tháng 6 2019


Chỉ mình tôi thôi chiều vương trên áo
Ngọn gió thổi về khuất mất lối đi
Tháng sáu vụt qua mưa nắng lỡ thì
Ngày sinh nhật em nâu sòng khép cửa
Mây tím hôm nay không trôi qua nữa
Lá úa vàng rụng mất phía sau lưng
Tiếng kinh sầu gõ nhịp những bước chân
Con chim trắng đậu hàng hiên ủ rũ
Chỉ mình tôi thôi buổi chiều rất cũ
Những chuyến xe âu yếm đợi nhau về
Ở bên này ngóng mãi phía bên tê
Chờ áo lụa vai gầy đôi mắt ướt
Chiều hôm ấy giữa phố phường sũng nước
Có bàn tay tìm gặp một bàn tay
Mắt nhìn nhau khiến trời đất bỗng say
Nhiều quyến luyến lúc giã từ cuối ngỏ
Chỉ mình tôi thôi ngồi trên vệ cỏ
Nhớ chuyện hôm xưa tháng sáu trời mưa
Em giờ câu kinh thỉnh chuông gõ mõ
Tôi chịu tội tình gọi mãi không thưa
Chỉ mình tôi thôi đêm về tựa cửa
Chẳng có ai về tôi khép vườn hoang
Cuộc tình hôm nao giờ tìm đâu nữa
Đốt ngọn đèn lên đợi bấc lụi tàn
Con trăng hắt hiu chờ phút trăng tan
Chữ nghĩa trong thư đã chấm xuống hàng
Chỉ mình tôi thôi còn chi để đợi
Tôi giang hai tay nhận hết bẽ bàng
16.6.2019
DODUYNGOC

Lee Jeffries sống một cuộc sống hai mặt: một là tay kế toán toàn thời gian làm việc ở gần Manchester, và thứ hai là trong lúc rảnh rỗi với tư cách là một nhiếp ảnh gia của những người vô gia cư trên toàn thế giới.
Anh là một nhiếp ảnh gia tự học, từ là một người chụp ảnh cổ phiếu trong một cửa hàng xe đạp, cho đến vào tháng 4 năm 2008 khi trong một đêm chạy London Marathon, anh đã chụp được một tấm hình bằng ống kính tele một cô gái vô gia cư đang lẩn quẩn ở một ô cửa, và anh thấy cần phải xin lỗi cô ấy khi cô ấy gọi anh. Cuộc trò chuyện này đã thay đổi không chỉ cách tiếp cận nhiếp ảnh của anh mà nó đã thay đổi cuộc đời anh.
Kể từ ngày đó, Lee đã thực hiện nhiệm vụ nâng cao nhận thức về việc tài trợ cho người vô gia cư. Tác phẩm của anh là những khuôn mặt của những người vô gia cư ở đường phố từ Anh, Châu Âu và Hoa Kỳ những nơi mà anh làm quen họ bằng cách sống chung với họ, mối quan hệ với họ cho phép anh có sự thân mật và nắm bắt sự chân thực trong những bức chân dung của anh. Anh đã xuất bản hai cuốn sách gây quỹ được đánh giá cao là Lost Angels và Homeless, anh làm việc cùng với Salvation Army trong một dự án lớn và tặng nửa tá máy ảnh mà anh giành được trong các cuộc thi cho các tổ chức từ thiện. Anh đã tặng hàng ngàn đô la để giúp những người anh đã chụp ảnh họ.
Tuy đã nổi tiếng thế giới, anh vẫn tự nhận mỉnh chỉ là 'một kẻ nghiệp dư'
Ở xứ ta thì khác, cầm chiếc máy ảnh, có vài ba tấm có giải tào lao, đã tự phong mình là nhiếp ảnh gia, đi đến đâu cũng ưỡn ngực, vênh vênh, khệnh khạng xem trời bằng vung. Khổ thế!
10.6.2019
DODUYNGOC

Xem


Tui biết anh ta khi tham gia vào chiến dịch X1, chiến dịch đánh tư sản đầu tiên của chính quyền Cộng Sản tại miền Nam sau 1975. Tui hồi đó thất nghiệp dài cồ, chẳng làm chi ra tiền, đói nhăn răng, cơm chẳng có mà ăn, bán hết áo quần, giày dép rồi tới sách báo, đến lúc chẳng còn gì để bán, nên khi được gợi ý tham gia có cơm ăn là ghi tên ngay. Bọn tui bị tập trung vào tối 9.9.1975, xe đưa đến trường Pétrus Ký. Ngồi chờ dài cổ mà không biết tập trung để làm gì? Đến nửa đêm thì được chia thành từng nhóm nhỏ, có xe chở đi. Nhóm của tui có tui với Lượng là gốc sinh viên Đại học Vạn Hạnh, bổ sung thêm một tên ở Đại Học Khoa Học tên Trung, thêm hai người nữa đến giờ chẳng nhớ tên. Tổ trưởng của toán là anh ta, một sĩ quan quân đội Bắc Việt. Anh ta nói tiếng Bắc giọng nhà quê, tụi tui nghe tiếng được tiếng mất. Lại thêm có nhiều từ nghe hơi lạ tai như khắc phục, tranh thủ, phấn đấu...nên nhiều khi tụi tui đoán ra yêu cầu của anh ta mà thực hiện. Tổ của tụi tui đóng quân ở trên lầu của một khách sạn của người Hoa ở đường Đồng Khánh, nhiệm vụ giữ một điện đài liên lạc, nhưng cũng ít khi thấy có ai gọi hoặc nhắn nhủ chi. Công việc chẳng có gì, chỉ quanh quẩn trong phòng, rồi chia nhau đi lang thang mấy căn phố đìu hiu, những hàng quán chắc hẳn ngày xưa rất nhộn nhịp. Anh bộ đội chỉ huy của tụi tui thấy cái gì cũng lạ, nhìn cái gì cũng thắc mắc. Nhiều hôm anh đứng ở balcon, mắt cứ ngước nhìn những toà nhà cao tầng và bảo với tụi tui, sao họ có thể xây được những cái nhà cao và to thế. Có lần tui đi ra phố Lê Lợi, mua về mấy ổ bánh mì thịt với paté, mời anh ta ăn, anh ăn mà miệng cứ xuýt xoa họ làm bằng thứ gì sao nó ngon quá vậy! Thật ra bánh mì lúc đó chẳng còn ngon như bánh hồi trước 75 vì thực phẩm đã bắt đầu khan hiếm rồi, dù bộ đội mới chiếm Sài Gòn hơn bốn tháng. Nói tóm lại là anh ta hoàn toàn xa lạ với những sản phẩm và cuộc sống văn minh của Sài Gòn. Anh bảo từ bé đến ngày đi bộ đội vào Nam, anh chỉ ở quê, mò cua bắt ốc, nhiều khi không đủ gạo mà ăn, độn khoai sắn, có lúc độn rau, sống rất thiếu thốn. Thịt bò, thịt heo là những món ăn mơ ước chỉ có ngày Tết hay ngày kỵ giỗ mới có một miếng trơn mồm. Anh chỉ mong đủ lớn để được vào bộ đội, có cơm ăn. Chiều chiều anh hay rủ tui đi ngắm hàng hóa, anh nhìn những món hàng với ánh mắt khát khao, thèm thuồng. Anh nói với tui là anh mê nhất đồng hồ không người lái có hai cừa sổ và cái đài có band hát nhạc. Anh thổ lộ là muốn mua quà gởi về cho bố mẹ và các em ngoài ấy mà chẳng có tiền. Anh ta thật thà, không có bệnh nổ như những anh bộ đội miền Bắc khác, nên tụi tui cũng có chút cảm tình. Tình cảm này xuất phát từ lòng thương hại nhiều hơn, dù anh đang là kẻ chiến thắng và đang là người chỉ huy tụi tui.
Một hôm phòng chúng tôi xuất hiện một tù nhân. Ông ta người Hoa, dáng to lớn, bị trói thúc ké vào một chiếc ghế. Nghe thoang thoáng ông ta là một tay tư sản giàu lắm ở Chợ Lớn, khai báo tài sản chưa đầy đủ nên bị bắt tạm giam để điều tra tiếp. Thế là tụi tui trở thành những tên lính canh, thay phiên nhau canh gác với khẩu súng carbine của nhân dân tự vệ. Đêm đó, tui được phân công gác từ 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng, tui ngồi canh mà mắt cứ díu lại, chập chờn. Bỗng có tiếng gọi khẽ: Nị à, nị à.... Tui choàng ngay dậy, ông Tàu gật gật đầu, có vẻ muốn nói gì với tui. Tui ngần ngừ đi lại, ông ta nói nhỏ: "Nị cởi trói cho ngộ, rồi mở cửa sổ. Ngộ thoát được sẽ gởi cho nị 5 lượng vàng, bảo đảm sẽ có người đưa tận tay nị." Thấy tui có vẻ không tin, ông ta nói tiếp, giọng cầu khẩn: "Tin ngộ đi, ở Chợ Lớn này ai cũng biết tên ngộ, ngộ không nói láo đâu, mở trói cho ngộ, ngày mai sẽ có người mang vàng trao tận tay nị" Thời điểm đó, đối với tui, vàng chẳng có giá trị gì, mà thật ra tui cũng chẳng biết trị giá của nó thì đúng hơn. Hơn nữa, tui vốn nhát gan, nên sợ nếu tên này trốn, chắc tui phải lãnh đủ. Nghe nói mấy ông cộng sản này kỉ luật nghiêm lắm, nên tui càng sợ. Tui lắc đầu, đưa tay ngang cổ, ra dấu cắt đầu, sợ lắm. Ông nhìn tui, thất vọng...
Người gác kế tui là anh ta, anh sĩ quan Việt cộng. Tui về giường nằm mà cứ nghĩ về ông Tàu, tự hỏi từ lầu ba này mà ông ta nhảy xuống thì không chết cũng què, sao ông ta tính chuyện gan trời vậy. Lan man nghĩ thế thôi, tui đi vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết. Đang say ngủ thì bỗng tui nghe một tiếng rầm như vật gì bị rớt, hốt hoảng choàng dậy, tui thấy cửa sổ mở toang, ông Tàu biến đâu mất, anh ta thì đang loay hoay với cây súng, lên đạn lốp cốp rồi mới hô lớn: Đứng lại, đứng lại không tao bắn... Thế rồi anh chìa súng ra cửa sổ, chĩa súng lên trời bắn một tràng, rồi mới chạy xuống cầu thang. Tụi tui tỉnh ngủ hẳn, lật đật chạy theo anh. Xuống đến sân, thấy một chiếc xe hơi rồ máy chạy như bay ra đường....
Tui không biết anh ta có bị cấp trên kỉ luật gì không, hôm sau vẫn thấy anh ta sinh hoạt bình thường, cũng chẳng nhắc gì tới vụ ông Tàu trốn thoát. Thế nhưng trong lòng tôi vẫn dấy lên một nỗi nghi ngờ, tui tin chính anh là kẻ cởi trói và mở cửa cho tù nhân trốn thoát. Nghi vậy thôi, nhưng tui chẳng kể với ai.
Mấy bữa sau, vào buổi chiều, anh ta ôm về một cái máy radio cassette, tay đeo một chiếc đồng hồ Seiko. Nhìn những vật này, tui càng tin chắc anh ta chính là người giúp ông Tàu trốn chạy. Suốt ngày anh ra cứ loay hoay với chiếc máy và cái đồng hồ. Mấy thằng tui hướng dẫn cách sử dụng máy cassette, dạy anh ta cách lấy giờ, cách chuyển lịch cho đồng hồ. Bày đủ cách mà anh ta chẳng nhở gì, chỉ có nút tắt mở, bấm play, bấm chuyển band qua lại, từng đó thôi mà anh ta cứ mãi quên, không nhớ. Cứ mỗi lần mở máy là một lần hỏi. Bực mình quá, tụi tui bảo trong đầu anh chứa gì mà sao anh ngu thế. Anh ta chỉ cười, phô hết hàm răng hô rồi bẽn lẽn: "Thì tại tớ vốn nhà quê mà..." Thấy tội nghiệp, tụi tui lại bày cho anh.
Hơn tháng sau thì tổ chúng tôi giải tán, ai về nhà nấy. Ở chung nhau gần hai tháng, nhưng thật sự chẳng gắn bó gì với nhau lắm, vì trong mỗi người đều mang mỗi tâm trạng khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, toan tính khác nhau, nên cũng chẳng có tiễn đưa, tan hàng trong lặng lẽ.
*********
*********
Năm 1998, công ty tui mở thêm một nhà máy in và một xưởng chế bản điện tử, xin giấy phép khó khăn, phải ra tận Hà Nội. Tui là giám đốc nên lãnh trách nhiệm ra ngoài đó để vận động kiếm cho được tờ giấy phép. Người phụ trách ký giấy cho tui là một cán bộ cấp cục trưởng của Bộ Văn Hoá. Tay này rất quan cách, ăn nói, đi đứng rất bệ vệ, ra dáng lãnh đạo lắm. Dù đã có thư gởi gắm, có ngay phong bì lần gặp đầu tiên nhưng y cứ chần chừ, chưa chịu ký. Mời đi ăn mấy lần mà ông quan này vẫn chưa nhận lời, sau phải nhờ qua một quan lớn khác, y mới chịu đi. Vào tiệc, y gọi món rất sành sỏi, gọi rượu toàn thứ cao cấp, chứng tỏ y là dân chơi thứ thiệt. Khi ăn, y còn dạy cho cả bàn là ăn bào ngư phải ăn như thế này, rùa vàng, vi cá phải ăn như thế kia, ăn món nào với rượu nào, y biểu diễn khui rượu, rót rượu rất nhuần nhuyễn, cả bàn há mỏ ra nghe, tui chỉ cười nhạt. Y nói nhiều, nhưng chẳng ăn gì, mời mãi cũng chỉ động đũa đôi ba miếng gọi là, y bảo nhà hàng này làm món ăn chưa đúng điệu, mặc dù bữa tiệc đó tui phải thanh toán cả đống tiền. Vì tờ giấy phép đó, tui phải bám ở Hà Nội suốt gần ba tuần lễ. Và ngày nào cũng nhậu nhẹt, ăn chơi. Càng tiếp cận ông quan này, tui cứ ngờ ngợ, thấy có nét hao hao một người nào đó mà mình đã gặp trong đời. Nghĩ mãi mà chẳng nhớ ra. Cuối cùng thì tôi cũng nhận được tờ giấy phép, đổi lại, tui cũng hao khá bộn. Ngày cuối trước khi về lại Sài Gòn, tui được y chiếu cố mời về nhà nhậu như để trả lễ, vì theo y, không đâu nhậu ngon bằng ở nhà y, có đầu bếp riêng, thức ăn nhập khẩu tươi ngon, có rượu xịn, và hơn hết, theo lời y khoe, ở Hà Nội này, không có nhà hàng nào có dàn máy nghe nhạc so sánh được với dàn máy của y.
Nhà y không lớn lắm, nhưng nằm trên con đường đẹp với những hàng cây. Nhà nhỏ, nhưng trang trí toàn những vật đắt tiền. Sập gụ, tủ chè, tượng đứng, tượng ngồi, đồ sứ, ngà voi, ngọc xanh, ngọc đỏ lủ khủ. Tui choáng với tủ đồng hồ đeo tay của y, toàn thứ dữ: Patek Philippe, Omega Constellation, Jaeger Lecoultre, Constantin, Piguet, Longines...nhưng đúng như y nói, dàn máy nghe nhạc của y mới sợ, to đùng, sáng lóa, chắc phải vài trăm ngàn đô. Làm quan giàu thật. Dàn máy khủng đặt trên chiếc tủ bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi, đánh verni màu nâu nhạt trông rất đẹp. Trên chiếc loa lớn đen tuyền có một khung ảnh bằng vàng cũng chạm trổ khá cầu kỳ. Trong ảnh là hình của một anh bộ đội, đàng sau lưng là chợ Bến Thành, tấm hình đã úa màu thời gian, nhìn không hợp lắm với cái khung. Thoáng nhìn hình, tôi nhận ra ngay khuôn mặt của người sĩ quan chỉ huy tụi tui hồi đi chiến dịch X1. Hàm răng hô, khuôn mặt hiền hiền, ngu ngu. Tui buột miệng: Hình ai đây anh? Y cười rổn rảng: "Tớ đấy, chụp hồi mới giải phóng Sài Gòn, nhìn khác quá, phải không? Hồi đấy chẳng còn giữ được tấm hình nào, chỉ còn duy nhất tấm này. Kỷ niệm đấy, quý lắm đấy!" Tui suýt kêu lên, nhận người quen cũ, nhưng kịp dừng lại. Thời gian đã đổi thay, cuộc đời đã đổi thay, vị trí cũng đổi thay, liệu y còn nhớ thời kỳ đó không? Hay y cố tình quên đi rồi, nhắc lại thật tình là không có lợi. Nhưng tui cứ băn khoăn mãi là y làm cách nào mà có được sự thay đổi lạ lùng quá xá vậy. Tui hình dung lại khuôn mặt của anh ta, nhớ lại ánh mắt thèm thuồng của anh ta trước những hàng hoá của Sài Gòn, sự nhẫn nhịn của anh ta khi tụi tui bảo anh ngu vì dạy mãi mà vẫn không sử dụng được cái máy cassette. Cuộc đời chuyển biến kinh thật, đúng là đổi đời. Thấy tui đứng ngẩn ngơ trước dàn máy, anh nói lớn:" Sao? Dàn máy ngon chứ? Âm thanh tuyệt hảo. Mở ra nghe đi rồi sẽ thấy. Ông nhấn nút đi, nút trắng đấy". Tui nhìn hàng nút, thấy nút nào cũng lấp lánh, nút nào cũng một màu nên lưỡng lự chưa biết phải nhấn nút nào thì lại nghe y với một giọng đầy quyền lực pha chút chế giễu: "Thôi vào ngồi nhậu đi ông nội, sao mà nhà quê thế, đến cái nút mà cũng không biết bấm"
Tui tự nhủ, hoá ra cuộc đời là một vòng tròn, luân chuyển thế vai nhau.
Saigon. Tháng 4.2015
DODUYNGOC


Nợ ánh sáng que diêm
Xua phút giây bóng tối
Nợ một đêm tóc rối
Sợi tóc vướng vào tay
Nợ chiếc lá vàng bay
Giữa mùa hè hôm trước
Đường đi về lướt thướt
Còn nợ một cơn mưa
Nợ con đường ngày xưa
Tôi cùng em qua đó
Hương ngọc lan dưới gió
Quanh quẩn mãi đời tôi
Nợ những đêm đơn côi
Giấc mơ nào ru ngủ
Nợ nụ cười đã cũ
Trong dạ vẫn tươi xanh
Nợ hoa nở trên cành
Con chim lười tiếng hót
Nợ những lời mật ngọt
Đã trót dối lừa nhau
Nợ cả những đớn đau
Chia đời đi hai ngả
Nợ những hôm tất tả
Luống cuống nắm tay nhau
Nợ nải chuối buồng cau
Đã không thành lễ cưới
Nợ làng trên xóm dưới
Ly rượu lễ thành hôn
Nợ vết sẹo trong hồn
Trăm năm không lành được
Nợ những liều độc dược
Chẳng kết liễu đời mau
Nợ một kiếp nát nhàu
Không tìm ra tiếng khóc
Nợ nhịp đời lóc cóc
Vó ngựa nào đi qua
Còn nợ một sân ga
Không một người đưa tiễn
Con én nào đã liệng
Làm không nổi mùa xuân
Bước gần tuổi tứ tuần
Nợ thời gian còn lại
Biết bao điều ái ngại
Nợ chưa dám nói ra
Còn nợ một mái nhà
Trước khi thành tro bụi
Nợ bao nhiêu hờn tủi
Để làm kiếp con người
Còn nợ một nụ cười
Tiễn đưa nhau phút cuối
Còn nợ vài hạt muối
Để làm mặn cho đời
Còn nợ một trò chơi
Cả hai cùng thất bại
Còn đâu để làm lại
Trả hết nợ chốn này
Tôi xin buông hai tay
Tụng phiến kinh xoá nợ
Saigon. Tháng tám. 1980
DODUYNGOC



Qua đèo nghe sóng ầm trong đá
Mây trắng ngàn năm vẫn nhởn nhơ
Gió cuốn run cây trưa thiếu nắng
Xe đi lòng chợt lắm bơ phờ
Qua đèo lại thấy mình leo lét
Ngón tay gầy guộc níu thời gian
Tháng năm như bấc đang tàn héo
Ngó sững rừng cây đứng xếp hàng
Ở cuối đường kia hoa nở vội
Con chim lẻ bạn đứng trông trời
Thương trăm năm cũ nay còn mất
Nhìn núi sông này thấy hỡi ôi
Ta giờ như tốt đã qua sông
Vó ngựa già nua sợ ngược dòng
Nhìn mặt trong gương màu tê tái
Tóc chẳng còn xanh bóng cũng còng
Qua đèo tình đã hư hao mất
Môi héo hanh khô mắt chớm mờ
Thấy trong bụi phủ bao dòng chữ
Thành những gươm dao rợn dưới cờ
Sông suối bây giờ không lối chảy
Mưa buồn lạc lõng giữa trùng khơi
Biển độc đâu còn con cá nhảy
Thuyền rũ buồm im rách tả tơi
Qua đèo lá gọi nhau xáo xác
Vàng úa hơi thu lá đổi mùa
Ta nghe tan tác màu năm cũ
Cửa khép hờ xua ngọn gió lùa
Qua đèo tim chợt thêm vết xước
Sẽ nẳm mãi đó vết thương sâu
Đau thân em chỉ còn tro bụi
Giữa chốn ta bà hồn đi đâu?
Qua đèo bỗng thấy như ngừng thở
Quờ quạng chân xiêu lạc lối về
Tim kia lỗi nhịp sầu co quắp
Đưa tay vuốt mặt vẫn còn mê
Qua đèo chợt rớm dòng nước mắt
Một khóc cho người một khóc ta
Qua đèo lòng tựa như dao cắt
Tủi phận long đong lại khóc oà
Blao 5.6.2019
DODUYNGOC









































Bộ sưu tập tượng có hơn 400 tượng gốm cuối đời Thanh sau một thởi gian dài sưu tập thể hiện hình tượng các nhân vật nổi tiếng trong văn hóa dân gian của người Hoa. Do sự giao thoa văn hóa, các nhân vật này cũng là các nhân vật quen thuộc trong dân gian các nước châu Á. Ở đây ta sẽ tìm gặp Bát tiên, Thập bát La Hán, Thất hiền, Phước Lộc Thọ, Thần Tài, Tượng Di lặc, Lão Tử, Khổng Tử, Quan Công, Trương Phi, Chung Qùi…..Những hình ảnh gần gũi trong đời sống tâm linh thường ngày của các nước Đông phương.
Bát tiên là 8 nhân vật trong đạo Tiên của thần thoại Trung Hoa. Phần lớn họ được cho là sinh ra vào thời nhà Đường hoặc Nhà Tống. Bát Tiên được tôn sùng bởi những người theo Đạo giáo và là một thành tố được biết đến rộng rãi của văn hoá Trung Hoa. Người ta cho rằng họ sống ở đảo núi Bồng Lai.
Tên của Bát tiên: Lý thiết Quài, Hán chung Ly, Lữ đồng Tân, Trương quả Lão, Lam thái Hòa, Hà tiên Cô, Hàn tương Tử, Tào quốc Cửu. Thông thường, mỗi nhân vật được cỡi một con vật và mang một món tượng trưng :
1.Lý thiết Quài cưỡi bạch tượng, mang thiết trượng và hồ lô
2.Hán chung Ly cưỡi Tứ bất Tướng, mang quạt Nga My
3.Lữ đồng Tân cưỡi Hạc tiên, mang phất chủ và Nga Mi kiếm
4.Trương quả Lão cưỡi Lừa ngược mang ngư cổ
5.Lam thái Hòa cưỡi chim Trĩ mang giỏ hoa lam
6.Hà tiên Cô cưỡi chim Phượng hoàng mang bông sen
7.Hàn tương Tử cưỡi chim Công mang ống sáo
8. Tào quốc Cửu cưỡi Mai huê Lộc mang cặp thủ quyến
Thập bát La Hán lại là xuất phát từ Phật Giáo Đại thừa. Những pho tượng này được thực hiện rất tinh tế, thể hiện tính cách của từng vị.
Điều nổi bật của các tượng trong bộ sưu tập là trình độ thực hiện của các nghệ nhân. Đặc biệt là thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật rất sinh động với thần sắc cuốn hút người xem. Nhiều tượng tinh tế từng chi tiết nhỏ lôi cuốn ánh nhìn.
Thập bát La hán là danh xưng được dùng trong trong các giai thoại về các vị A-la-hán trong Phật giáo Đại thừa. Hình tượng 18 vị La hán là một chủ đề phổ biến trong nghệ thuật Phật giáo, ảnh hưởng lớn nhất tại Trung Quốc và Việt Nam.
Ban đầu, số lượng La hán được mô tả chỉ có 10 đệ tử của Thích-ca Mâu-ni, mặc dù trong các kinh điển Phật giáo sơ kỳ của Ấn Độ chỉ ghi chép 4 người trong số họ, gồm Pindola, Kundadhana, Panthaka và Nakula, được Phật di chúc truyền bá đạo pháp trong nhân gian, trong khi chờ đợi sự ra đời của Di lặc. Sự xuất hiện sớm nhất của các vị La hán tại Trung Quốc có thể từ thế kỷ IV, chủ yếu tập trung vào Pindola, người đã được mô tả trong sách Thỉnh Tân-đầu-lư pháp .
Về sau, số lượng La hán tăng dần lên 16, bao gồm cả nhân vật có thật và hư cấu, và được biết đến qua tác phẩm Nandimitrāvadāna (法住記, Pháp trụ ký) của Đại sư người Sri Lanka Nandimitra, được dịch bởi pháp sư Huyền Trang sang chữ Hán, nhờ đó danh tự của 16 vị La hán được ghi nhận. Vì một số lý do nào đó, tên của một trong những vị La hán đầu tiên, Kundadhana đã không còn xuất hiện trong danh sách này.
Vào khoảng thời kỳ cuối Đường mạt và đầu Ngũ đại Thập quốc, thêm 2 vị La hán nữa được thêm vào danh sách này để tăng lên thành 18 vị. Do điều này, hình tượng 18 La hán phổ biến tại Trung Quốc, ảnh hưởng đến cả Việt Nam, có nhiều dị bản. Ở Nhật Bản và Tây Tạng, vẫn tiếp tục phối vị 16 La hán.
Theo truyền thống Trung Hoa, 18 vị La hán thường được trình bày theo thứ tự dưới đây, không phân biệt theo thời điểm đắc đạo: Tọa Lộc, Khánh Hỷ, Cử Bát, Thác Tháp, Tĩnh Tọa, Quá Giang, Kị Tượng, Tiếu Sư, Khai Tâm, Tham Thủ, Trầm Tư, Khoái Nhĩ, Bố Đại, Ba Tiêu, Trường Mi, Kháng Môn, Hàng Long và Phục Hổ. tuy nhiên, hình ảnh các tôn giả đại diện lại có sự khác biệt, nhất ở 2 vị trí La hán được bổ sung về sau.
1.Tọa Lộc La hán
Tôn giả Tân-độ-la-bạt-la-đọa-xà (Pindolabharadrāja) cưỡi hươu đến vương thành Câu-xá-di (Kauśāmbī) thuyết pháp.
2.Hỷ Khánh La hán
Tôn giả Ca-nặc-ca-phạt-sa (Kanakabassa) vui vẻ sau khi nghe Đức Phật giảng đạo.
3.Cử Bát La hán
Tôn giả Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà (Kanakabarudaja) nâng bát khi nhận vật thực hóa duyên.
4.Thác Tháp La hán
Tôn giả Tô-tần-đà (Subinda) nâng bảo tháp Xá lợi Phật.
5.Tĩnh Tọa La hán
Tôn giả Nặc-cự-la (Nakula) ngồi thiền định.
6.Quá Giang La hán
Tôn giả Bạt-đà-la (Bhadra) qua sông đến Đông Ấn Độ để truyền giáo.
7.Kỵ Tượng La hán
hay Phất Trần La hán
Tôn giả Ca-lý-ca (Kālika) trước khi xuất gia là một quản tượng, thường dùng một cây phất trần để quét sạch các phiền não.
8.Tiếu Sư La hán
Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajriputra) đùa giỡn với sư tử con.
9.Khai Tâm La hán
Tôn giả Thú-bác-ca (Jīvaka) thường trật áo để lộ ngực, biểu thị Phật ở trong tâm.
10.Thám Thủ La hán
Tôn giả Bán-thác-ca (Panthaka) tọa thiền trong tư thế 2 tay giớ lên.
11.Trầm Tư La hán
Tôn giả La-hầu-la (Rāhula) chuyên cần tu tập, nghiêm thủ giới quy.
12.Oát Nhĩ La hán
Tôn giả Na-già-tê-na (Nāgasena) nổi danh với luận thuyết "nhĩ căn thanh tịnh".
13.Bố Đại La hán
Tôn giả Nhân-yết-đà (Ańgaja) thường mang theo một túi vải lớn bên mình.
14.Ba Tiêu La hán
Tôn giả Phạt-na-bà-tư (Vanavāsin) thường dùng một chiếc quạt bằng lá chuối.
15.Trường Mi La hán Tôn giả A-thị-đa (Ajita) tương truyền khi xuất sanh đã có đôi lông mi dài.
16.Khán Môn La hán
Tôn giả Chú-đà-bán-thác-ca (Cūdapanthaka) khi đi hóa duyên thường cầm gậy có gắn chuông để gọi cửa.
17.Hàng Long La hán
Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra) tương truyền hàng phục Long vương, thu hồi kinh Phật.
18.Phục Hổ La hán
Tôn giả Đạt-ma-đa-la (Dharmatrata) hàng phục lão hổ.
Trong một số phiên bản, hình tượng La hán Quá Giang được xem là đồng nhất với Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma) vì ông cũng nổi tiếng với giai thoại qua sông truyền đạo.
Một phiên bản khác gán 2 vị La hán Hàng Long Phục Hổ cho các tôn giả Ca-diếp (Kasyapa) và Quân-đồ-bát-thán (Kundapadhaịiyaka). Một phiên bản xếp vào 2 tôn giả Ca-sa-nha-ba (thường được biết với danh hiệu Ca-diếp) và Nạp-đáp-mật-đáp-lạp (thường được biết với danh hiệu Di-lặc).
Trúc lâm thất hiền là tên dân gian gọi nhóm bảy học giả, nhà văn và nhạc sĩ theo trường phái Đạo giáo sống trong rừng trúc đầu thời nhà Tấn.
Vào thời nhà Tư mã thành lập Tây Tấn, chủ trương chuộng Nho giáo, 7 vị học giả này cảm thấy mình không phù hợp bèn bỏ đi lên rừng trúc sống ẩn dật, tiêu dao tự tại, đàn hát uống rượu vui vẻ. Chủ trương của họ tuy không phải là giống nhau hoàn toàn, nhưng đều có xu hướng chung là chỉ trích phê bình những điểm gian trá và hèn hạ của thói quan liêu trong triều đình Tây Tấn. Nơi tụ họp của họ được cho là ở Sơn Dương, Tiêu Tác, tỉnh Hà Nam ngày nay.
Danh sách Thất hiền:
1.Nguyễn Tịch tự Tự Tông người Trần Lưu (nay là Khai Phong, Hà Nam), từng làm chức Bộ binh giáo úy, nên còn gọi là Nguyễn bộ binh
2.Kê Khang tự Thúc Dạ người quận Tiếu (nay là Tuy Khê, An Huy), từng làm quan chức Trung tán đại phu, nên còn gọi là Kê trung tán.
3.Lưu Linh tự Bá Luân người Phái quốc (nay là huyện Túc, An Huy).
4.Sơn Đào tự Cự Nguyên, người huyện Hoài, quận Hà Nội (nay là Vũ Trắc, Hà Nam).
5.Hướng Tú tự Tử Kỳ người huyện Hoài, quận Hà Nội, cùng quê với Sơn Đào.
6.Vương Nhung tự Tuấn Trùng, tiểu tự A Nhung, người Lâm Nghi, Lang Tà (nay là Lâm Nghi, Sơn Đông), Tây Tấn đại thần, làm quan tới Tư đồ, phong An Phong hầu, nên còn gọi Vương An Phong.
7.Nguyễn Hàm tự Trọng Dung. người Trần Lưu, cháu của Nguyễn Tịch, làm quan tới chức Thái thú Thủy Bình, nên còn gọi là Nguyễn Thủy Bình.
Những bức tượng cho thấy người tạo tác nắm rất vững về cơ thể học, một yếu tố rất quan trọng khi làm tượng. Độ nhăn chảy của da thịt người già, gân tay chân trên tứ chi được thể hiện rất sinh động. Nét tươi vui, hay khắc khổ, sự sung mãn hay đau đớn đều được diễn tả xuất thần.
Bộ tượng đã tập hợp được những nét rất tiêu biểu về một nền văn hóa thông qua các tác phẩm gốm nghệ thuật. Những phút rảnh rỗi trong cuộc sống, hay đôi lúc có những suy nghĩ về cuộc đời, nhìn những bức tượng tưởng vô tri lại mang đến cho người nhìn ngắm nó những tư duy về số phận, những khát khao hay niềm thông cảm với nhân gian
DODUYNGOC





Hôm trước đi Hội An với mấy cô em gái từ xa vê, định đi Cửa Đại chơi, thế nhưng cậu tài xế bảo Cửa Đại giờ tàn lắm, người ta thích đi An Bàng hơn, thế là đi Bãi tắm An Bàng. Bãi này đang phát triển, khách đông, đa số là nước ngoài. Hàng quán, tiệm ăn mở từng dãy và buôn bán có vẻ phát đạt. Bỗng dưng thèm ăn món cá hố kho dưa cải chua, nghĩ đây là biển, làm gì cũng có món này. Hoá ra không có bán, trong menu không thấy, chỉ có tôm, mực và các loại sò ốc. Hỏi chị chủ quán, lắc đầu. Một lát sau, chị này đi hỏi đâu đó trở lại và bảo có mấy khúc cá hố để tủ lạnh định dành nhà ăn, nếu thích thì chị sẽ làm món này cho bữa ăn trưa nay. Ok ngay. Nhưng rồi một lát nữa chị lại bảo không có dưa cải, ăn cá hố chiên nha, cũng ngon mà. Thì cũng đành chứ sao. Ba khúc cá nho nhỏ, một khúc đuôi và hai khúc thân chiên dòn với chén nước mắm. Ăn tạm vậy, thế nhưng khi tính tiền, riêng dĩa cá ấy tính đến 350.000 đồng, đắt dữ, nhưng không cảm thấy ngon.
Hồi nhỏ con cá hố là loại cá rẻ tiền và chế biến được nhiều món ngon. Mạ mua về làm đủ món, đến giờ cứ nhớ hoài con cá dẹp dẹp, dài dài tưởng ít thịt nhưng thật ra cũng dày cơm.
Cá hố sinh sống ngoài khơi và ven bờ, ở tầng giữa và tầng trên, thường sống ở độ nước sâu từ 45- 60 sải tay. Cá tập trung thành đàn, nổi lên mặt vào mùa sinh sản, kiếm mồi rồi xuống sâu hơn. Trong mùa sinh sản, mỗi cá mái có thể sinh khoảng 130 ngàn trứng. Trứng nhỏ, có đường kính 1.6-1.9 mm, trôn nổi và nở thành cá bột sau 3-6 ngày. Cá bột dài 5.5-6.5 mm. Mùa sinh sản kéo dài trong các tháng từ 6 đến 10, cao điểm vào tháng 8.
Cá thuộc loại cá dữ, nổi lên tầng trên kiếm ăn vào ban ngày, và trở lại tầng đáy ban đêm, ăn các động vật như tôm, cá mực.. nhỏ hơn, khi còn nhỏ chúng ăn các phiêu, vi sinh vật. Cá trưởng thành sau 2 năm, đạt độ dài 30 cm và chuyển sang ăn cá nhỏ hơn. Cá có thể lớn, dài đến trên 2m, nặng 5 kg và sống trên 15 năm. Theo các ngư dân, cá hố to nhất chỉ chưa đến 10 kg tuy vậy cá có thể có chiều dài lên đến 4m, các ngư dân ở tỉnh Triết Giang, Trung Quốc đã bắt được một con cá hố dài 4m, nặng 18,5 kg ngư dân ở vùng Kê Gà, Bình Thuận cũng trông thấy cá hố khổng lồ dài gần 3m, thân rộng gần 30 cm và nặng tới 27 kg.
Cá hố có mặt hầu như tại mọi vùng biển nhiệt đới và ôn đới trên thế giới. Tại Việt Nam cá tập trung trong vùng biển miền Trung, từ Quảng Bình xuống Quy Nhơn, Quảng Ngãi..(wikipedia)
Hôm qua thấy trên facebook của cửa hàng món ăn Đà Nẵng ở Sài Gòn giới thiệu có cá hố mới vào, rú xe qua hẻm 285/58 CMT8 mua một kí, nhưng chỉ có gói 9 lạng, ừ thì chín lạng hay một cân thì cũng khác chi nhau. Lúc tính tiền hoá ra loại cá này có giá đắt dữ , chín lạng 270.000 đồng, hèn chi ở An Bàng tính giá cao, nhưng lại quá cao cho ba khúc cá vì ở đấy giá cá tươi chắc rẻ hơn Sài Gòn nhiều. Ở Sài Gòn phải tốn tiền vận chuyển máy bay, tiền thuê mặt bằng, tiền thuế, tiền điện, tiền nhân viên, giá có thể tăng gấp 1,5 hay 1,7 lần là hợp lý. Tiện đường qua thăm anh chồng cô em gái đang bệnh ở Quận tư, nên sau khi chạy qua chợ mua mấy chục dưa cải và mấy trái ớt đem qua nhờ cô ấy kho luôn. Không kịp món này cho buổi trưa vì phải rã đông, đành để chiều cô ấy nhờ Grabbike mang qua nhà. Nồi cá thấy chưa hấp dẫn, thử một miếng thấy chưa ngon, cá chưa thấm và hình như không được tươi hay rã đông chưa đủ độ nên thịt cá mềm và hơi tanh. Tối lại đi ăn cưới con người bạn nên đành cất tủ lạnh.
Sáng nay đem ra định kiếm chút nước dừa kho lại thì may quá cô bạn mang cho mấy hộp nước dừa tinh khiết. Thế là chế vào, thêm chút nước mắm, chút đường, ớt bột, bẻ thêm hai trái ớt xanh bắt lên kho lại. Nếm thấy ngon hơn, cá thấm và bớt tanh hơn, dưa cải cũng thấm đậm đà hơn. Trưa nay sẽ ăn với bún, hi vọng sẽ thoả mãn được cơn thèm món cá hố kho dưa cải, một món ăn rất đặc biệt của xứ Quảng Nam. Mà cũng ngộ, tui vốn không phải là con dân gốc của xứ này, tui chỉ là dân ngụ cư lớn lên ở xứ ấy, thế mà tui chỉ thích ăn và khi đi xa chỉ thèm ăn những món ăn của vùng đất Quảng Nam còn hơn là những người quê gốc sinh ra và sống ở đấy. Hay thật chớ, nhiều người cũng lấy làm ngạc nhiên về cái khẩu vị của tui he..he.
Lúc này toàn nói chuyện món ăn, thôi thì vậy cho nó lành, nói hoài mỏi tay mà chẳng có tác dụng gì, mấy ai nghe.
31.5.2019
DODUYNGOC
Đã ăn và không ngon như mình nghĩ, hình như cá không được tươi. Mà khi không tươi thì không có cách chi làm cho ngon được. Cải muối không hiểu sao lại đăng đắng, nhẫn nhẫn dù thấy có màu vàng nhìn ngon, không lẽ có hoá chất?
Đành vậy thôi. Hơi uổng công. Làm mất thời gian giã ớt tỏi, bể mẹ cái tô nhỏ hi..hi. Thôi từ nay không nhắc món này nữa nếu không tìm được cá tươi.

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget