọi cách để sinh sự.

Mỗi lần gặp tôi hắn thường dí tay vào trán tôi mà gầm gừ: đồ quý tộc dơ bẩn. Tôi cũng chẳng biết sao hắn lại bảo tôi thế. Tôi vốn nhát như cáy nên thường tìm đủ mọi cách để tránh mặt hắn. Tránh hắn nhưng miệng lầm bầm: ĐM thằng Lê sẹo, rồi ông sẽ giết mày, anh hùng báo thù mười năm chưa muộn. Nói thầm thế thôi, chứ thấy bản mặt nó là tôi đã sợ chết khiếp, nổi gai cả người. Nhưng tôi càng tránh, hắn lại tìm đủ mọi cách để trêu ghẹo tôi. Lúc thì đi đàng sau khèo chân cho tôi té. Khi thì búng tai, giựt tóc mai của tôi rồi cười cợt với một lũ âm binh ăn ké.

Một hôm chúng tôi được nghỉ tiết cuối, đang trên đường về nhà thì tôi bị đám thằng Hồ Lê chận đường. Hắn đứng trước mặt tôi, hai chân khuỳnh khuỳnh, cái mặt kênh kênh.Hắn bảo tôi rúc dưới háng hắn mà đi. Mặt tôi xanh như đít nhái. Vừa tức vừa sợ. Miệng lắp bắp định van xin. Đường vắng teo, chẳng có ai có thể giúp tôi. Tôi nghĩ phen này chắc tiêu. Không chết vì nhục thì cũng ốm đòn với hắn. Hắn xắn tay áo, hai cánh tay cuồn cuộn. Vung tay. Tôi nhắm mắt, tưởng như muốn đái cả quần. Hai chân muốn quỵ xuống, bởi tôi vốn nhát đòn. Tôi chờ đợi cú đấm như trời giáng của hắn. Bỗng nghe tiếng hự..hự.. huỳnh huỵch… như ai đấm bao cát. Sao tôi chẳng thấy đau.

Hé mắt nhìn, thấy thằng Lê đang nằm chỏng gọng, mặt nhăn nhó, méo xẹo. Trước mặt hắn là Nhân. Siêu Nhân. Nhân chỉ tay vào mặt hắn và bảo: - Tao cấm mày đụng đến thằng Ngọc, tao là bạn nó. Thằng nào ăn hiếp hắn sẽ biết tay tao. Liệu hồn. Cút…Bọn thằng Lê chạy một mạch không ngoái đầu. Nhân vỗ vai tôi, cười: Đừng sợ chúng, cứ sợ mãi thì chúng cứ ức hiếp hoài.

Từ đó, tôi và Nhân thân nhau. Đi đâu cũng có đôi. Và đám thằng Lê cũng không dám đụng vào tôi nữa, dù ánh mắt nó cũng còn gầm ghè.

Đến lớp đệ nhị, tôi chọn ban A còn Nhân tiếp tục ban B. Bởi ba tôi muốn chuẩn bị cho tôi lên học y khoa nên bảo tôi học ban Vạn vật. Hơn nữa tôi cũng còn háo thắng, muốn học khác lớp với Nhân để được đứng đầu lớp, chứ học chung tôi không vượt qua được hắn. Dù khác lớp nhưng chúng tôi vẫn đi chơi chung với nhau, gắn bó với nhau như hai anh em.

Nhân thường dẫn tôi đến quán nước ở góc sân trường. Chủ quán là chị Đầm. Tôi gọi bằng chị vì chị lớn hơn chúng tôi vài ba tuổi. Chị bị rỗ huê nên bọn học trò thường gọi là chị Đầm rô. Chị to lớn như đàn ông, giọng ồ ề, lại khoái hút thuốc lá nên môi thâm xì. Tuy vậy, chè đậu của quán chị rất ngon, nên lũ học trò rất khoái tụ tập ở quán chị. Chị Đầm lại rất ái mộ Nhân, xem Nhân như thần tượng, ánh mắt nhìn Nhân rất lạ. Tại quán đó, tôi bị chị dụ tập hút thuốc lá và thói quen này theo suốt đời tôi. Và cũng tại quán đó trong một buổi trưa trú mưa, tôi biết lý do tại sao Nhân cứ muốn làm thân với tôi.

Số là cạnh nhà tôi có một gia đình rất giàu có, là chủ của mấy rạp xi nê và khách sạn ở Đà Nẵng, Huế, Qui Nhơn và Nha Trang. Chủ nhân vốn xuất than từ hoàng tộc tên Bửu Hân. Nhà có cậu con trai út tên Vĩnh Đệ còn nhỏ và hai cô con gái rất đẹp, cô chị tên Huyền Tôn Nữ Dạ Lan, cô em là Huyền Tôn Nữ Dạ Hương. Mỗi cô có nét đẹp riêng. Dạ Lan đẹp kiêu sa, đài các. Dáng thanh mảnh, thướt tha. Cổ cao ba ngấn, da trắng như ngà, tóc dài chấm mông, mặt như Đức Mẹ, mắt lúc nào cũng buồn vời vợi.

Suốt ngày ngoài giờ học chỉ thơ thẩn trong vườn đọc sách, đan len, chiều chiều lại đánh đàn piano cho đến tối. Dạ Lan thích mặc áo màu tím Huế. Dù là áo dài đi phố, đi lễ nhà thờ hay áo cánh đi chơi, cô chỉ chọn độc một màu tím rịm. Cô em Dạ Hương thì trái ngược với chị. Mới mười lăm tuổi mà bộ ngực đã tròn to khêu gợi. Tóc cắt ngắn, da rám hồng. Suốt ngày sau giờ học chỉ đi tắm biển và đánh quần vợt. Chỉ thích mặc áo thun và quần jean, cỡi xe Honda chạy vù vù. Đọc toàn báo Tây, hát toàn nhạc Pháp. Tuần nào cũng đi nhảy đầm với lũ bạn học cùng trường Lycée Blaise Pascal

Vì ở cạnh nhà lại là đồng hương nên gia đình tôi rất thân với nhà đó. Lễ tết, giỗ chạp, tang ma hiếu hỉ đều qua lại với nhau. Nhân thích Dạ Lan. Nhân thổ lộ với tôi như vậy. Và Nhân muốn qua tôi làm quen với cô ấy. Chuyện dễ ợt, chẳng có chi khó khăn. Nhưng tôi lại bảo với Nhân là chuyện này khó lắm, cần phải có thời gian. Nhân cầm tay tôi lắc lắc: - Cố nghe, cố nghe.

Việc làm ông mai tiến hành quá suôn sẻ, tôi ướm lời với Dạ Lan: - Tôi có anh bạn ái mộ Dạ Lan lắm, anh ấy muốn tôi giới thiệu với Dạ Lan. Cô ấy thoáng chút ngạc nhiên - Ai vậy? Quen hay lạ? - Dạ Lan biết người này mà. - Nhưng mà ai mới được chứ. Tôi cười bảo: - Anh Nhân, bạn thân của tôi - Anh Nhân con ông Đốc Lễ phải không? Tội gật. Dạ Lan cười: - Tưởng ai.

Sau này, khi hai người đã gắn bó nhau, tôi mới biết hóa ra Dạ Lan cũng đã để ý đến Nhân lâu rồi. Thì trai tài gái sắc, đến với nhau là lẽ đương nhiên của cuộc đời.

Hai người yêu nhau thắm thiết lắm. Hai gia đình cũng thoáng biết nhưng chẳng có ý kiến gì. Mà thật ra còn đòi hỏi chi, vừa môn đăng hộ đối, vừa đôi lứa xứng đôi. Nhân cám ơn tôi nhiều lắm.

Chúng tôi hay đi chơi với nhau, ngoài tôi, Nhân, Dạ Lan còn có Dạ Hương. Thường là đi xem phim, đi ăn kem hoặc đi dạo bên bờ biển. Dạ Hương sôi nổi, nhí nhảnh còn Dạ Lan khép nép, dịu dàng. Một hôm, chúng tôi đi dạo trên bờ biển, trời vừa tối, chân trời ráng đỏ. Dạ Hương kéo tay tôi và bảo khẽ: Mình tránh đi cho anh chị ấy tâm sự, cứ như thế này thì anh chị ấy tâm tình làm sao được.

Dạ Hương kéo tôi chạy vào hàng phi lao, trời tối hẳn, những ngọn gió xào xạc. Theo đà chạy dưới cát lún, Dạ Hương ngã vào người tôi, ôm cứng, hơi thở gấp. Theo quán tính, tôi cũng ôm siết lấy nàng, hai bầu ngực căng khép vào ngực tôi. Tôi thấy mình căng cứng. Dạ Hương vít đầu tôi xuống, hôn trên môi tôi. Tôi như đang bay bổng vì nụ hôn đầu đời.

Tôi chẳng biết phải hôn trả lại thế nào nữa. Tôi lạng quạng và thả lỏng đôi tay. Bỗng dưng tôi cảm thấy sợ. Hóa ra tôi luôn luôn vẫn là thằng nhút nhát. Kiểu tấn công mạnh mẽ của Dạ Hương làm tôi hãi, dù phần dưới cơ thể của tôi đã đông cứng lại rồi. Tôi bỏ đi và như kẻ mộng du. Tôi bỗng muốn khóc. Dạ Hương chạy theo tôi hét lớn: Anh có phải là đàn ông không? Tôi ngồi xuống giữa bãi cát và tự hỏi, mình có phải là đàn ông không?

Từ đó, Dạ Hương tránh mặt tôi, và tôi cũng có ý không muốn gặp nàng. Tôi vẫn tự nhủ mình tệ quá.

Kỳ thi Tú tài 1 năm đó, tôi và Nhân đều đậu Ưu hạng. Cả hai gia đình rất vui. Hôm lãnh thưởng ở trường, đôi mắt của ông Đốc học ba Nhân ánh lên niềm tự hào, sung sướng và mãn nguyện. Còn đôi mắt của Dạ Lan thì tràn đầy hạnh phúc.

Ba tôi dù theo Tây học, nhưng lại rất mê nghiên cứu Kinh Dịch. Có một người Hoa thường đến trao đổi cùng ba tôi. Người này tên Lý Hạnh, chuyên nghề phong thủy và tướng số. Hai người tâm đắc lắm, thường nói chuyện với nhau cả buổi mà không chán. Một hôm, khi ba tôi và chú Lý Hạnh đang nói chuyện với nhau thì tình cờ tôi nghe được cả hai bàn về Nhân. Ông Lý Hạnh bảo: - Cậu Nhân tướng toàn tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy nếu không học đựợc chữ nhẫn sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm. Ba tôi trầm ngâm một lát rồi hỏi đến tương lai của tôi, Ông Lý Hạnh im lặng một lát rồi gật gù: - Cũng tạm. Ba tôi nhíu mày: - Cụ thể là sao? - Ông Đốc cũng đã nghiên cứu lý số. Số nói sao thì nghe vậy. Còn cụ thể thì chịu. Nhiều khi thiên cơ bất khả lậu - Nhưng đôi khi cũng nhân định thắng thiên - Dạ, cũng có thể. Nghe được vậy, lúc đó tôi hơi hoang mang, nhưng rồi tuổi trẻ chóng quên. Tuy thế lâu lâu nhìn ánh mắt của Nhân, tôi cũng cảm thấy ghê ghê.

Cũng cuối năm ấy, Dạ Hương bỏ nhà đi. Có tin đồn đã kết hôn với một sĩ quan Mỹ ở Sài Gòn. Tôi cứ tự hỏi là mình có lỗi gì trong tai ương này không?

Tết năm Mậu Thân 1968, chiến tranh lan vào nhiều thành phố. Huế bị nặng nhất, rất nhiều người chết trong những ngày xuân. Đà Nẵng cũng không tránh khỏi bị tấn công, nhưng không bị chiếm đóng. Sau Tết, lớp học thưa thớt hẳn, đứa đi lính, đứa đi đâu mất dấu. Trong những đứa vắng mặt, có Hồ Lê. Nghe đồn nó đã lên núi, gia nhập quân giải phóng quân.

Chúng tôi đậu Tú tài 2 dễ dàng. Nhân lại đậu Ưu hạng, tôi chỉ đậu Bình. Tôi lại thua Nhân….

Vào Sài gòn làm thủ tục du học, thời gian chờ đợi khá dài, tôi ghi danh học Văn khoa, còn Nhân thi vào trường Kỹ sư Công nghệ Phú Thọ, học cho vui để quên thì giờ chờ đợi. Thế mà hắn cũng đỗ hạng nhì kỳ thi tuyển vào Phú Thọ năm đó. Tôi vừa xong lớp dự bị ban Văn chương Việt Nam thì có giấy lên đường.

Ngày tôi và Nhân rời Việt Nam đi Pháp du học, hai gia đình tiễn ra phi trường. Ba Nhân ôm vai Nhân: - Gia đình và giòng họ tin tưởng vào con. Ba tin chắc con làm được như ước nguyện. Nhân gật gật đầu, mắt lóe lên niềm hy vọng lớn lao. Dạ Lan mặc áo dài tím, quấn khăn quàng tím nhạt, nước mắt hoen mi. Dạ Lan cầm tay Nhân lắc mãi mà chẳng nói gì. Ba tôi bắt tay tôi, bảo khẽ: - Cố lên nhé!

Hôm qua tôi và ba đã nói chuyện với nhau rất lâu về chuyện truyền thống ba đời làm ngành y, về việc phải tiếp nối nếp nhà. Thật ra, tôi chẳng thích thú gì chuyện du học. Tôi sợ cô đơn ở xứ người, tôi sợ những bất trắc sẽ xảy đến mà chung quanh chẳng có ai giúp đỡ. Tôi như con chim non được nhốt trong lồng son, giờ được thả ra, chẳng định được phương nào để bay đến. Nhưng tôi phải bay đi. Đi và mang theo niềm hy vọng của cả gia đình. Bước lên máy bay, nước mắt tôi cứ muốn trào ra, hai bàn chân tôi như có gì níu lại. Rời Việt Nam, tôi vẫn chưa có mối tình nào vắt vai, không có cô gái nào đưa tiễn. Tôi thấy Nhân hạnh phúc vì còn có tình yêu để đợi chờ.

Chuyến bay kéo dài hơn hai mươi tiếng đồng hồ, chúng tôi nói nhiều chuyện với nhau về tương lai. Thế giới đang mở ra với chúng tôi, và cả hai đang bước vào và tin sẽ chiến thắng. Hai đứa vẽ ra cảnh tượng lúc thành đạt trở về trong niềm hoan hỉ của mọi người. Nhân bỗng bảo tôi: - Cậu chơi piano thế cậu có biết loại đàn nào tốt nhất không? - Để làm gì, sao tự nhiên lại đi hỏi về đàn lúc này? - Thì cứ nói đi - Theo mình biết thì hiện nay đàn hiệu Steinway & Son là tốt nhất, ở Việt Nam chỉ có một hai cái. Nhưng đắt lắm. Cậu đang có ý định gì vậy? Nhân lim dim mắt, cười cười, nhìn ra bầu trời trong xanh: - Khi nào thành đạt, làm ra tiền, mình sẽ mua cho Dạ Lan một cây đàn như vậy.

*******

2.
Chúng tôi chia tay nhau ở phi trường, Nhân sẽ ở lại Paris thi vào trường Đại học Bách khoa Paris. Tôi lại tiếp tục đi gần 750 cây số nữa về Montpellier, một thành phố nằm gần biển Địa Trung hải, để thi vào trường Y. Đại học Montpellier là một trong những trường đại học Y khoa nổi tiếng thế giới, nơi đào tạo nhiều nhà khoa học đã được nhiều giải thưởng y học quốc tế.

Phải mất 9 tháng học dự bị tôi mới thi đậu vào trường, dù chỉ đứng thứ 26, nhưng cũng vui vì đã đi được bước đầu.

Nhân thành công hơn tôi nhiều. Chỉ mất 6 tháng, Nhân đã đỗ thủ khoa vào trường Đại học Bách khoa Paris (École polytechnique) Đây là trường đào tạo kỹ sư danh giá nhất nước Pháp. Đúng ra Nhân phải học đủ một năm dự bị theo chương trình EV1 dành cho học sinh Pháp và các nước nói tiếng Pháp. Nhưng chỉ một thời gian ngắn học ở Lycée Louis – Le – Grand, Ban giảng huấn ở đó nhận thấy Nhân quá xuất sắc nên đặc cách cho thi trước thời hạn. Mục đích phấn đấu của các sinh viên học trưòng này là trở thành nhân lực cấp cao của nưóc Pháp và thông thường 10 sinh viên đứng đầu sẽ được lựa chọn trở thành Corps de Mines, được tham gia chương trình đào tạo nhân lực lãnh đạo tương lai. Đây cũng là trưòng đã tạo ra ba vị tổng thống của nước Pháp: Valéry Giscard d'Estaing, Sadi Carnot, Albert Lebrun. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và giáo sư Nguyễn Văn Xuân của Việt Nam cũng tốt nghiệp từ trưòng này.

Nhân là ngưòi nước ngoài đầu tiên đỗ thủ khoa kỳ thi tuyển vào trường, nên trở thành một sự kiện được báo chí Pháp chú ý. Hình chân dung của Nhân được đăng trên nhiều tờ báo, là niềm tự hào của giới sinh viên du học và những người Việt Nam đang ở Pháp thời bấy giờ. Ở Montpellier, trong giới sinh viên cũng bàn tán chuyện này dữ lắm.

Nhưng Nhân không ngừng lại ở đó, trong thời gian theo học, Nhân là một nhân vật nổi bật toàn diện. Không những học giỏi, Nhân còn là cầu thủ xuất sắc của đội bóng tròn sinh viên Paris, là kỳ thủ không thể qua mặt của bộ môn cờ, Nhân còn là huấn luyện viên võ thuật của võ đường trong khu đại học, đồng thời đã mang về cho trường rất nhiều huy chương trong các cuộc thi đấu. Hình ảnh Nhân liên tục được đăng trên các báo sinh viên và một số báo thể thao. Đã có lần một câu lạc bộ nhà nghề nổi tiếng của Paris đề nghị Nhân ký hợp đồng để được đào tạo làm cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, nhưng Nhân từ chối. Tiếng tăm Nhân vang dội trong cộng đồng sinh viên của các trường đại học, Nhân đã từng đưọc tiếp đón và nhận phần thưỏng của tổng thống Pháp lúc bấy giờ là Georges Pompidou ở điện Élysées. Nhân được đặt tên là Super Man, cái tên mà hồi ở Việt Nam mọi người đã đặt cho hắn. Hóa ra siêu nhân thì ở vòm trời nào cũng là siêu nhân. Còn con chim chưa định được đường bay là tôi vẫn là cậu sinh viên nhút nhát và không chút tự tin, dù là ở phương trời nào, lúc nào cũng quấn quanh trong chiếc lồng vô hình chật chội của mình.

Với những thành tích và tính cách của Nhân, Nhân mau chóng trở thành lãnh tụ của các phong trào sinh viên, Lúc đầu là anh cả của các môn thể thao, dần dà, Nhân lại làm luôn lãnh tụ chính trị với nhiều tham vọng. Thời điểm bấy giờ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã đến cao điểm. Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, cuộc chiến đấu ở miền Nam càng ngày càng nhiều máu lửa. Sinh viên Việt Nam đi du học hàng ngày nhìn thấy những đổ nát, những tàn phá, máu xương rơi của chiến tranh, lại thêm chính quyền miền Bắc và Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên truyền ở Âu châu rất mạnh, nên đa số đều tham gia chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình với một ý thức chính trị rất mơ hồ. Lực lượng này rất mạnh và rất đông đảo. Và tham gia phong trào chống Mỹ trở thành một cái mốt của người trí thức.

Nhân thì ngược lại, hắn làm lãnh tụ một nhóm sinh viên ủng hộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chuyên phá đám các cuộc biểu tình và tuần hành của nhóm sinh viên kia. Đụng độ giữa hai phái xảy ra như cơm bữa.

Đúng thời điểm này thì chúng tôi nhận hung tin từ Việt Nam. Mẹ tôi và mẹ Nhân trong một chuyến hành hương về La Vang, Quảng Trị, trên đường về thì xe bị lật vì trúng mìn. Mẹ Nhân tan xác tại chỗ, mẹ tôi được đưa vào bệnh viện Trung ương Huế, nhưng rồi cũng từ trần ở đó. Tôi điện thoại cho Nhân, khóc nức nở trong điện thoại, Nhân chỉ ậm ừ khuyên lơn tôi. Tôi đòi bỏ về Việt Nam ngay, nhưng Nhân khuyên nhủ, động viên tôi ở lại tiếp tục học và phải cố học tốt hơn nữa, đó cũng là một cách để khỏi làm buồn lòng mẹ. Tôi nghe lời Nhân, nhưng lòng thì tan nát, dạ rối bời, chẳng thiết ăn uống gần mấy tuần liền. Riêng Nhân từ đó càng lao vào những cuộc đấu tranh để ủng hộ phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đang ở Paris để hội đàm tìm cách giải quyết chiến tranh. Nhân mơ ước ngày trở về sẽ trở thành một công chức cốt cán của chính quyền miền Nam, với những đổi thay và cương lĩnh mới.

Hiệp định Paris được ký kết, Nhân cay cú vì bảo rằng chính quyền miền Nam đã bị Mỹ lừa. Nhân càng hoạt động mạnh hơn, quyết liệt hơn. Và trong tâm trạng đó, Nhân đã phạm một sai lầm oan nghiệt, chấm dứt mọi ước mơ và hoài bão. Cắt đứt tương lai đang rộng cửa.

Trong khu đại học xá, Nhân được bố trí ở cùng chung phòng với Thành, cũng là một du học sinh học trường Bách Khoa Paris, học sau Nhân một khóa. Thành là con trai của Chủ tịch Tối cao Pháp viện của chính quyền miền Nam, nhưng Thành lại là lãnh tụ của phong trào thiên tả ủng hộ Cộng sản. Thành cũng là một thành viên rất cực đoan của lực lượng này.

Từ lâu, cả hai đã có nhiều lần tranh cãi nhau dữ dội vì những quan điểm xung khắc nhau về cuộc chiến đang xảy ra. Khi hiệp định Paris vừa có hiệu lực thi hành, Nhân trong cơn bực tức đã nổ ra cuộc đấu khẩu với Thành và trong lúc không kềm lòng được đã bay đến phóng chân đá vào đầu Thành ngay trong phòng của hai người. Thành gãy cổ chết ngay lập tức, máu trào khóe miệng. Nhân bị bắt ngay. Báo chí đưa tin hàng giờ. Tôi ở Montpellier đọc báo thấy đăng hình của Nhân, nhưng lần này không phải là khuôn mặt tươi cười, hớn hở như xưa mà là tấm hình Nhân cúi đầu đi giữa đám cảnh sát, hai tay bị còng, những sợi tóc xoăn trước trán rũ xuống khuôn mặt nhợt nhạt không còn chút sinh khí. Tôi chợt nhớ nhận định của chú Lý Hạnh ngày nào và bỗng tin vào số mệnh.

Tôi bay ngay về Paris, nhưng không được gặp trực tiếp Nhân. Hắn đang bị cách ly để điều tra. Sau một thời gian, Nhân bị trục xuất và dẫn độ về Sài Gòn với cái án giết người. Tôi lại chỉ gặp được Nhân qua hình trên báo đăng hình Nhân ở chân phi cơ lúc bị dẫn độ, tay Nhân vẫn bị còng và Nhân vẫn lại lọt thỏm giữa đám cảnh sát với khuôn mặt hớt hãi.

Tôi nhận được thư Nhân lúc trở về Montpellier, Trong thư Nhân dặn dò tôi là không được tin cho ai ở nhà biết việc này, đồng thời Nhân cũng nhờ tôi là khi nào nhận được thư Nhân với hai phong bì, tôi phải bỏ bì thư ngoài và gởi lại cái thư bên trong về Việt Nam cho gia đình Nhân, nếu nhận được thư của ba Nhân, tôi lại gởi về Sài Gòn làm như là Nhân vẫn đang ở Pháp vậy. Nhân khuyên tôi cố gắng học cho xong và xin lỗi tôi, tôi chẳng biết Nhân xin lỗi tôi vì lí do gì. Mỗi lần đi gởi thơ về cho ba Nhân, tôi cảm thấy mình đang làm một chuyện tội lỗi tày đình vì đang đánh lừa ba Nhân, người đang hi vọng về đứa con thiên tài của mình. Lần nào đi gởi thư, tôi cũng khóc. Không biết bao giờ tôi mới bỏ được kiểu thường hay rơi nước mắt như thế này.

Năm 1972 tôi đang học năm thứ hai Y khoa, tôi bỗng chán nản cùng cực và ý thức một cách rõ ràng là nghề y không phù hợp với tôi. Tôi sợ thấy máu chảy. Tôi sợ những khuôn mặt nhăn nhó, đau đớn vì bệnh tật của bệnh nhân. Tôi cũng biết rất rõ mình không đủ phẩm chất để làm người thầy thuốc. Tôi quá nhạy cảm trước mọi sự. Tôi chỉ mong ước mình trở thành họa sĩ, suốt ngày lang thang vẽ vời, sáng tạo, đùa giỡn với sắc màu, không phải đối diện với những nỗi đau bệnh tật, máu me, chết choc của con người như nghề bác sĩ. Nếu cứ tiếp tục cố nhồi nhét những kiến thức y khoa như thế này, chắc chắn tôi sẽ điên mất. Trước đây tôi chọn học y vì ba tôi bắt phải thế, lúc đó tôi vẫn chưa có ý thức về nghề, về tương lai. Nhưng bây giờ, qua gần ba năm, tôi tuyệt vọng vì thấy mình đang đi lần vào một hố thẳm và sợ hãi khi nghĩ đến việc suốt đời phải gắn bó công việc khủng khiếp này. Và rồi tôi đi đến quyết định cuối cùng. Đây là quyết định đầu tiên trong đời do tôi tự quyết. Không biết tương lai rồi sẽ ra sao, nhưng tôi có chút hài long vì đã thoát ra được bế tắc. Ít ra con chim rời long son cũng đã tự định hướng cho đời mình. Tôi bỏ trường Y, thi vào L’Ecole supérieure des Beaux – Arts de Montpellier Aggomération, tức trường Trang trí Mỹ thuật Montpellier. Học trường này có nghĩa là tôi sẽ bị mất học bổng ở trường cũ, do vậy kể từ đó cuộc sống của tôi bấp bênh, no đói thất thường, làm nhiều nghề để kiếm cơm và để được học những thứ mình ưa thích. Nhưng tôi vốn vụng về và hậu đậu, chẳng làm tốt được chuyện gì, đi đưa báo thì đưa lộn địa chỉ, làm bồi rửa chén thì chuyên làm vỡ bát dĩa, đi giao sữa thì đổ sữa lai láng trước cửa nhà của khách. Bởi từ bé cho đến lớn, tôi chỉ việc học, ba mẹ tôi không cho tôi làm gì ngoài chuyện phải học thật giỏi. Lối giáo dục đó làm cho tôi vấp phải thất bại trong bước đầu trong cuộc đời.

Trong các thầy giáo dạy ở trường Mỹ thuật, có giáo sư Alain Bourdon dạy rất giỏi, thầy được gọi là họa sư. Thầy rất thương tôi và biết rất rõ tình trạng của tôi, nên thường tìm cách giúp đỡ. Lúc thì kẹp ít tiền trong sách của tôi, khi thì giỏ thức ăn. Cuối tuần, Thầy thường đón tôi về căn nhà ở ngoại ô của Thầy. Ở đó, tôi được ăn no nê và được Thầy dạy thêm những kiến thức vô cùng quý báu. Vợ Thầy đã mất cách đây bốn năm vì bệnh ung thư, Thầy ở với cô con gái duy nhất khoảng 18 tuổi tên Monique rất đẹp, khuôn mặt thánh thiện, sáng bừng như thiên thần. Monique thường nhờ tôi đệm piano cho cô ấy hát, Monique có một giọng hát trong trẻo và cao vút rất hợp với nhiều bài Thánh ca cũng như những bài ca dân dã. Tôi thường đọc thơ cho nàng nghe, những bài thơ của Arthur Rimbaud, Paul Verlaine …, Guillaume Apollinaire và cả thơ Tagore. Monique rất thích bài thơ L'Adieu của Apollinaire, nhất là khi tôi ngâm bài thơ này bằng giọng Quảng Nam, mỗi lần nghe xong, nàng bật cười ngặt nghẽo, cứ giả giọng của tôi rồi cười khanh khách, nhưng đôi mắt thì ngập nước:

"J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte souviens-t'en Nous ne nous verrons plus sur terre Odeur du temps Brin de bruyère Et souviens-toi que je t'attends " (L'Adieu – Apollinaire)

Monique rất quý tôi, tuần nào tôi không về, cô ấy gởi bánh trái cho Thầy Alain mang lên cho tôi. Biết thân phận mình, lại vẫn cái tánh nhút nhát, không tin vào mình, nên dù có rất nhiều cảm tình với nàng, tôi vẫn không dám ngỏ, cứ mặc cảm mình không xứng đáng. Chúng tôi thường đi dạo trên con đường mòn của cánh rừng sau nhà, cùng đi qua đủ bốn mùa. Mùa thu sắc đỏ, lá vàng ngập lối đi. Mùa hạ bầu trời xanh và mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Mùa xuân với những cành lá biếc, hoa nở tím cả rừng và mùa đông với những cành trơ trọi, trời lạnh giá, trên cổ mỗi người quấn chiếc khăn quàng do Monique tự tay đan. Trong những buổi cùng lang thang, hái hoa, nghe tiếng chim líu lo, chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng cũng có khi trên đường về, hai đứa cứ im lặng suốt cả con đường dài, nhưng vẫn ngập tràn một thứ hạnh phúc khó diễn tả nổi. Tình yêu đến nhẹ nhàng, trong như giọt sương, tôi không dám động mạnh, chỉ sợ nó vỡ tan. Và ánh mắt nhìn nhau, nụ cười trao nhau như những lời ước hẹn, đổi trao diễn ra trong im lặng. Mỗi khi đến nhà của Thầy Alain, được ngồi ăn chung với hai bố con Thầy, được nhìn khuôn mặt đẹp tựa thiên sứ của Monique, nghe tiếng hát trong veo của nàng, tôi cảm thấy cuộc đời thật tươi đẹp và mong ước mình cứ được mãi như thế này…

Nhưng số phận lại giáng xuống đời, khi tôi vừa xong năm thứ hai đang kỳ nghỉ hè thì tai họa ập đến gia đình Thầy Alain. Trong chuyến đi về Paris của hè năm ấy, họ đã bị tai nạn giao thông. Thầy Alain chết ngay trên volant, Monique bị thương nặng, được chở vào bệnh viện, một tuần sau thì mất. Tôi bay về Paris ngay khi được tin và chăm sóc Monique suốt một tuần nàng thoi thóp, mê man trên giường bệnh, suốt ngày tôi quên ăn uống, chỉ ngồi nắm trong tay bàn tay bé nhỏ lạnh giá của Monique, chờ phép lạ. Đến hôm cuối cùng, Monique mở mắt nhìn tôi rất lâu, hai dòng nước mắt chảy dài trên má nàng, mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt. Môi nàng mấp máy: Je t’aime… Je t’aime… và bàn tay rời khỏi tay tôi. Phép lạ đã không đến. Chúa cũng đã quay mặt đi trước nỗi đau của thiên thần. Tôi gần như không kêu lên được tiếng gọi y tá cấp cứu, cổ họng tôi đông cứng và tôi đứng chôn chân gần mấy tiếng đồng hồ trong niềm tuyệt vọng như bức tượng đá bên giường. Tôi không tin đó là sự thật.

Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ quên được ánh mắt và câu nói cuối cùng đó. Câu nói của Monique như vết khắc trong tim tôi, không phai.

Tôi đau đớn tột cùng trước cái chết của cha con Thầy Alain, người tôi xem như người cha thứ hai của mình. Và Monique, mối tình đầu của tôi, mối tình câm chưa dám ngỏ của tôi. Tôi có cảm tưởng mình đã bị rút hết tất cả sinh lực. Tôi mất ngủ, lang thang như kẻ điên suốt mấy tháng dài. Tôi chẳng còn thiết tha gì chuyện học hành và tương lai. Thiên thần Monique của tôi hiện ra như ánh chớp, lóe sáng đời tôi một khoảnh khắc rồi bay về trời. Nàng như một thứ định mệnh làm thay đổi ý nghĩ của tôi về cuộc sống. Cái chết của mẹ tôi, mẹ Nhân, của Thầy Alain, của Monique khiến tôi thấy cuộc sống này chỉ là một ảo ảnh, có đó rồi mất đó. Hiện hữu rồi tan vào hư vô. Sống chết là một ranh giới quá mỏng manh. Cuộc sống chỉ là một ánh chớp. Tôi đóng cửa suốt ngày và cứ nghĩ về lẽ tử sinh. Và rồi số phận lại đổi thay, tôi ngộ ra rằng những tham vọng, những ước mơ, những hoài bão, những cố gắng cuối cùng rồi cũng sẽ được chấm hết bằng một cái chết do muôn ngàn bất trắc của đời sống. Thế thì ham danh vọng để làm gì, mải mê theo những ảo vọng để làm gì?

Tất cả thật ra rồi cũng chỉ là ảo ảnh. Và tôi buông tay, thả cuộc đời mình cho những con sóng của số phận. Tôi bỏ lại tất cả và trở về Việt Nam

********

3.
Tôi không dám về quê, cố bám lấy Sài Gòn. Tôi tìm gặp Nhân, hai đứa thuê chung căn phòng ở khu Trương Minh Giảng. Tôi và Nhân bàn cách để tránh những người quen biết. Tôi để tóc, râu dài thậm thượt, Nhân cũng thế. Hai đứa thường mang đôi kính đen, ban đêm thì mang kính đổi màu. Hàng tháng, tôi và Nhân viết thư gởi qua Pháp cho một người bạn, anh này lại bỏ phong bì ngoài, gởi tiếp về Việt Nam cho ba tôi và ba Nhân. Và nhận những lá thư từ gia đình gởi qua chặng Đà Nẵng – Pháp – Sài Gòn.

Chúng tôi lại tiếp tục lừa dối và loay hoay trong lừa dối tự mình bày ra.

Lúc Nhân vừa bị dẫn độ về Sài Gòn, ông chủ tịch Tối cao Pháp viện, tức là bố của Thành, người bị Nhân giết chết bằng cú đá oan nghiệt, đang chuẩn bị ra tranh cử dân biểu quốc hội. Không muốn bị báo chí phanh phui là có con theo Cộng Sản bị giết chết nên ông này tìm mọi cách ỉm vụ đó đi. Nhân chỉ bị đưa ra tòa bí mật và kết luận là gây án ngộ sát trong tình trạng thần kinh không bình thường, nên được trả tự do sau hai tháng giam giữ.

Được một người bạn du học Mỹ về đang làm Tổng cục trưởng, Nhân được bố trí làm việc ở Tổng cục gia cư, chuyên về xây dựng. Khi tôi về, Nhân lại giới thiệu tôi vào làm với nhiệm vụ họa viên vẽ họa đồ. Để trốn khỏi đi lính, Nhân mua cho tôi một cái giấy hoãn dịch vì lí do sức khỏe và hắn thì hoãn dịch vì gia cảnh. Cả hai đều là giấy giả. Đi làm lương cũng kha khá đủ sống, nhưng hai thằng sống như hai thằng buôn thuốc phiện lậu, lúc nào cũng lén lén lút lút, cứ sợ gặp người quen với gia đình và cũng phải trốn tránh bọn cảnh sát chìm nổi đầy mọi ngõ ngách. Cả hai trường hợp nếu bị phát giác cũng đều đưa đến kết quả bi thảm cả. Thế mà tôi cũng phiêu lưu dám ghi danh học tiếp ở Đại học Văn khoa. Vừa làm vừa học, dù ít khi có mặt ở giảng đường. Từ đó, tôi cảm thấy mình an phận, chấp nhận số phận do mình chọn lựa.

Nhưng hình như Nhân không nghĩ giống tôi. Có rất nhiều khi Nhân không cười, không nói, lầm lì suốt cả tuần lễ, có lúc lại uống rượu đập bàn, đập vỡ li chén, uống say mèm và khóc tức tưởi. Những lúc như vậy, tôi chỉ biết ngồi im vì ánh mắt của hắn lúc đó trông như ánh mắt của quỷ dữ, như con thú bị dồn đến đường cùng. Có một điều lạ nữa là Nhân không bao giờ nhắc đến Dạ Lan lúc tỉnh táo, mặc dù tôi biết Nhân nhớ thương nàng nhiều lắm. Nhưng cứ đến khi say, hắn khóc và réo mãi tên Dạ Lan. Khi tỉnh, nếu tôi vô tình nhắc đến tên nàng, Nhân quắc mắt lên rất dữ tợn, riết rồi tôi chả bao giờ dám nhắc đến cái tên đó nữa.

Hàng tuần, cứ mỗi chiều thứ bảy khi đi làm về, Nhân lại mua một bó hoa lớn, vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ngồi trước mộ Thành đến tối mịt mới về. Tôi hiểu tâm trạng của Nhân nên cũng chẳng có ý kiến, nhưng tôi tự nghĩ, một cú đá đã giết chết cuộc đời của hai người: cái chết tức thời của Thành và cái chết dai dẳng của Nhân. Cú đá đã làm cho cuộc đời của Nhân qua một ngã rẽ để đi tới hố sâu thăm thẳm.

Chúng tôi sống bình lặng chẳng có gì đáng kể như thế cho đến biến cố 30 tháng 4 năm 1975.

********
4.
Những tin tức chiến sự dồn dập, Tây nguyên thất thủ, Huế mất, Đà Nẵng mất. Hàng trăm ngàn người trôi dạt trên biển từ miền Trung, lớp lớp người trên những con đường đầy xác chết. Cuộc chiến đi vào những giây phút cuối cùng. Sài gòn rung lên từng phút. Hai trái bom CBU nổ trên tỉnh lỵ Long khánh. Thành phố nhốn nháo. Thành phố lo âu. Thành phố chuẩn bị cuộc hỗn loạn đang chuẩn bị ập tới.

Tôi và Nhân vẫn bình chân như vại. Sáng sáng vẫn ngồi cà phê chờ xe đến rước đi làm. Thiên hạ bàn tán nhiều đến chuyện ở, chuyện đi. Hai thằng không quan tâm, Cũng đúng thôi, vì chúng tôi từng ở bên đó về, đã thấm những nỗi nhục nhằn, đã chấp nhận nhát búa của số phận. Không lẽ bây giờ lại trở lại tiếp tục chui đầu vào con đường cũ. Những ngày cuối cùng của tháng tư, công sở đóng cửa, hai đứa ngồi nhìn thiên hạ xôn xao lòng dửng dưng. Nhưng đến hôm 29.4 thì bỗng nhiên cả hai thấy sợ trước những lời đồn đoán.

Nửa đêm hai đứa vùng dậy, đem hết giấy tờ, hình ảnh liên quan đến những năm tháng du học ở Pháp ra đốt. Nhân có cả mấy thùng lớn loại này, những hình ảnh thời Nhân còn được gọi là Super Man trên đất Pháp. Ngọn lửa bập bùng suốt đêm. Tôi chỉ giữ lại mấy tấm hình tôi chụp chung với Thầy Alain và Monique, mấy bức tranh tôi vẽ ở trường Mỹ thuật tôi đã chọn lựa để đem về Việt Nam. Đó là những kỷ vật tôi không thể để mất được, dù tôi hiểu có thể sẽ đưa đến hậu quả không may.

Sài Gòn sau đó là một Sài Gòn khác. Những lều quán bỗng dưng mọc lên trên những con phố. Chủ quán là chị cave, cũng có thể là vợ của một anh sĩ quan nào đó, cũng có thể là một nghệ sĩ, một nhà báo không còn được sử dụng. Thiên hạ nháo nhào đổ ra đường kiếm sống, cuộc sống bị xáo trộn ghê gớm, chẳng còn phân biệt được đâu là ông, đâu là thằng của những con người cũ.

Chúng tôi suốt ngày lê la hàng quán, đấu láo quên thời gian mà không biết rồi ngày mai sẽ ra sao. Có người rủ mở quán, có đứa kêu đi bán đủ thứ thứ tàn dư của xã hội cũ lọc lừa mấy chàng bộ đội khờ khạo, có thằng rủ đi bán thuốc Tây. Có đám rủ rê vượt biên. Có người nhỏ to tính chuyện tổ chức phản động. Chúng tôi phớt lờ tất cả. Cứ bán dần những thứ còn lại trong mớ đồ đạc sống qua ngày.

Sống lây lất mấy tháng như vậy thì chúng tôi bắt đầu bế tắc. Công việc không có, áo quần, giày dép, mắt kính, sách vở, túi xách, va li lần lượt lên đường. Đùng một cái, đổi tiền lần thứ nhất (2.9.1975), chúng tôi chẳng có xu nào để đổi. Bắt đầu những ngày khốn khó. Có nhiều bữa chỉ còn đủ tiền mua một lon gạo và một quả trứng. Hai thằng luộc rồi chia trứng làm bốn mảnh, tưới nhiều nước mắm, dành ăn cho hai bữa. Có ngày chỉ còn mấy miếng khoai mì mua được dọc đường…. Rồi không ai bảo ai, cả hai bắt đầu tản ra, mỗi thằng tự đi, tự kiếm ăn, tối về ngủ. Nhân bỗng cọc cằn, dễ nổi nóng, tối ngủ cứ đá vào tường suốt đêm… Rồi tới một ngày, chúng tôi chia tay nhau, Nhân bỏ đi mất hút…

Tôi bắt đầu đói dữ, có ngày chỉ được trái chuối, có hôm chỉ được củ khoai. Người tôi xanh mướt, xuống sức dữ dội, chỉ còn 39 ki lô. Tôi đành phải chấp nhận vào làm bưng bê trong quán cà phê ven đường của vợ chồng người bạn họa sĩ, kiếm cơm ăn. Nhưng cũng chỉ được mấy tháng, hai vợ chồng người bạn bị bắt vì có dính líu chính trị sao đó chẳng biết. Tôi lại trôi như bèo. Bèo nhèo. Tôi cũng chẳng có chút tin tức gì về Nhân, không biết hắn sống ra sao. Mù tăm.

Tôi đã đói tới ngày thứ ba, ba ngày chỉ có củ khoai lang và li nước đường uống lậu ở quán con Sáu ốm. Người mệt lả. Thèm đủ thứ. Thấy gì cũng muốn giật bỏ vào mồm. Mệt. Người cứ như đang say sóng.Nhưng cũng cứ phải ra đường, vì ra đường mới hi vọng có miếng ăn. Đói, nhưng cũng quần áo chỉnh tề, giày vớ đầy đủ, nghiêm chỉnh ra đường như một kẻ nhàn du. Ra đường đứng lơ ngơ, đi lơ ngơ không mục đích. Và trong khi lớ ngớ như thế, tôi phát hiện phía bên đống rác ở chân cầu Trương Minh Gỉảng có chiếc xe đạp ai bỏ đó. Tôi đứng gần hai tiếng đồng hồ phía bên này đường, không thấy ai đến lấy. Tôi chờ thêm thời gian nữa, rồi băng qua đường. Chỉ việc tỉnh queo dắt xe đi, làm như xe của mình là xong. Bán đi sống cũng được năm mười bữa. Tôi đã chạm tay vào ghi đông xe. Nhưng rồi rụt tay lại như phỏng lửa. Hình như có người nhìn tôi. Hình như mọi người nhìn tôi. Hình như mọi người đang cùng chỉ tay vào tôi và đồng thanh: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp… Trong đầu tôi cũng vang lên điệp khúc đó: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp…

Tôi lại lủi vào chợ. Những món hàng bánh trái lèo tèo nhưng hấp dẫn tôi vì cơn đói đang hành hạ. Có một chị đang bế con đi qua. Đứa bé khóc ngặt nghẽo đòi ăn quà. Chị ngồi xuống gánh chuối chiên. Những miếng chuối chiên vàng quyến rũ. Nước miếng chảy ra đầy miệng tôi. Tôi nghe có tiếng dòn rụm trong hàm răng, vị ngòn ngọt, beo béo tỏa trên đầu lưỡi. Thằng bé vẫn khóc. Người đàn bà đứng lên, đứa bé tay cầm miếng bánh, miệng vẫn khóc, người vùng vằng. Tôi chắc chắn trong đầu là thằng bé sẽ đánh rơi miếng bánh. Tôi lặng lẽ đi theo. Thằng bé làm rơi bánh thật. Tôi cúi người lẹ như sóc, lượm nhanh và tạt ngay vào con hẻm nhỏ. Miếng bánh tưởng sẽ ngon vô cùng vì cơn đói, nhưng vừa bỏ bánh vào miệng, hai dòng nước mắt chảy dài trên mặt tôi, những miếng bánh vỡ như những mảnh vỡ của thủy tinh xé nát buồng ngực tôi.

Tôi đau đớn và nhục nhã….

Tráng là người bạn học chung ở Văn khoa, hắn là chuyên gia đạp xích lô. Tôi tìm tới hắn, nhờ bảo lãnh thuê một chiếc ở hẻm Trần Quang Diệu. Tôi chưa chạy xe xích lô lần nào, nhưng nghĩ Tráng chạy được thì tôi cũng sẽ chạy được. Nghĩ đơn giản ai dè trèo lên mới thấy không phải dễ ăn. Tập vài vòng thì cũng tạm chạy được. Tráng bảo tôi chạy về Trần Quốc Toản, chỗ chợ cá sẽ có mối. Đúng là vậy, một bà mập béo và đôi thùng đầy nhóc cá lóc thụê tôi chở về chợ Trương Minh Gỉang. Chỉ chạy đến ngã sáu Lê Văn Duyệt là tôi đã đuối hơi. Chân bắt đầu nặng, thở hổn hển. Tôi ráng đạp, nghĩ rằng chỉ qua tới Yên Đỗ, quẹo, qua được cầu là xong. Sẽ có bữa ăn cho trưa nay. Nhưng tôi không qua nổi cầu, ba bánh xe như có ai ghì lại, không lên nổi dốc, dù tôi đã gồng hết đôi chân. Chiếc xe như muốn tuột xuống, tuột xuống. Tôi không nhảy được, hai chân cố giữ bàn đạp, cả người cố gồng lên. Nhưng chiếc xe vẫn từ từ tuột. Tôi không chịu nổi nữa, ngực tôi nặng như đeo chì, hơi thở đứt quãng. Phen này thì chắc chết. Bà khách thấy xe tuột dần thì la lên chói lói, nhảy xuống cũng không xong vì kẹt hai thùng cá. Tôi buông xuôi, nhắm mắt chờ xe lật ngửa và thế là xong một đời. Nhưng, hình như có một sức mạnh thần kỳ, chiếc xe khựng lại một lát và đi lên như có ai đẩy. Tôi mở mắt nhìn lui thì thấy Nhân đang gò lưng đẩy xe từ phía sau, chiếc xe lên dốc rồi đổ dốc, an toàn đến chợ. Tôi gặp lại Nhân như thế đó, và Nhân đã cứu tôi lần nữa như đã cứu tôi một lần lúc thằng Hồ Lê bắt tôi chui qua háng thuở còn đi học….

Ngồi ở quán bún ngay góc Trương Minh Giảng và Trần Quang Diệu, tôi ăn ngon lành hai tô bún thịt nướng đầy rau xanh. Nhân không nói gì, ngồi nhìn tôi với đôi mắt ngập nước mắt thương xót. Nhưng khi tôi định gọi thêm tô thứ ba thì Nhân ngăn lại: - Cậu đã không chết vì đói thì đừng nên để chết vì no. Cứ từ từ. Sẽ không phải đói nữa đâu.

Nhân rút từ túi ra một cọc tiền lớn, trả tiền bún xong, Nhân ngắt đôi cọc tiền, đưa tôi một phần và bảo: - Cậu giữ số tiền này mà sống. Người ta đang chuẩn bị cho các trường đại học hoạt động trở lại rồi. Cậu nên tiếp tục học hi vọng kiếm được một việc làm trong chế độ mới. Cậu ốm yếu lại quá thật thà đến hóa ngu, không làm buôn bán lọc lừa, không làm phu xe, bốc vác được đâu! - Nhưng tiền đâu cậu có nhiều thế. Mấy tháng nay cậu ở đâu, làm gì??? - Từ từ rồi sẽ biết. Mình sẽ kể cho cậu nghe. Xong rồi mình sẽ về Đà Nẵng. Chốn này không còn là chỗ dung thân của mình nữa rồi. Đã đến lúc mình phải chấm dứt mọi sự giả dối. Mình sẽ nói hết sự thật cho ba mình. Chắc chắn sự thật sẽ làm cho ông cụ đau đớn, nhưng thế sẽ tốt hơn, cho mình và cho cả ông cụ. Im lặng một lát, lấm lét nhìn quanh, Nhân ghé miệng sát tai tôi, thầm thì: Mình đang bị truy nã.

*******

5.
Mấy tháng trước, chúng tôi chia tay nhau vì cả hai đang lâm vào cảnh đói ăn thê thảm, Nhân bỏ đi và lang thang vào khu Chợ Lớn. Nhân kể là vào đó hi vọng sẽ không gặp ai quen, đồng thời mấy ông Ba Tàu chắc cũng có đời sống, sinh hoạt khá hơn người Việt, dễ kiếm cơm hơn. Nhưng suốt một ngày từ chợ Hòa Bình, rồi qua chợ Kim Biên đến chợ Bình Tây vẫn chưa kiếm được mối nào nhờ giúp việc. Nhân mở miệng đề nghị chủ hàng để được bốc vác thì chủ hàng nhìn Nhân đầy nghi ngờ. Bởi chàng ta vẫn còn bỏ áo trong quần, nai nịt đầy đủ, chân còn mang đôi giày da tuy đã cũ sờn, lại thêm cắp kính đen che đôi mắt sùm sụp. Ai lại tin người có vẻ trí thức như vậy chịu làm chuyện của người lao động. Chắc có mục đích gì đây. Nghe ngóng? Theo dõi?... Nghi là phải. Mà lúc này xã hội mới hình thành một lối sợ mơ hồ và đầy nghi ngại với tất cả mọi người. Chẳng ai tin ai. Cũng may vỉa hè, quán sá, phố phường cũng không thiếu những anh chàng có vẻ ngoài như vậy lê bước với khuôn mặt chán chường và tuyệt vọng. Cho nên Nhân cũng không bị để ý lắm.

Trời tối, đói meo, Nhân lê gót đến ghế đá cạnh tượng ông chủ họ Quách, người lập ra ngôi chợ này. Bức tượng đã bị đem đi đâu mất, chỉ còn cái bệ tượng chơ vơ. Có ba người thanh niên đang ngồi nhậu trên đó. Họ ngồi quanh, ở giữa có dĩa mồi là con gà luộc da vàng óng. Cuộc nhậu hình như mới bắt đầu, li rượu mới chuẩn bị xoay tua. Ngôi chợ vắng vẻ, ánh đèn vàng vọt và âm thanh chỉ là tiếng chổi quét lẹt quẹt của người phu quét chợ. Nhân ngồi ở ghế đá nhìn lên, con gà hấp dẫn quá. Hắn nuốt nước bọt liên tục. Đã mấy lần quay đi và cũng đã nhiều lần nhìn lại. Con gà vẫn bóng lưỡng khêu gợi tênh hênh giữa chiếu nhậu…

Bỗng nhiên Nhân tì tay vào ghế đá, bắn người lên. Đôi chân vừa chạm đất quét ngang, con gà bay lên nằm gọn trong tay Nhân. Ba gã thanh niên quá bất ngờ, không kịp một phản ứng nào. Nhân ngoạm một miếng vào đùi gà, nhai nhồm nhoàm. Ba gã thanh niên đã định thần, cùng hét lớn xông vào đứa đấm, đứa đá, đứa lên gối. Nhân vừa nhai, vừa cầm chắc con gà, xoay nhiều vòng, hai chân đạp hai gã gần nhất đang chồm tới, tay còn lại đấm vào ngực gã kia. Ba tên bị bắn lui, kinh hoàng. Ba gã lại tiếp tục hè nhau tấn công thêm mấy bận nữa, nhưng chẳng làm gì được Nhân. Nhân vừa nhai vừa né đòn, rồi ra đòn nhưng chỉ mấy miếng đấm đá không nhằm chỗ hiểm. Cuối cùng cả bọn dừng tay. Gã râu xồm có vẻ đầu đàn hất hàm nhưng trong giọng nói có chút vị nể: - Ông bạn ở đâu mà dám đến đây cướp gà của tụi này? Nhân dừng nhai: - Tôi đói quá, định xin mấy người anh em chút gì bỏ bụng, nhưng biết chắc là khó nên đành cướp vậy. Có gì các anh thứ lỗi. - Ông ở băng nào mà ngón nghề cũng oách quá vậy? - Chẳng có băng nào cả, thất nghiệp lang thang thôi….

Lời qua tiếng lại một hồi, hiểu được nhau. Giang hồ vốn trọng người tài, nên rồi cả bọn ngồi chung chiếu, nhậu suốt đêm thâu. Từ đó, Nhân nhập băng, lần hồi nhờ tài võ nghệ cộng với trí thông minh, hắn trở thành đại ca của băng chợ Bình Tây, từ từ lan ra một vùng khá rộng của khu Chợ Lớn, dưới trướng có vài chục đàn em, cùng nhau hành hiệp. Lúc đầu chỉ quanh quẩn công việc ở các chợ, lần lần nhảy vào bán mua, rồi buôn lậu đường dài. Càng ngày càng lấn sâu vào chốn giang hồ phạm pháp, tên tuổi của trùm Nhân nổi tiếng khắp chốn giang hồ là một đại ca mưu mô tuyệt diệu mà võ công lại vô cùng thâm hậu, được đàn em vô cùng quý mến, tôn sùng. Tiền bạc vô ào ào. Nhớ bạn đang nghèo nhưng mặc cảm đang là thằng tướng cướp nên chẳng dám về tìm lại.

Giang hồ có lãnh địa riêng, bán buôn cũng chia từng khu vực, các băng nhóm không được xâm phạm, vi phạm là sẽ có máu đổ ngay. Nhưng không lấn sân nhau thì không tồn tại và phát triển được, nên đụng độ nhau là chuyện không thể tránh. Sau mấy tháng làm đại ca, một cuộc tranh chấp lãnh thổ và mối lái giữa băng của Nhân và băng ALũ xảy ra. Đây sẽ là trận lớn, cả hai bên trang bị mã tấu, ống nước inox, dao bầu, kiếm nhọn. Một trận huyết chiến, một mất một còn, máu me tràn ngập chắc chắn sẽ không tránh khỏi. A Lũ là một đại ca máu mặt ở vùng này, trước tháng 4.75 là trùm khu Chợ Lớn – Phú Lâm, bị Ban bài trừ du đãng của cảnh sát Sài Gòn bắt giam ở Chí Hòa, được thoát ra trưa 30. Hắn ngứa mắt trước ảnh hưởng càng ngày càng lan rộng của băng thằng Nhân, nên quyết đấu.

Nhân không muốn cuộc chiến diễn ra ồn ào, công an xuất hiện là điều bất lợi cho bản thân hắn và lũ đàn em, nên đến gần giờ máu đổ, Nhân đề nghị đấu tay đôi với A Lũ. Bên nào thắng sẽ được trọn quyền hoạt động toàn khu, bên thất bại sẽ giải tán hoặc gộp chung thành đàn em của băng thắng. A Lũ đồng ý ngay, bởi hắn là một tay võ sư có hạng của võ Thiếu Lâm. Hắn nhìn thân hình hơi thấp và dáng thư sinh của Nhân nên có vẻ xem thường. Cuộc đấu tay đôi sẽ diễn ra trong nghĩa địa nhị tì khu cây da xà lúc nửa đêm.

Hai thằng đúng là kỳ phùng địch thủ, bất phân thắng bại. Hơn nữa, Nhân cố tránh không sử dụng đòn chí mạng, chỉ muốn làm cho A Lũ và đám đàn em hắn tâm phục khẩu phục, nên cuộc chiến kéo dài hơn tiếng đồng hồ. Hai bên ra lệnh không được hò reo, tránh sự chú ý. A Lũ đúng là một tay võ lâm đầy tài nghệ. Hắn tránh được nhiều đòn của Nhân và cũng phản đòn rất dũng mãnh. Cuối cùng, không muốn kéo dài cuộc chiến, Nhân phải sử dụng đến ngón đòn giết người rất nguy hiểm. Hắn bấm mình bay đến bức tường sau lưng A Lũ, chạy như gió trên tường rồi bắn ngược trở lại, tung cước ngay đầu A Lũ, A Lũ gục xuống như thân chuối bị đốn. Đấu trường xôn xao. Cùng lúc ấy có tiếng chân chạy sầm sập, tiếng còi thổi và bóng nhiều công an xuất hiện ở cổng nghĩa trang. Cả bọn tháo chạy. A Lũ cố gượng dậy nhưng không nhấc mình lên được. Đã chạy đi rồi, quay nhìn lại thấy A Lũ quằn quại không gượng dậy nổi, Nhân quay lại cõng A Lũ trên vai và cố thoát khỏi vòng vây. Nhưng không kịp. Ba công an kềm sát chân anh, ôm chặt lấy Nhân, quật xuống và tra còng . . .

Nhân bị giam ở đồn hai ngày, hai tay bị còng vào song cửa sổ, chờ xe chở về Đắc Nông, nơi tập trung đám giang hồ bị bắt cải tạo lao động. Bọn đàn em bắn tin sẽ tìm cách giải cứu đại ca, đồng thời báo cho biết A Lũ chỉ bị trọng thương, đang nằm ở bệnh viện, công an canh giữ sát sao, nhưng liệt nửa người dặt dẹo. Thời đó chẳng có tòa án, cũng chẳng xét hỏi, lập hồ sơ, cứ thế mà đi thẳng vào trại, chẳng biết ngày về.

Nhân nghĩ chỉ có giải pháp duy nhất là phải trốn thôi, không thể giam mình trong trại không lối thoát như thế được. Nửa đêm đó, chờ mọi người ngủ say, Nhân lấy hết sức bình sinh, bẻ song cửa sổ, hai tay còn dính còng, trốn thoát. Anh chạy về sào huyệt báo tin cho đàn em, từ biệt chúng, chia chác tiền bạc và sáng hôm sau đi tìm tôi. Và chúng tôi đã gặp nhau ở dốc chân cầu Trương Minh Gỉang, khi tôi chuẩn bị tuột dốc.

Tôi hỏi Nhân: - Cậu mua vé tàu xe gì chưa? Nhân bảo: - Mình tránh mua vé, sợ bị lộ. Mình sẽ đi bộ về Đà Nẵng, gặp đâu xin đi đó, được đoạn nào hay đoạn đó, chứ đi tàu dễ bị xét hỏi lắm, chắc là khó thoát.

Và chúng tôi chia tay nhau. Lúc ấy là cuối năm 1976.

*******

6.
Tôi được ghi tên đi học lại, khóa chúng tôi được nhập chung với sinh viên Sư phạm thành trường Đại học Sư Phạm Thành phố. Nhờ số tiền Nhân đưa, tôi sống được thời gian dài, dù cũng chỉ tạm đủ ngày hai bữa cơm rau ở căn tin và qua lần đổi tiền lần thứ hai 1978. Cuộc sống trôi đi, học hành rồi ra trường, tôi ra trường cũng gặp chút khó khăn lúc phân công tác. Lí lịch xấu quá, đen thui. Con công chức cao cấp chế độ cũ. Bản thân thiếu phấn đấu. Nhưng rồi trời thương, được vài người giúp đỡ, tôi được phân công về dạy ở một trường cấp 3 heo hút ở Củ chi. Cuộc sống cũng được cho là ổn. Tôi cố tìm cách liên lạc với gia đình, nhưng thư gởi đi mà không có hồi âm. Tôi cũng chẳng nhận được lá thư nào từ Pháp gởi về. Cũng chẳng nhận được chút tin tức nào của Nhân. Tất cả im lìm như nấm mộ.

Đầu năm 1978, tôi nhận được một lá thư từ nước Pháp. Lá thư của em gái tôi, cô em duy nhất mà khi tôi rời Việt Nam, em mới 14 tuổi. Em gởi từ Mỹ qua địa chỉ cũ của tôi ở Montpellier từ cuối năm 1975, nay tôi mới nhận được. Trong thư em báo tin đã di tản qua Mỹ từ tháng 4.1975, hiện ở New Hampshire, miền đông nước Mỹ đồng thời cho biết ba tôi đang bị học tập cải tạo tại Hàm Tân. Tôi chạy ra Hàm Tân thì được tin ba tôi đã bị chuyển ra Bắc, đang ở Hà Nam Ninh. Mùa hè năm 1978 tôi ra bắc, lên Hà Nam Ninh thăm nuôi ba nhưng không được gặp mặt, đến năm sau ra lần nữa thì được tin ba tôi đã chết trong trại. Trên đường từ bắc xuôi nam, tôi dự định ghé Đà Nẵng thắp nhang cho mẹ thì lại biết rằng nghĩa trang Nam Ô, nơi mẹ tôi nằm đã bị qui hoạch, mộ mẹ tôi không biết tìm đâu? Như vậy, từ khi rời Đà Nẵng năm 1968, tôi chưa trở lại chốn này lần nào. Bởi chẳng còn gì để tôi trở lại, cha mất chưa tìm được xác ở chốn xa xôi. Mộ mẹ bị san bằng không dấu vết. Nhà cửa không còn. Trở lại chỉ thêm buồn đau và hờn tủi.

Tôi lập gia đình, sinh con. Quẩn quanh với cuộc sống từ những khó khăn và thiếu thốn. Cuộc sống cứ thế trôi đi. Những kỷ niệm của ngày xưa lần hồi phôi pha. Phải tập quên để sống. Phải cứ hướng tới phía trước để tồn tại. Cho đến 2010, khi tôi tròn 60 tuổi, về hưu, con cái cũng đã lớn, đã yên bề gia thất. Nhiều đêm không ngủ được, tuổi mới chớm già mà cứ nhớ đến quá khứ đến quắt quay. Tôi nhớ Nhân, nhớ đến những năm tháng đã qua đi và sẽ không còn trở lại. Không biết bây giờ Nhân sống ra sao, còn ở Việt Nam hay đã trôi dạt xứ nào. Thời gian quá dài, quá nhiều đổi thay, quá nhiều bất trắc. Không biết những nơi chốn xưa có còn như cũ nữa không? Biết bao là hình ảnh, biết bao là câu hỏi cứ quẩn quanh….Tôi mua vé bay về Đà Nẵng, tìm lại kỷ niệm xưa, đồng thời tìm lại người bạn thân yêu đã một thời gắn bó.

Thành phố không còn như cũ nữa, nhiều đổi thay. Những dấu vết kỷ niệm đã bị mất dấu. Tôi ngu ngơ giữa thành phố xa lạ. Chẳng gặp người quen, chẳng tìm ra cảnh cũ.

Tôi lang thang quẩn quanh ở chợ Cồn, nơi ngã tư. Chỗ đó hồi xưa là nơi thường ngày tôi qua. Ngày xưa, bên này là cây xăng, bên kia là cư xá Đoàn Kết của quân đội, bên kia đường là nhà sách Văn Hóa, nơi tôi thường mua sách. Xuống một chút là cà phê Xướng, nơi bán những ly cà phê đượm hương beurre Bretel và bánh mì thịt thơm nức mũi ba tôi thường ăn mỗi sáng. Đi qua đường rầy của đường Hùng Vương, có xưởng vẽ của họa sĩ Trần Viết Hậu, người họa sĩ già mà ngày nào đi học ngang qua, tôi cũng dừng chân đứng lại một chút để nhìn ông ta vẽ, tôi mê hội họa từ những nét vẽ của ông. Tất cả biến mất, chẳng còn dấu vết. Tôi đi loanh quanh cả chục lần chốn cũ mà không tìm thấy chút hình ảnh nào sót lại. Ở góc phố, tôi dừng lại mua gói thuốc. Ông già bán thuốc tóc bạc chải mượt có khuôn mặt rất quen, quen lắm, nhưng tôi vẫn chưa nhớ ra được. Tôi băng qua đường, đốt thuốc nhìn qua. Ông già đốt thuốc hút, hai ngón tay cầm điếu thuốc hững hờ, điệu nghệ. Nhìn hình ảnh đó, tự nhiên gợi tôi nhớ đến một người, tôi băng nhanh qua đường, ôm lấy vai người bán thuốc: Thầy Thanh, Thầy Thanh, phải Thầy không? Thầy nhớ con không?

Thầy Thanh ngỡ ngàng nhìn tôi, ngờ ngợ: - Phải, tôi là Thanh đây, trước đây tôi có thời dạy học. Anh là ai mà biết tôi? - Con là Ngọc. Ngọc con ông Đốc Kim, học trò của thầy hồi đó. Thầy ôm vai tôi, ngấn nước mắt: - Tôi nhớ ra rồi… Anh về hồi nào?...Trời ơi lâu quá rồi, lâu quá rồi…

Mấy chục năm rồi nhỉ? Phải hơn bốn chục năm rồi. Đúng không?

Tôi và thầy Thanh ngồi trong quán cà phê, nhắc hoài chuyện cũ. Nhắc đến người đi, kẻ ở, kẻ mất người còn. Nhắc đến những đổi thay. Tôi hỏi thầy có nhớ Nhân không, thầy bảo làm sao quên được người học trò đặc biệt ấy. Thầy cho biết bây giờ Nhân khó khăn lắm, cũng khó gặp vì Nhân tìm đủ cách để tránh mọi người. Nghe như Nhân đạp xe ba gác chở rau ở chợ Thanh Khê, đến đấy tìm chắc gặp. Thầy còn cho biết Hồ Lê bây giờ làm chức lớn lắm, cũng có ghé Thầy mấy lần, có khi còn tặng quà.

Tôi tìm về chợ Thanh Khê, hồi xưa đây là xóm chài ven biển, nghèo lắm. Bây giờ nhà cửa cao ngất như phố thị. Lân la ở chợ, hỏi nhiều người tôi tìm vào nhà Nhân men theo con đường nhỏ loằng ngoằn, sâu trong mấy cánh đồng còn sót lại, nhà cửa thưa thớt, chung quanh toàn rác rưởi. Căn nhà như cái lều, phía trước có khoảnh sân nhỏ, rào thưa. Con chó gầy còm đang phơi nắng thấy người lạ cất tiếng sủa yếu ớt. Sân vắng, tôi gọi mãi không thấy ai. Một lát sau, một cái đầu bù rối hiện ra nơi khung cửa cất tiếng ồm ồm: Hỏi ai? Tôi bảo: Tìm Nhân. Lại cái giọng ấy: Nhân đi vắng rồi.

Người đàn bà hiện ra, khuôn mặt lộ diện dưới ánh nắng. Một khuôn mặt rất quen. Tôi nghĩ vẫn chưa ra. Tôi bảo: Khi nào thì Nhân về. Tôi đợi được không? Người đàn bà nhìn tôi trân trân. Khuôn mặt quen lắm. Tôi vẫn chưa nhớ ra nổi khuôn mặt rất quen này. Tôi chào và đi ra ngõ. Con chó lười biếng không tiếng sủa. Người đàn bà nhìn theo lẩm bẩm chi đó không nghe được.

Tôi ngược ra đầu ngõ, ngồi ở quán bên đường, đợi Nhân.

Tôi đốt đến điếu thuốc thứ ba thì trí nhớ vỡ oà. Đúng là chị Đầm rô. Chị Đầm rô bán quán chè đậu rất ngon, giọng nói ồ ề. Chị Đầm rô dạy tôi hút thuốc lá. Chị Đầm rô có ánh mắt ngưỡng mộ Nhân. Phải rồi. Đúng là khuôn mặt của chị Đầm. Nhưng sao chị lại ở trong nhà của Nhân?

Tôi không cách gì nhận ra Nhân. Nhân ngồi đó, trên chiếc ghế đẩu trơ trọi giữa sân, trong ngôi nhà có khoảnh rào thưa, dưới chân có con chó gầy gò quanh quẩn. Ly rượu cầm tay, miếng mồi chỉ là con cá khô nhỏ và dĩa ớt trái đỏ rực. Không còn nét nào của Nhân ngày xưa. Đó chỉ là lão nông ngồi uống rượu buổi chiều. Những lọn tóc duyên dáng cũ đâu mất rồi, chỉ còn một nhúm tóc lơ thơ lốm đốm bạc, bết lại nằm lạc lõng trên vầng trán hói. Đôi môi đỏ cũng đã không còn, chỉ còn lại một khóe miệng khinh bạc, thâm xì và móm mém, hàm răng trống rỗng khiến cho khuôn mặt như choắt lại. Da mặt bì bì, thâm tái, men mét của người mắc bệnh gan kinh niên. Những nếp nhăn dồn dập làm cho khuôn mặt héo hon như trái táo tàu khô. Đôi mắt trũng, mờ tối, đầy khói u ám. Đâu mất rồi ánh mắt sáng rực đầy sát khí của Nhân bốn mươi năm trước. Siêu nhân đây ư? Tấm gương của nhiều bậc cha mẹ đây sao? Niềm mơ ước của nhiều người!!! Chỉ còn lại là một tấm thân tiều tụy và hom hem thảm sầu. Chắc chắn là không phải là sự tàn phá của thời gian. Thời gian không thể xóa hết dấu vết của một con người tàn nhẫn đến như thế. Chỉ có nỗi đau đớn của cuộc đời, tuyệt vọng, tủi nhục, cay đắng và sự thất bại cùng cực mới làm cho một con người đổ gục đến vậy. Nhân hoàn toàn mang hình dáng của một con người khác.

Tôi ôm Nhân, những giọt nước mắt trào ra ướt mặt. Từ thân thể Nhân bốc lên một mùi nằng nặng. Mùi chua của mồ hôi lâu ngày, mùi úng thối của rau củ, mùi rượu trộn lẫn với mùi bụi đời đắng cay. Tôi lại khóc. Tôi cầm lấy tay Nhân, bàn tay nhiều vết xước, màu da đen tái lốm đốm mủ cây trái, những móng tay cũng đầy nhựa, nứt nẻ, nhiều vết chai sần. Tôi nhìn xuống đôi chân của Nhân. Đôi chân cũng khẳng khiu, sứt sẹo, đen xì, những chiếc móng đầy cáu ghét, đôi dép đứt quai được buộc lại bằng sợi dây nhựa đỏ, đế mòn vẹt. Lúc đầu Nhân hững hờ ôm vai tôi, rồi bỗng siết chặt và người Nhân rung lên. Tôi khóc như trẻ con. Bỗng Nhân buông tay và nói như mắng: ĐM, mày vẫn như xưa, lúc nào cũng ẩm ướt.

Tôi lại thêm một ngạc nhiên, không những Nhân đổi thay hình dáng, mà còn thay đổi luôn cách xưng hô, và biết chưởi thề. Suốt thời gian dài quen biết nhau, chưa bao giờ chúng tôi xưng hô mày tao với nhau, chỉ gọi nhau là cậu tớ, Tôi chưa một lần nghe Nhân buột miệng chưởi ai. Tôi trố mắt nhìn Nhân, trời ơi, Nhân ngày xưa đã chết thật rồi. Biết đổ lỗi cho ai đây, hoàn cảnh, cuộc đời hay thời thế. Hay là đổ cho số phận.

Tôi ở lại với Nhân ba ngày còn lại của chuyến đi. Ban ngày hai đứa lang thang với những chốn kỷ niệm cũ, lê la các hàng quán. Đêm về, hai đứa kể nhau nghe những chuyện của đời nhau, những chuyện đời buồn nhiều hơn vui. Tôi mua sắm nhiều vật dụng cần thiết của cuộc sống, chị Đầm rất vui khi nhận những món quà này, riêng Nhân vẫn dửng dưng…

******
7.
Hồi đó, cuối năm 1976, Nhân vội vã trở về Đà Nẵng để trốn lệnh truy nã. Chuyến đi kéo dài hơn tuần lễ. Đón xe dọc đường từng chặng, có khi đi bộ suốt buổi. Suốt đoạn đường cũng chẳng có chuyện gì. Nhưng hôm từ Bình Định về Quảng Ngãi, sau một bữa nhậu say quắc cần câu với cánh tài xế, sang hôm sau khi tỉnh rượu, Nhân thấy mình nằm ở vệ đường ở Mộ Đức, tiền bạc trong túi bị tước hết. Hai tên tài xế cho Nhân đi nhờ biến đâu mất. Cũng may, Nhân đã chia nhỏ bó tiền, để mỗi nơi một chút, nhờ vậy, cũng còn chút tiền dấu trong đôi giày, dù không nhiều lắm. Đến Đà Nẵng nửa đêm, căn nhà cũ của gia đình nay đã biến thành cơ quan của chính quyền mới. Lang thang suốt đêm, thấy mình như kẻ xa lạ ở một thành phố khác. Lân la quán cà phê gần ngôi nhà cũ từ tờ mờ sớm, Nhân biết được gia đình mình đang ở trong một con kiệt nhỏ cuối đường Hoàng Diệu, gần đường rầy xe lửa. Ngôi nhà ngày xưa đã bị trưng dụng từ khi cách mạng về, ba Nhân nhờ ngày trước có tham gia kháng chiến chống Pháp, trước 75 cũng có thành tích nuôi dấu cán bộ gì đó, nên không bị đi học tập cải tạo, nhưng không được sử dụng.

Nhân vừa bước vào ngõ, ba Nhân đã nhận ra ngay. Ông cuống quit ôm lấy Nhân, miệng cứ lập lại mãi một câu hỏi: Về lúc nào? Sao lại về? Về lúc nào? Hành lí đâu? Nhân cũng ôm lấy cha, nước mắt giàn giụa: Ba ngồi xuống đây nghe con nói, ba ngồi xuống đi. Nhân quì dưới đất, lạy mấy lạy. cứ lập đi lập lại: Ba ơi, con bất hiếu không làm được ước nguyện của ba rồi, rồi lại lạy. Ông Đốc ngồi sững sờ, mang máng hiểu đã có một tai họa tày trời. Niềm tin của ông, lẽ sống của ông. Sao lại thế này? Nhân vừa khóc, vừa lạy, vừa kể hết mọi chuyện. Lâu lâu lại nấc lên, nước mắt đầy mặt. Ông Đốc có cảm giác như ngàn lưỡi dao đâm vô ngực, xoáy mạnh. Tai lùng bùng, trái tim như đang có bàn tay ai bóp nghẹt. Đầu óc choáng váng, trái đất như sụp dưới chân ông, ông thấy khó thở, trước mặt chỉ là một khoảng tối vô tận. Nhân kể lể không biết bao lâu, không thấy ông Đốc động tĩnh gì. Nhân ngước lên, nắm lấy tay cha. Anh hoảng hốt như điện giật, tay ông Kim lạnh ngắt như nước đá, cứng đờ. Nhân hốt hoảng ngồi lên, nhìn thấy khuôn mặt trắng bệt, hai mắt mở trừng trừng của ba mình, anh hét lên: Ba ơi, con giết ba rồi, ba ơi!!! Ông Đốc đã tắt thở từ lúc nào, mặt đanh lại, hai mắt vẫn mở, hai hàm răng nghiến chặt, giận dữ.

Đám ma diễn ra lạnh lẽo, chỉ còn hai anh em: Nhân và cô em gái. Cô em kế Nhân bị bệnh thần kinh không biết lang thang ở đâu mà bị cưỡng hiếp có bầu, rồi băng huyết lúc sinh, chết hồi đầu năm. Đứa em bị bệnh down thì mất tích trong những ngày chộn rộn cuối tháng ba năm bảy lăm. Thằng em trai kế Nhân nghe nói đi bộ đội đóng ở Tây Ninh, nhưng chẳng có địa chỉ liên lạc. Hôm đưa đám trời lại mưa suốt buổi, hai anh em mặc áo xô, chống gậy trông thảm thiết giữa đồng trống. Nhân không khóc, nhưng hai mắt đỏ ngầu.

Đám tang xong xuôi, Nhân đi tìm Dạ Lan. Gia đình Dạ Lan cũng lâm vào bi kịch. Hôm Dạ Lan về Huế thăm bà ngoại, gia đình ông Bửu Hân tổ chức vượt biên. Hai vợ chồng và cậu con trai bị bão tố dìm xác xuống đáy biển, chuyến đi đó chỉ có mấy người được tàu lớn cứu thoát, tạm ngụ ở Hồng Kông. Nhà bị tịch thu vì tội phản quốc. Dạ Lan xin được ở lại trong căn phòng nhỏ dành cho người giúp việc ở góc sân cùng với cây đàn piano. Không biết vì lí do nào, những người phụ trách cũng chấp nhận.

Nhân nhiều lần tìm đến chỗ ở của Dạ Lan, nhưng nàng không tiếp, cứ trốn tránh mãi. Sau cùng, hai người gặp mặt nhau, Dạ Lan cho biết nàng đang mang thai, nhưng không cho biết cha đứa bé là ai. Sững sờ. Nhưng Nhân chấp nhận tất cả, chỉ mong ước được sống cùng nhau. Nhân cũng không tìm hiểu ai là cha đứa bé…Sau này, Nhân mới biết rằng cái bào thai là kết quả của cuộc trao đổi để nàng được ở lại căn phòng nhỏ đó cùng với cây đàn.

Và hai người đồng ý chung sống, không lễ cưới, không hôn thú, trong căn phòng chật hẹp dưới gốc cây ngọc lan, kết cục một cuộc tình như thế cũng là một đoạn kết đẹp vì lúc bấy giờ là thời kỳ loạn lạc, nhiều bất trắc.

Nhưng cuộc sống không phải chỉ có tình yêu là đủ. Nhân không tìm đâu được việc làm, vì cũng chẳng có giấy tờ chứng minh năng lực, lí lịch lại mù mờ mà cũng vì thời bấy giờ phải có mối quan hệ nhất định nào đó mới có thể kiếm được việc.. Loay hoay mãi với cơm áo, cuộc sống gia đình bắt đầu thiếu vắng tiếng cười. Lương cô giáo của Dạ Lan với tiêu chuẩn mười ba kí gạo bây giờ phải chia ra cho hai người, những bữa cơm toàn độn sắn khoai với bo bo, canh rau và cá hẩm Mùa đông năm đó, Dạ Lan bị tai nạn xe cộ lúc đi dạy học về, chiếc xe đạp cong niềng, gãy phuộc. Dạ Lan chỉ bị trầy sướt nhưng lại bị hư thai, máu nhuộm đỏ phần dưới cơ thể. Không biết kiếm đâu ra tiền, Nhân đành bán chiếc piano lấy chỉ vàng lo thuốc men cho vợ. Ở bệnh viện về, biết chiếc đàn đã bị bán, Dạ Lan im lặng suốt cả tháng, chẳng hé một câu nào. Nhân thấy mình có lỗi, và Nhân nhớ dự định của mình khi bước đầu du học, sẽ mua cho Dạ Lan chiếc đàn piano tốt nhất lúc tốt nghiệp trở về.. Dự định không thực hiện được lại đem bán chiếc đàn kỉ niệm của Dạ Lan. Nhân cảm thấy mình hèn hạ và bất lực.

Thời kì này, người ta rủ nhau đi săn trầm, kiếm được rất khá. Trước bức bách của đời sống và nỗi buồn khó nguôi của Dạ Lan, Nhân quyết định vào núi tìm trầm, mong đổi đời, hi vọng sẽ mua lại đền cho vợ chiếc đàn khác.

Rừng rú bao la, ngậm ngãi tìm trầm, những chuyến đi nhiều khi kéo dài cả mấy tuần. Cả bọn sống như dân du mục, đến đâu dựng lều trại ở đó. Tìm trầm là công việc chẳng dễ dàng gì, mưa gió, rắn rít, thú dữ... tất cả đều đáng sợ, có thể chấm dứt đời người bất cứ lúc nào. Nhưng đáng sợ hơn cả là con người. Lo nhất là lúc ăn được trầm, đó là thời gian sinh tử, phải rời rừng ngay bất cứ giá nào, nếu muốn còn sống để trở về. Chỉ cần một phát đạn, hay chỉ là một nhát dao, một cú đâm từ sau lưng, số trầm vừa kiếm được sẽ không còn và tính mạng sẽ bị định đoạt. Sống như kẻ du mục và cư xử như những kẻ du thủ. Nhân hòa mình vào thế giới đó, và trở thành thủ lãnh một nhóm ba người. Suốt mấy tháng gần như kiệt sức và cũng chẳng còn bao nhiêu vốn liếng, trầm vẫn là những giấc mơ. Cả bọn quyết định đi sâu vào rừng nguyên sinh, giáp ranh với vùng Tây nguyên. Trúng đậm. Có cả kỳ nam.

Chuyến này sẽ đổi đời. Ba người run rẩy gói ghém, rời rừng. Mưa như trút.

Mỗi người một ba lô đầy căng trầm và kỳ nam. Trời nhá nhem, sấm sét xé trời, đi ngang qua một đường mòn, dưới là vực sâu thăm thẳm. Một nhóm cướp xuất hiện như từ dưới đất mọc lên. Tiếng nổ đầu tiên hạ gục ngay người đi đầu, xác rơi xuống vực cùng chiếc ba lô. Nhân hét như sấm, băng lên, nhắm vào thằng đầu đàn đang cầm súng, một cú song phi, tên cướp ngã ngửa, súng văng ra. Nhân nhanh chân đạp ngay báng súng, bật lên, cây súng nằm trong tay như một ánh chớp. Anh lên đạn, bắn chỉ thiên nguyên một tràng. Bọn cướp lóp ngóp bỏ chạy.

Hai người chạy dưới mưa, băng qua con suối tràn nước. Hình như lũ về. Những thác nước trắng xóa ào ạt. Nhân và người đồng hành lóp ngóp bơi qua con suối. Nước dữ dội, cuốn phăng phăng. Cả hai mệt lử. Ranh giới sống chết. Đang cố chống trả dòng nước cuồn cuộn, Nhân nghe tiếng kêu thảm thiết của người bạn. Anh quay lại, nước đang kéo người bạn xa dần. Nhân cố bương tới, nắm được tay trơn tuột. Anh bạn sợ hãi, run rẫy, lắp bắp: Cứu tôi..Cứu tôi. Lại tuột tay, Nhân cố bơi tới, anh bạn buông mình xuôi dòng nước, chiếc ba lô của anh ta rời khỏi người trôi băng băng. Anh ta cố với theo nhưng không kịp. Nhân cố vượt lên, nắm được tay bạn, ghì hết sức kéo lại. Lại một đợt nước ào ạt, chiếc ba lô của Nhân tuột khỏi vai, trôi theo dòng nước dữ. Không tiếc, phải sống đã. Cố lên, gắng lên. Nước lũ đang về, những tiếng ầm ầm như sấm động. Nhân ôm bạn, cố vươn lên. Đến bờ, lại tuôn chạy trốn lũ. Người bạn như cái xác không hồn, líu díu chạy theo Nhân. Mưa rát mặt. Những cành cây quất vào thân thể. Cứ bương tới. Bương tới. Để sống.

Cả hai chạy ra tới bìa rừng, bên kia là quốc lộ. Sống rồi. Hai người ôm lấy nhau, nước mắt hòa nước mưa. Lại trắng tay.

Đón được một chiếc xe của bộ đội sau khi ăn hai tô phở lớn ngút khói ở quán phở bên đường. Nhân thấy khỏe hơn và lúc đó anh mới thấy tiếc cái ba lô kỳ nam vừa mất. Một gia tài đã tuột khỏi tay. Ngồi trên xe dưới cơn mưa tầm tã, Nhân nhớ Dạ Lan đến cồn cào. Anh hình dung thân thể trắng ngà, thơm tho của vợ. Anh nhớ tiếng rên như mèo kêu của nàng khi cả hai lên đến đỉnh của yêu đương. Mái tóc dài xõa trên nền drap trắng. Nỗi nhớ xôn xao trong dạ, anh mong về mau để được ôm nàng trong vòng tay với những lời yêu thương.

Nửa đêm Nhân mới về đến căn nhà nhỏ dưới cây ngọc lan. Phố vắng tanh. Mưa vẫn ào ạt. Anh đội mưa đi về, định tạo một sự ngạc nhiên cho Dạ Lan. Căn phòng đèn mờ sáng. Cửa chỉ khép hờ. Anh nhẹ nhàng đẩy cửa. Anh sững người. Dưới ánh đèn mờ ảo, trên giường, những khoảng trắng da thịt loang loáng theo nhịp. Tiếng thở của người đàn ông, tiếng rên như mèo kêu của người đàn bà. Khốn nạn. Máu Nhân như đông cứng lại. Tim muốn vỡ ra. Hai bàn tay bỗng nắm chặt, gồng lên chuẩn bị một cú đấm.

Đôi chân muốn vọng động. Chỉ một cú tấn công, sẽ có người chết. Bỗng Nhân run rẩy như người mắc kinh phong, cả thân người giật không kiểm soát được. Những giọt nước mưa từ người anh đọng vũng trên sàn nhà. Đầu anh bỗng nhức như muốn vỡ ra. Tim loạn nhịp. Anh lặng lẽ đi ra, ngồi dưới gốc ngọc lan, mưa vẫn xối trên người anh. Nhân thấy mình bất lực, tự khinh mình. Anh chẳng trách ai cả. Chẳng qua cũng bởi tại anh, vì anh chẳng làm tròn trách nhiệm của một người chồng. Anh chỉ mang lại những nỗi đau. Nhân ngồi như bức tượng suốt đêm.

Trời gần sáng, chân trời sáng lên một vệt mờ. Có tiếng kẹt cửa, người đàn ông len lén đi ra, lặng lẽ đi về cuối phố. Nhân chẳng cần biết đó là ai. Chỉ biết đó là người đàn ông đã ngủ với vợ mình suốt đêm qua. Từng đó cũng đã đủ.

Trời sáng hẳn. Dạ Lan mở cửa, dắt xe ra. Nàng quay lại khóa cửa thì nhìn thấy Nhân. Thoáng một chút hoảng hốt. Nàng cất tiếng: - Anh về hồi nào mà không vào nhà? Sao lại ngồi dầm mưa thế này? - Về hồi hôm. Không vào vì căn nhà này không còn chỗ cho tôi nữa rồi. Dạ Lan tái mặt, người như muốn ngã, nàng níu cánh cửa, hoảng hốt, lắp bắp. Chiếc xe ngã chổng chơ bên thềm. Không chờ câu nói tiếp của Dạ Lan, Nhân lẳng lặng đi nhanh ra đường. Phố bắt đầu một ngày mới. Anh bước mà chẳng biết đi đâu. Cả ngày hôm đó, Nhân say khướt. Mấy hôm sau anh rời thành phố, lại đi vào núi. Gần nửa năm sau, Nhân mới lại về.

Lần này trở về, Nhân định sẽ quên hết, sẽ sống lại với Dạ Lan, làm lại một chương mới. Quên tất cả. Nhưng, Dạ Lan đã không còn nữa.

Một tuần lễ sau khi Nhân bỏ đi, không thấy Dạ Lan đến lớp, nhà trường đến tìm nàng thì phát hiện Dạ Lan đã treo cổ tự sát. Nàng mặc chiếc áo màu tím than, cổ quấn chiếc khăn quàng màu tím nhạt, di đôi guốc cao cũng màu tím. Dây treo cổ siết làm cho lưỡi nàng thè ra, khuôn mặt cũng tím rịm.

Từ hôm đó, thành phố thêm một người điên. Nhân lang thang bờ bụi, lúc nào cũng say khướt, Áo quần càng ngày càng rách bươm, hôi hám, tóc tai bù xù, dơ bẩn. Ban ngày Nhân thường đi dọc biển, lượm những cành cây khô, bẻ nhỏ mang đến tiệm bán trầm hương, đòi bán với giá cao, khi người ta bảo không mua, đuổi đi, Nhân chưởi một tràng tiếng Pháp và bắt đầu xổ tiếng Tây giờ này qua giờ nọ, không ai hiểu. Đêm đến, anh múa võ trên hè phố, miệng lẩm bẩm tên Dạ Lan. Anh khóc cười vô chừng như mưa nắng. Anh sống trong một thế giới khác. Những người trước đây biết tài năng của Nhân, chỉ biết chép miệng lắc đầu, thương cho một số phận. Lúc đầu, bên công an nghi Nhân giả điên với mục đích mờ ám chính trị nào đó, nhưng rồi sau một thời gian thẩm vấn và theo dõi, chẳng thu thập được gì. Nhân sống như vậy gần hai năm dài, rồi bỗng dưng thành phố vắng bóng người thanh niên điên loạn nói toàn tiếng Pháp.

Nhân lại đi vào núi, đến Bồng Miêu rồi qua Phước Sơn đào vàng. Ở đâu anh cũng trở thành đại ca vì thế giới của những kẻ săn vàng là thế giới của bạo lực, giết nhau như cơm bữa, mà Nhân thì võ nghệ cao cường, nên đắc dụng trong cái thế giới máu và vàng đó. Hơn nữa, sau những biến cố của cuộc đời, Nhân bất cần thân thể, liều lĩnh và tàn nhẫn. Những đặc tính đó ở chốn giang hồ không xanh cỏ sớm thì chỉ là lãnh chúa.

Nhân bắt đầu giàu có, những miếng vàng đào được biến Nhân thành một đại gia, tiêu tiền như rác. Anh về phố, mua một chiếc đàn piano mới cứng, thuê xe chở đến mộ Dạ Lan, ngồi suốt ngày độc thoại với cỏ cây, giun dế. Khi hoàng hôn xuống, anh đốt chiếc đàn. Lửa cháy rừng rực sáng một góc nghĩa trang.

Trong một lần nhậu ở quán bên biển Mỹ Khê, sau khi đã chếnh choáng thì anh nghe ở bàn bên đang nói về anh. Một tay anh chị chắc cũng đã xỉn, nói với mọi người:

- ĐM, tưởng đi Tây đi Mỹ về làm ông này bà nọ, cuối cùng cũng chỉ là một thằng đi mót vàng. Lại thêm giết cha, giết vợ.

Nhân loạng quạng bước qua, chỉ vào mặt tên đó và bảo:

- ĐM mày là thằng nào mà dám trêu ông, mày vừa bảo gì, nhắc lại xem nào.

Thằng kia cũng chẳng phải tay vừa, đứng lên hùng hổ, nói chưa hết câu đã ngã vật ra giẫy đành đạch. Nhân vung tay một cú atémi chặt vào gáy của địch thủ. Hắn chết ngay sau mấy cái giẫy. Cả quán xôn xao, đứng cả lên. Nhân lừng khừng bước ra quán, xiêu vẹo trên đường. Tay chủ quán bắt vào mạch của nạn nhân, hét lớn:

- Nó chết rồi, bắt cái thằng giết người lại.

Ai cũng la hét nhưng chẳng ai có một hành động cụ thể nào. Nhân bước ra ngõ, đi đến đồn công an bên kia đường, tự thú. Án giết người, tòa xử 15 năm.

Ở tù trên rừng, lao động đúng 9 năm thì Nhân được đặc xá. Tiều tụy trở về thành phố, Nhân chưa biết mình sẽ sống như thế nào thì cơn sốt rét ác tính quật ngã anh. Anh bất tỉnh bên vệ đường. Người đi đường mang anh vào nhà thương, anh mê man suốt mấy ngày, thân thể như cái xác ve, không một người thân chăm sóc. Số mệnh đẩy đưa, hôm đó chị Đầm vào bệnh viện thăm người quen. Đi tìm phòng, trời xui đất khiến thế nào mà chị nhìn ra Nhân đang thoi thóp trên giường bệnh. Chị ở lại chăm sóc cho Nhân mấy tháng ròng, lúc xuất viện chị đưa Nhân về nhà mình, tiếp tục lo miếng ăn, giấc ngủ cho Nhân. Và rồi họ sống như vợ chồng. Lúc trước chị Đầm ở bàu Thạc Gián, bán rau ở chợ Cồn, sau đó khu bàu bị quy hoạch, được đền bù được ít tiền thì chị gặp Nhân, lo thuốc thang cho Nhân, còn lại một ít, hai vợ chồng mua khoảnh đất ở Thanh Khê. Vợ bán rau còn chồng chạy xe ba gác, sống tạm cho xong một đời gần mười mấy năm nay, loay hoay mãi mà không đủ đút lỗ miệng.

Tôi, Nhân và thầy Thanh ngồi uống cà phê ở Bạch Đằng. Điện thoại của thầy Thanh reo, thầy bảo đến đi, đến đi, có Ngọc ngồi với Nhân, đến cho vui nhé. Tôi hỏi ai vậy, thầy bảo:

- Hồ Lê, Hồ Lê bữa trước gặp tôi có nói là khi nào ngồi với mấy anh thì bảo Lê ra cho vui.

Hồ Lê đến, vẫn to cao lừng lững, trông còn khỏe hơn xưa. Hắn mang vợt tennis, giày Adidas, áo thun cá sấu trắng kẻ sọc, nhìn như tài tử. Sau lưng hắn có hai thanh niên trẻ, đi kè kè, chắc là bảo vệ. Vừa bắt tay tôi hắn đã hất hàm: Chào. Lúc này mày còn sợ tao không. Tôi buột miệng:

- Sợ gấp đôi ngày xưa.

Hắn cười cười:

- Sao vậy?

Tôi tiếp liền, sợ sẽ không dám nói nếu ngần ngừ:

- Ngày xưa tao sợ mày vì mày có sức mạnh, bây giờ mày vừa vẫn có sức mạnh lại thêm quyền lực, sợ gấp đôi là phải rồi.

Thầy Thanh giảng hòa:

- Anh em bạn cũ gặp nhau, mừng vui đi, hằm hè nhau làm gì hè.

Tôi chợt nhớ ngày xưa tôi hay chưởi thầm nó và tự bảo anh hùng mười năm trả thù chưa muộn. Bây giờ đã bốn mươi năm trôi qua, tôi vẫn là thằng dưới cơ.

Nhân bỗng lên tiếng:

- Mày biết ngày xưa tại sao thằng Hồ Lê ghét tụi mình không?

Tôi chưa kịp trả lời thì hắn nói luôn:

- Ngày trước hắn thèm cuộc sống của chúng ta mà không có được nên ganh tỵ. Bây giờ hắn có điều kiện, mày thấy không, hắn đang tập tành sống như ngày xưa cha ông chúng ta đã sống, ăn chơi, nhậu nhẹt, đánh gôn, chơi tennis, thế thôi.

Thầy Thanh xua tay:

-Thôi mà, cay cú nhau làm chi, vui với nhau đi.

Hồ Lê im lặng, chẳng trả lời. Hắn đang nghĩ gì nhỉ?

Bữa cuối ở Đà Nẵng, tôi đi mua cho Nhân đôi săng đan, hắn bảo mua dép nhựa dễ đi hơn, nhưng tôi nói thay đổi tư duy cho đời khá hơn đi, mang dép da vẫn tốt hơn chứ. Hắn cười: “ĐM, đương nhiên da phải hơn nhựa rồi”.Tôi rút hết tiền tiết kiệm được 37 triệu, tôi đưa hết cho vợ chồng Nhân. Chị Đầm cầm tiền cứ khóc mãi, cám ơn tôi hoài. Tôi bảo với chị:

- Đây là tiền của Nhân, tôi gởi lại cho Nhân chứ không có ơn huệ gì trong sự việc này, chị đừng bận tâm. Sau này, cần gì cứ bảo tôi, tuy cũng chẳng giàu có gì nhưng tôi với Nhân là hai anh em, phải biết giúp nhau chứ.

Hôm tiễn tôi ra phi trường, chị Đầm khóc và Nhân cũng rơm rớm nước mắt khi ôm tôi.

*****

8.
Tôi về Sài Gòn được nửa tháng thì chị Đầm điện thoại cho tôi. Bữa đó trời mưa, nghe tiếng được tiếng mất vì chị khóc nhiều hơn nói. Đại khái là Nhân đã bị tai nạn, xe lửa cán nát đôi chân của Nhân, không biết có qua nổi không?

Gần Tết Nguyên Đán, mua vé quá khó khăn, tôi phải chầu chực hai hôm ở phi trường mới kiếm được cái vé bay ra. Nhân nằm đó, hai chân đã cưa đến bẹn, băng trắng cả phần dưới. Người hắn teo tóp, xanh mướt.

Hắn cầm tay tôi, rưng rưng. Đôi săng đan mới mua để trên đầu giường. Nhân bảo:
- Mình để nó ở đây để nhớ đến cậu, cậu bảo mình trong năm tháng còn lại gắng bước qua số phận, mình cũng muốn bước qua, nhưng giờ còn chân đâu nữa mà bước, hở Ngọc. C’est bien!

Tôi khóc và ngạc nhiên vì thấy Nhân đã xưng hô như xưa, như cái thuở chúng tôi là những thanh niên với tương lai rộng mở. Và kiểu nói “C’est bien” làm tôi nhớ đến Andre Gide, năm 1951 lúc sắp từ trần, cũng bảo “C’est bien”, và nhà triết học Kant cũng thế, lúc sắp lìa đời cũng buột miệng: “Es ist gut”. Có phải là điềm gở chăng. Hay là suy nghĩ của các thiên tài đối với cuộc đời điên dại này. Với tôi, Nhân cũng là một thiên tài, nhưng là thiên tài mắc đọa.

Chị Đầm kể hôm trước đi chở rau ở chợ về, ngang qua đường rầy xe lửa. Có hai mẹ con đang băng qua đường rầy khi xe lửa đang ầm ầm chạy tới. Mọi người la oai oái, không biết phải làm gì. Nhân bay từ chiếc xe ba gác, đẩy hai mẹ con ngã sấp phía bên kia, và Nhân kẹt đôi chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua, nát bét. Chị lại khóc và lo lắng. Tôi biết chị thương Nhân lắm. Thương từ khi Nhân ở đỉnh cao cũng như lúc Nhân ở vực sâu.

Có hai cô nhà báo và anh chàng quay phim của Đài Truyền hình vào phỏng vấn Nhân. Nhân được trở thành gương người tốt việc tốt. Nhân cầm bằng khen và bao thư, cô nhà báo giương máy ảnh cứ hét lên: “Cười đi, cười đi..1..2..3… chụp nè”. Máy quay phim chạy sè sè. Mặt Nhân nhăn nhúm vì đau đớn. Chị Đầm thảng thốt lo âu. Hôm ngồi trên máy bay về lại Sài Gòn, đọc trên báo thấy hình của Nhân, nụ cười như đang khóc.
Sài gòn, tháng 3.2011
ĐỖ DUY NGỌC


Các bạn nghe đọc truyện tại đây

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget