Latest Post




Trong chương trình Game show Ai là triệu phú trên đài VTV3, một giảng viên đại học đã không trả lời được câu hỏi liên quan đến nhóm Tự lực văn đoàn và các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Khái Hưng. Cô giảng viên này đã tiết lộ rằng chưa bao giờ nghe nói tới tên của nhóm này và bảo rằng tên Nhất Linh gợi trong cô đến một gánh cải lương. Xem đến đó bỗng dưng tôi thấy buồn một cách khủng khiếp, tôi cảm thấy tội nghiệp cho cô giáo ấy, tội nghiệp cho những sinh viên đang được cô ấy dạy dỗ và cũng tội nghiệp cho cả một thế hệ.
Lâu nay, báo chí và mọi người khi bàn đến vấn đề giáo dục thường đổ lỗi cho học sinh, nhất là khi bàn đến môn Văn học. Nhiều ý kiến cho rằng học sinh bây giờ thực dụng, chỉ lo học những môn sẽ thi vào các trường đại học mà lơ là những môn học khác. Rằng thì là học sinh bây giờ không còn tôn trọng văn chương, thi phú mà chỉ chuộng khoa học kỹ thuật và ngoại ngữ.....
Chẳng có mấy ai nhìn lại người Thầy và suy nghĩ cho kỹ xem người Thầy đã làm gì để cho nền giáo dục nước nhà sa sút trầm trọng đến như vậy. Chẳng có mấy người đặt vấn đề trách nhiệm của người Thầy đối với thảm họa giáo dục hiện nay.
Tôi đã có thời gian gần 25 năm đi dạy học qua hai chế độ và tôi có thể mạnh dạn mà phát biểu rằng ở trong nhà trường hiện nay, rất nhiều Thầy Cô giáo đã chọn lầm nghề và đã sai lầm khi còn đứng trên bục giảng. Hiện nay tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp rất phổ biến, hầu như tỉnh thành nào cũng có xảy ra, tại sao chúng ta không đặt thêm vấn đề Thầy Cô giáo đang ngồi nhầm chỗ.
Theo quan niệm giáo dục từ xưa đến nay, người dạy học phải có kiến thức cao hơn học sinh một cái đầu. Và khi đi dạy học, chỉ cần sử dụng hai ba phần kiến thức của mình có. Nói gọn lại là người dạy học phải trang bị một số kiến thức nhất định về môn học mà mình đang phụ trách, đồng thời phải có một số vốn kiến thức phổ thông mà bất kỳ người nào được gọi là trí thức trong xã hội cũng cần phải có.
Thế nhưng, than ôi ! !!!! rất nhiều người làm nghề dạy học mà chẳng có số vốn kiến thức gì ngoài mấy trang giáo án được viết lại từ sách hướng dẫn giảng dạy, hay lơ thơ số vốn kiến thức đã được học lỏm bõm ở nhà trường đại học. Và từ đó, họ như những cái máy bật lên khi vào lớp để nhồi vào những con robot đang hối hả ghi chép một cách thụ động để đối phó với trường với lớp, với cha với mẹ, với thầy với cô. Thế nên mới có chuyện cô giảng viên đã nói ở trên suy nghĩ rằng cái tên Nhất Linh gợi cho cô một cái gánh hát cải lương; và nhiều học sinh lẫn lộn giữa vua Càn Long viết chiếu Cần Vương.
Đối với người thầy, ngoài kiến thức đã được học ở nhà trường, phải được trang bị thêm rất nhiều từ cuộc sống và tự học. Tự làm cho kiến thức càng ngày càng phong phú và tiếp thu những cái hay cái mới đang thay đổi hàng ngày là trách nhiệm của người thầy. Bởi có được số vốn kiến thức như vậy thì người thầy mới có tự tin để giảng dạy và có sức thuyết phục đối với học trò. Có một lần tôi hỏi một cô giảng viên đại học dạy môn văn học Việt Nam hiện đại là khuynh hướng sáng tác của nhà văn VN hiện nay là gì và giới trẻ thường đọc loại sách nào? Cô ấy trả lời tỉnh rụi: Bận lắm Thầy ơi, có thì giờ đâu mà theo dõi với khảo sát. Tôi tự nghĩ thế thì cô giáo ấy dạy gì cho sinh viên?
Kiến thức bị thiếu hụt, một số người thầy hôm nay lại tự đánh mất nhân cách. Nghề dạy học rất cần sự phẩm hạnh, bởi ta gọi đó là những nhà mô phạm. Thế nhưng, những hiện tượng nhan nhản xảy ra trong các trường học mà báo chí liên tục đưa tin đã cho chúng ta thấy rằng đạo đức của nhiều người thầy hôm nay đang ở trong tình trạng báo động. Theo một cuộc khảo sát đã được công bố trong năm vừa qua thì ngành giáo dục lại là ngành có số người ăn nhậu, rượu bia nhiều nhất. Đó có phải là một nghịch lí chăng ?
Hiện tượng cô giáo bắt học sinh liếm ghế, thầy giáo dụ học sinh vào nhà trọ để cưỡng dâm, cô giáo đi chấm thi tráo bài tráo điểm, thầy cô đi học sử dụng tài liệu lúc đi thi, ban giám hiệu ăn hối lộ, sửa bài sửa điểm để ăn tiền, cả hội đồng thi rắp tâm để cho thí sinh tự tung tự tác vì đã nhận phong bao, phong bì, bán đề thi, làm bài thi hộ ..v..v...không chỉ là hiện tượng cá biệt mà nhiều nơi đã trở thành một hệ thống.
Đó là chưa kể đến những chuyện bình thường là những mánh khóe để bắt học sinh phải học thêm để cải thiện đời sống. Cứ đầu năm học, các thầy cô của những môn chính thường tổ chức cuộc thi khảo sát trình độ. Và kết quả thường là rất bi đát, thế là trong kì họp phụ huynh đầu năm, thầy cô giáo báo cáo tình trạng và khuyên phụ huynh nên cho các em đi học ngoài giờ để nắm vững kiến thức. Chỉ cần đi học thêm, kì họp phụ huynh cuối học kì một đã thấy những báo cáo khởi sắc hơn và các phụ huynh có cảm tưởng con cái mình học giỏi hơn qua những kết quả của kì thi học kì.
Nếu khó khăn thì nên kiếm nghề khác để sống, không nên kiếm chác bằng cái nghề dạy học.
Trong các kì thi dạy giỏi hay các buổi dự giờ, thầy cô giáo thường tổ chức như là một vở kịch khôi hài. Các câu hỏi được soạn rất kĩ lưỡng, và có khi được dạy trước đó nữa kia. Em nào sẽ giơ tay phát biểu, người giỏi giơ tay phải, người yếu tay trái....Buổi học chuẩn bị sẵn như vậy mà vẫn có những giờ dạy cười ra nước mắt. Nhà trường dạy các em phải trung thực và thật thà dũng cảm, nhưng thầy cô, đúng ra phải là tấm gương sáng thì lại đi dạy cho học sinh những dối trá và những báo cáo láo. Trách chi khi ra đời, các em lại tiếp tục làm những báo cáo không trung thực.
Không những thế, người thầy lại hèn nhát, không dám nói lên chính kiến của mình, không dám đấu tranh với những sai trái diễn ra trước mắt mình, cuối cùng trở thành những kẻ đồng loã với thối nát. Có khi họ lại đánh mất liêm sỉ của người mệnh danh trí thức, trốn tránh trách nhiệm với học sinh, đứng về phía kẻ ác để đày đoạ chính học trò của mình, truy tố kẻ lương thiện, lập phe cánh để ủng hộ cường quyền. Một số thầy cô trở thành kẻ hèn, vì quyển lợi được chia cũng có, vì sợ bị đì, bị mất việc cũng có mà cũng có khi vì đang phấn đấu để vào đảng vào đoàn để được lên lương, lên chức.
Những người cỏn chút lương tâm, còn chút liêm sỉ dám đấu tranh sẽ vị cô lập, sẽ bị bạc đãi và rất khó để sinh hoạt bình thường trong tập thể. Họ trở thành kẻ cô đơn. Điều đó nói lên thực trạng thối nát tồn tại ở trong môi trường giáo dục.
Bỗng dưng tôi chợt nhớ đến nhân vật giáo Thứ trong Sống mòn của nhà văn Nam Cao và tôi có cảm tưởng những ngừơi làm nghề giáo có cái vẻ hèn hèn và cam chịu.
Thiếu kiến thức, thiếu nhân cách, những người làm nghề dạy học vừa không được học trò nể phục mà còn làm cho học trò xem thường, bất kính. Lỗi đó là bởi tại chúng ta, những nhà giáo không đủ điều kiện để làm nghề.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân.
Sao chúng ta không soi lại mình mà cứ trách mãi học trò.
Lại nói đến chuyện dạy môn Văn
Trong các môn học, Văn học là một môn rất khó dạy. Bởi tuy người thầy giáo dạy môn văn học không phải là nhà văn, nhà thơ sáng tạo văn chương, nhưng họ là những ngưởi truyền thụ văn chương, do vậy họ phải là một người có tâm hồn nghệ sĩ. Bởi dạy Văn học không chỉ truyền đạt kiến thức mà chủ yếu là truyền sự rung động trước tác phẩm. Tức là người dạy Văn là người phải có cảm xúc về tác phẩm và truyền cảm xúc đó đến với học sinh. Người thầy như là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn chương trong mỗi tâm hồn của những đứa học trò. Và muốn được như thế thì người dạy phải có sự rung cảm sâu sắc và bằng ngôn ngữ và kĩ thuật diễn đạt làm cho học trò rung động theo. Chẳng cần nhồi nhét chi cho nhiều, chẳng cần thuộc chi cho lắm ba cái đại ý và bố cục bài này chia làm mấy phần, một giờ dạy và học văn tốt là một giờ mà qua đó những tần số cảm thụ cùng rung lên và tự động tác phẩm đó, câu thơ đó, đoạn văn đó tự động thấm sâu vào tâm hồn của người học và trở thành hành trang đi suốt cuộc đời của chúng.
Dạy Văn mà giảng khô cứng, máy móc, chỉ mục đích truyền kiến thức, lúc nào cũng lên gân giáo dục này nọ thì làm sao chuyên chở những rung động văn chương.
Thật ra, trong chương trình học, không phải bài nào cũng làm ta rung cảm, không phải bài nào cũng hay, đôi khi quá dở nữa là khác. Gặp những tác phẩm như thế thì cũng chẳng biết trách ai, bởi không thể dạy tốt những tác phẩm như vậy vì không thể tìm được chỗ nào để gọi là văn chương mà rung cảm. Thôi thì đành trách sao mấy người sọan chương trình thiếu trình độ quá vậy?
Người ta hay bảo văn học là nhân học, là có ba chức năng hiện thực, thẩm mỹ và giáo dục, trong đó giáo dục là quan trọng nhất. Vì thế nên nhiều thầy cô cứ ép mà giáo dục. Dạy Kiều đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán, cái ghen của Hoạn Thư, sự tráo trở của nhân vật Sở Khanh, sự bất lực của nhân vật Thúc Sinh... thì giáo dục cái gì mà cũng lồng ghép vô chuyện chống chế độ phong kiến với áp bức một cách xơ cứng và ngô nghê. Chuyện gì cũng phải có giáo dục, cố ghép cho nó một cách khiên cưỡng và làm người nghe nhàm chán và bất phục.
Dạy mà người nghe cảm động, học trò rớt nước mắt thương cho số phận nàng Kiều, thương cho cái Tý phải ăn cơm thừa của chó, cảm thương cho số phận Chí Phèo, xót cho chị Dậu phải đem sữa cho người khác bú khi con mình đang đói...tức là đã giáo dục rồi, cần chi phải lên gân đánh đổ thực dân phong kiến và lũ cường hào, ác bá, cần chi phải kêu gọi vùng lên. Mà thời bây giờ, giáo dục không khéo sẽ khiến cho những học sinh khá đặt ra câu hỏi gắn liền với những câu chuyện hiện thực đang diễn ra ở xã hội, người thầy sẽ chẳng biết cách trả lời. Bởi bây giờ có nhiều số phận đớn đau hơn Chị Dậu, nhiều kiếp người còn khốn nạn hơn Chí Phèo năm xưa.
Khi người ta yêu, người ta cảm thì tự khắc người ta sẽ có thái độ thôi, cần chi gắn gậy vào và bắt ép người ta phải có tính giai cấp, phải đấu tranh.
Đừng trách học sinh không thích học Văn mà hãy suy nghĩ sao chúng ta dạy Văn dở quá nên chúng nó chẳng yêu Văn.
Vì chúng ta biến văn chương thành chính trị và nhiều người dạy Văn chương chẳng khác nào những nhà đang rao giảng chính sách. Dạy bài văn nào cũng phải kết luận yêu chủ nghĩa xã hội, phấn đấu trở thành con người mới XHCN thì còn chi là văn chương?
Bao giờ chương trình Văn học trong nhà trường đều là những tác phẩm văn chương đích thực và người dạy Văn có cảm xúc và truyền được rung cảm đến cho học trò như những người ca sĩ diễn đạt được bài nhạc của người nhạc sĩ tài hoa, đọc xong câu chuyện như vừa được xem một vở kịch đời, thì lúc đó chắc chắn học trò sẽ yêu thích môn văn học và chúng sẽ tự động yêu văn chương thi phú.
Để nhớ những năm làm thầy. 
DODUYNGOC. 
18.4.2007

Chắp Tay Nỗi Nhớ (*)


Sóng vẫn vỗ ngàn đời tháp cổ
Mưa vẫn về thiếu bóng Diễm xưa
Trên quán trọ trăng vẫn già như cũ
Và bên đời chú dế gọi không thưa

Anh đến trần gian từ hạt bụi
Lắng tự nhân gian những ngậm ngùi
Làm chiếc lá quay hoài trong gió chướng
Lúc trở về hạt bụi hóa kim cương

Từ giữa thinh không làm cánh vạc
Kẻ độc hành xuyên suốt đêm trăng
Hàng long não ngày xưa không còn lá
Có còn chi nối tiếc nguyệt như rằm

Sóng vẫn vỗ ngàn đời tháp cổ
Mưa vẫn về thiếu bóng Diễm xưa
Trên quán trọ trăng vẫn già như cũ
Và bên đời chú dế gọi không thưa

Kẻ lãng du đi về phố cũ
Vẫy tay chào chốn trọ mù tăm
Vết trầm luân sáu mươi năm nếm đủ
Chốn trăm năm nắm đất chọn chỗ nằm

Hạt bụi lại về với hư vô
Tiếc thương chi còn lại nấm mồ
Trên vai nhật nguyệt không còn nặng
Tháng Tư về tôi chấp nguyện Nam Mô.

DODUYNGOC
Sài Gòn - 1.4.2007
* Đây là bài thơ của tác giả Đỗ Duy Ngọc sáng tác nhân ngày giỗ của Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài thơ đã được anh Trịnh Công Hà, em trai cố nhạc sĩ đọc tại lễ giỗ ông tổ chức ở San José, Mỹ.



Lần đổi tiền thứ hai năm 1978, Hân chẳng có bao nhiêu tiền để đổi. Lúc đấy Hân đang thất nghiệp, chạy đầu này đầu nọ, chẳng ra việc gì, ai kêu gì làm nấy, bữa đói bữa no. Có thằng bạn thân vượt biên, trước ngày đi có cho một ít, ăn được vài tuần cũng hết sạch. Loay hoay mãi mà chưa biết cách gì để sống. Sách vở bán đã hết. Áo quần cũng chỉ còn bộ đồ mặc trên người, cũng chỉ còn đôi giày da mòn long đế. Gia sản chỉ có bấy nhiêu. Căn phòng càng ngày càng vắng đồ đạc, càng thưa thớt người. Lần lượt từng người đi. Kẻ về quê, người đi đâu mất biệt. Đôi lúc có kẻ lướt về rồi lại đi. Tất cả tản mác để tiếp tục sống, để tiếp tục tồn tại.
Đang là cuối đông. Sài Gòn bỗng lành lạnh với những cơn gió lạ. Cả xã hội nghèo, thiếu ăn. Chén cơm trắng là giấc mơ của bao người. Ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép. Chẳng ai giúp được ai. Hân co ro dưới gió trên đường Trương Minh Giảng. Con đường quen thuộc cả chục năm nay, Hân thuộc từng con hẻm, từng lối rẽ, từng cái ổ gà nho nhỏ trên nền xi măng của vỉa hè. Vẫn biết là chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết được gì cho cái bụng rỗng đã ba hôm rồi, nhưng anh vẫn đi. Nằm nhà xót bụng không chịu được, ra đường với chút hi vọng gặp ai đó, gặp một dịp may nào đó, lượm được đồng bạc ai đánh rơi. Biết đâu? Cũng còn vài người quen, cũng còn vài thằng bạn. Nhưng Hân ngại. Anh tiều tuỵ quá. Đói rách quá, ngại gặp mọi người. Gia đình nào cũng nghèo nhưng đến bữa cũng có bữa cơm dù là bo bo, bột mì hay cá hẩm thịt ôi. Hân chỉ cần có gì bỏ bụng. Lấp đầy khoảng trống của bao tử đang kẻu ầm ĩ. Nhưng Hân không dám đến nhà ai. Đói nhưng cái bệnh sĩ vẫn bám vào anh. Hân đi dọc căn phố, những cửa hàng ngày xưa sầm uất thế, rộn ràng thế bây giờ đìu hiu và buồn tẻ. Đã gần chập chọang chiều mà căn phố vẫn hiu hắt vì không có điện. Những giọt mưa lác đác, hắt vào anh. Hân tay ôm ngực tay loay hoay tìm điếu thuốc. Túi rỗng. Hân thèm một hơi thuốc trong mưa. Hân cúi xuống, mắt lướt trên nền xi măng, anh lượm được hai cái tàn thuốc. Anh lượm mảnh giấy báo, xé hai tàn thuốc, gói mấy sợi thuốc vào mảnh giấy báo rồi se lại. Ánh lửa soi sáng một vùng mặt, khói vờn lên. Bụng đang đói gặp hơi khói làm đầu anh lâng lâng như say. Những bóng người loang thoáng, chập chờn. Bụng anh thắt lại. Hân có cảm giác có dòng nước mắt đang âm ỉ chảy từ đôi mắt cận.
Hân băng qua ngã tư. Góc cây xăng Trần Quang Diệu với Trương Minh Giảng cũ có một bà cụ già bán bánh ít nhân đậu. Bà cụ người Bắc đã già lắm. Lưng còng, lúc nào người cũng quấn trong hai ba lớp áo, đầu quấn khăn. Hàng của bà chỉ chục cái bánh lá đặt trên cái thúng cũng cũ kỹ như bà. Một bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Bà bán vào buổi chiều, ít thấy khách mua nên nhiều lúc bảy tám giờ tối vẫn còn thấy bà ngồi dưới đèn đường, bóng bà đổ trên đường nhìn hiu quạnh lắm. Hân lâu lâu cũng ghé bà, mua một vài cái ăn qua cơn đói. Hôm nay Hân nghĩ giá có vài cái bánh này, chắc cũng đỡ cho cái bụng. Nhưng anh chẳng còn đồng bạc nào trong túi. Ngang qua, Hân đi luôn dù chân như muốn níu lại. Hân đi đến hẻm Trường Lê Bảo Tịnh. Anh quay lại, dùng dằng mấy bước rồi sà xuống cái thúng bánh tả tơi của bà cụ. Cụ ạ! Cụ cho con hai cái được không? Mời cậu. Cậu mua giúp. Ế quá. Nhưng cụ ơi! Hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không? Bà cụ ngần ngừ, chép miệng: Khổ thế cơ à? Ối giời thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Hân đứng lên, anh thấy chóng mặt, cái đầu hơi quay quay, anh lại đành ngồi xuống. Dạ vậy thôi cụ ạ. Vốn cụ chẳng bao nhiêu mà cháu lại ăn thiếu thì khổ cho cụ quá. Bà cụ đưa đôi mắt hấp hem nhìn Hân, móm mém: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?
Đêm đó nhờ hai cái bánh ít, Hân ngủ được một giấc ngon.
Mấy hôm sau đó, có việc ở Biên Hoà, anh xuống làm phụ mộc gần chục ngày. Về lại Sài Gòn mấy bữa, ghé góc đường lại không thấy bà cụ. Rồi ngày qua tháng lại, thời gian trôi đi, lúc thì quên, khi nhớ tìm mãi chẳng thấy bà cụ đâu.
**********
Cuối năm ấy, một người bạn cho một suất vượt biên, trả tiền sau. Hân liều làm một chuyến vì đang bế tắc quá. Lênh đênh gần nửa tháng ngoài biển, máy hư, tàu vô nước, cuối cùng cũng cặp được vào đảo Pulau Bidong đảo nhỏ ở phía nam biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia.
Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến năm 1991. Đến 30 tháng 10năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp đón 250.000 người tỵ nạn.
Hân ở đảo gần một năm vì chẳng có thân nhân nào bảo lãnh, anh vốn lớn lên từ cô nhi viện, tứ cố vô thân nên chẳng biết cậy nhờ ai. Sau đó anh gia nhập đạo Tin Lành và rồi một hội thánh ở Mỹ bảo lãnh Hân qua Mỹ. Những năm tháng ở Mỹ, anh cật lực vừa học vừa làm, cuối cùng cũng có một việc làm ồn định, một bằng cấp kha khá, một căn nhà vừa ý. Hai lần lập gia đình đều đổ vỡ, không có đứa con nào, anh nghĩ chắc ở thế cho đến già. Số thế rồi thì chấp nhận vậy. Đi làm về, một mình trong căn nhà trống, nhiều đêm anh nhớ Việt Nam, đôi khi thấp thoáng bóng của bà cụ và hai chiếc bánh anh còn thiếu nợ hiện ra trong giấc mơ. Nhưng anh vẫn chưa về, thật ra cũng chẳng còn ai để về. Chẳng còn chi níu kéo để về. Nhưng Việt Nam vẫn về trong giấc mơ của Hân. Có một cái gì đó không giải thích được cứ gọi anh về.
Năm 2002, nhân chuyến công tác ở Thái Lan, anh về lại Sài Gòn năm hôm. Thành phố chẳng còn như cũ, nhiều nhà cao tầng, phố xá đông đúc hơn, người ta có vẻ giàu hơn, hàng quán nhiều hon. Buổi chiều anh về lại con đường Trương Minh Giảng cũ, con phố này có vẻ ít đổi thay, trường đại học ngày xưa của anh giờ trông tàn tạ, những bức tường ám rêu, cái cổng trường vẫn thế. Ngôi chợ cũ khang trang hơn, phố sầm uất hơn. Hân đi dọc con đường mấy chục năm trước thường đi, vỉa hè không còn loang lổ, lát gạch đẹp hơn. Đứng ở bên này ngã tư Trần Quang Diệu nhìn qua xây xăng, anh thoáng thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu xanh đang ngồi ở dưới cột đèn đường. Lạ nhỉ? Hai mươi mấy năm rồi, cụ còn sống sao? Cụ vẫn ngồi bán ở đây sao? Hân nhớ hai chiếc bánh còn thiếu nợ bà cụ. Anh vội băng qua đường. Một chiếc xe bus trờ tới, che tầm mắt của anh. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Mới thấy đây mà? Hay chỉ là ảo ảnh. Hân đi tìm quanh quất mà chẳng thấy gì. Anh đứng ngay chỗ bà cụ hay ngồi ngày xưa, miệng lẩm bẩm: Cụ ơi! Con về tìm cụ trả tiền hai chiếc bánh. Chắc cụ chẳng còn trên đời này nữa đâu. Nhưng con vừa thấy cụ. Hay cụ nhắc con nhớ món nợ năm xưa. Nhưng con biết làm sao trả. Cụ ơi! Mong cụ siêu thoát. Món nợ này con suốt đời nợ cụ.
Mấy ngày còn lại ở Sài Gòn, Hân cứ quanh quất ở cây xăng Trần Quang Diệu, hỏi thăm về bà cụ bán bánh ít hơn hai mươi năm trước ở chỗ này. Mấy hôm rồi chẳng ai biết, chẳng biết thêm tin tức gì. Hôm cuối cùng ở Việt Nam, anh gặp được một anh chàng xe ôm, anh biết rất rõ bà cụ vì anh là con rể của bà cụ. Hân mừng quá, ngồi trên xe để anh xe ôm chở về nhà mà anh cứ ôm bụng anh chàng xe ôm mà nói: Mừng quá, mừng quá. Chắc là bà cụ khiến anh gặp tui. Mừng quá! Anh xe ôm kể đêm qua thấy cụ về bảo chiều mai ra góc cây xăng, có người muốn gặp. Hân nói với lên: Thế là cụ bảo ra gặp tui đấy. Bà cụ linh thiêng thật.
Xe chạy vào mấy cái hẻm ngoằn nghèo. Con hẻm càng vào sâu càng hẹp lại. Căn nhà ở cuối con hẻm ứ nước, cạnh bãi rác. Nhà sơn tróc loang lổ, nghiêng ngiêng như muốn ngã. Nhà tù mù một cái bóng đèn vàng hiu hắt. Một người đàn bà đi ra sau tiếng kêu của anh xe ôm. Hân bước vào nhà, đập vào mắt anh là chiếc bàn thờ be bé thắp ngọn đèn đỏ quạch soi tấm ảnh nho nhỏ của bà cụ. Bà cụ đang nhìn anh, mắt nheo nheo với nụ cười hóm hỉnh. Anh nhớ câu cuối cùng của bà nói với anh hơn hai mươi năm trước: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?
Hân xin ba cây nhang, đốt lửa, ánh sáng bùng lên soi khuôn mặt của người đàn bà nhầu nhĩ, chắc tại nghèo. Hân chắp tay vào ba cây nhang: Cụ ơi,con xin lỗi cụ, con đắc tội với cụ, con mang nợ cụ hai chiếc bánh cứu con qua cơn đói mà bây giờ con mới trả được cho cụ thì cụ đã chẳng còn. Con không quên được hai chiếc bánh của cụ đâu. Và vì không quên nên con mới nhìn thấy cụ, con mới tìm được nhà cụ để trả món nợ ân tình.
Hân ra ngoài cửa, ánh sáng cuối cùng của buổi chiều hắt lên ánh sáng kỳ dị vừa nhờ nhờ vừa tăm tối trên cánh cửa loang lổ. Anh rút hết số tiền trong ví, trong túi xách, anh không đếm là bao nhiêu nhưng cũng được một bó bằng cườm tay. Anh xin chiếc dĩa, đặt hết lên đấy và vái một lần nữa. Cụ ơi! Con xin gởi cụ. Đã biết trễ rồi nhưng có còn hơn không. Con đội ơn cụ và mong cụ tha lỗi cho con.
Hân bước ra con hẻm, ánh đèn đường vừa bật, anh lại ra con đường cũ. Cây xăng đang tấp nập. Khoảng sáng chiếu ở dưới đèn đường, anh lại thấy nụ cười và dáng lom khom của bà cụ. Nhưng lần này cụ không có bóng đổ.
15.7.2005
DODUYNGOC


(Viết khi nghe tin Phú Guitarist vừa qua đời)

Điệu Blue nức nở
Gục đầu bên phím đàn
Nốt cuối cùng tắt thở
Một cuộc đời vừa đi
Giọng hát còn vang xa
Tiếng kèn rơi hấp hối
Điệu Blue cuồng si
Ánh đèn bay chấp chới
Rượu tràn trên lối nhảy
Nốt nhạc chảy liên hồi
Mấy ngón tay lẩy bẩy
Đưa gió về trùng khơi
Buông đàn ngưng hơi thở
Giai điệu gãy nửa chừng
Điệu Blue vừa mở
Cửa đã khép đời ngừng
Một đời ôm đàn hát
Giờ buông hết xuôi tay
Cổng thiên đường bát ngát
Mở ra lúc cuối ngày
9.8.2018
DODUYNGOC



Tiếc bóng người đi qua
Không ngoái đầu nhìn lại
Tiếc những điều ái ngại
Chưa có dịp nói ra
Tiếc bao chuyện gần xa
Giờ chỉ là quá khứ
Nỗi buồn như máu ứ
Chắn hơi thở đi về
Tiếc vừa được cận kề
Đã nói lời ly biệt
Giữa buổi chiều sức kiệt
Mưa ướt đẫm nỗi buồn
Gió động chạy cuống cuồng
Rủ đi tìm nỗi nhớ
Những cơn đau cắc cớ
Nhắc nhở lại bùng lên
Tiếc những thứ không tên
Trộn nhau thành vết xước
Tiếc người giờ đi ngược
Không kịp để nhìn nhau
Tiếc dồn thành nỗi đau
Chiều mưa ngồi ôm ngực
Góc bàn nghe ký ức
Xào xạc với chiếu giường
Bỗng nhìn mình trong gương
Thấy tàn phai ẩn hiện
Còn biết bao là chuyện
Chưa kịp nói một lần
Hoa nở rụng tràn sân
Lá úa vàng trước ngõ
Ta chỉ là cọng cỏ
Héo hắt ở ven đồng
Đợi nước cuốn ra sông
Chờ giờ về với biển
Không trông lời đưa tiễn
Chẳng ngóng cái vẫy tay
Người sẽ chẳng có hay
Ta rơi vào im lặng
9.8.2018
DODUYNGOC



Đó là rẻo đất nhỏ, sát con sông. Một miếng đất trời mưa nước sông dâng lên bì bõm. Nắng thì bụi. Dân tứ xứ nghèo khổ không đất cắm dùi giạt về đây, lèo tèo chục căn, gọi là nhà nhưng chỉ là những vá víu, tạm bợ. Lâu ngày thành xóm nhỏ. Xóm chỉ có con đường độc đạo hình hành kiểu đi lâu thành đường. Tính theo đường chim bay thì cách thành phố chỉ chục cây số, nhưng là tương phản cực kỳ. Xa xa kia là những cao ốc mọc lên như nấm, thay đổi hàng ngày. Còn ở đây, cuộc sống như đứng lại, nghèo vật vã. Có người ở thì có chợ. Một cái chợ xép, dăm ba hàng quán lèo tèo, chủ yếu bán ba thức ăn rẻ tiền cho đám công nhân cũng nghèo phía xa kia chiều chiều tan ca đi ngang qua mua vội ba miếng thịt bèo nhèo với mấy con cá ươn hay bó rau nho nhỏ. Người trong xóm làm đủ nghề, đánh cá ven sông, lượm bọc nilon, bán nước trà đá ngoài quốc lộ. Cũng có người hành nghề ăn xin, bán vé số. Vài người bán mua ở chợ xép. Góc sát bờ sông có bãi rác, ruồi nhặng bay vo vo, nước nhỉ ra tanh tanh, lờm lợm. Người ta sống quen với nó nên cũng chẳng có cảm giác gì. Giang hồ đặt tên xóm là xóm Sầu ven đô. Cái còn sót lại hình ảnh của chốn quê ở xóm nhỏ này là mấy bụi tre gai ở cạnh sông, những cây tre cao, lá xanh biếc, ngọn vươn cao lên trời lắt lay theo gió. Mùa mưa, gió thổi từ sông lên, ào ạt, lung lay những căn nhà xiêu xiêu, khiến không gian lành lạnh như mùa đông ở miền Trung.
Lão xuất hiện trong khu chợ ven đô này vào buổi chạng vạng cuối mùa đông. Trời nặng như chì, ẩm ướt, những ngọn gió chiều thổi u u, lành lạnh. Chợ chiều đã tan, những sạp hàng chổng chơ trong cái chợ tồi tàn. Những con đường cũng vắng ngắt nên chẳng ai biết hay chú ý đến lão. Mọi người chỉ nghe loáng thoáng tiếng trống lạ gõ trong gió chiều chập choạng, nhưng ai cũng đang lo chuyện nhà, chuyện cửa nên chẳng ai quan tâm.
Sáng hôm sau người ra chợ sớm thấy lão nằm co quắp trên sạp thịt, chỗ rộng rãi và có vẻ sang nhất chợ. Người lão run bần bật, chân tay co quắp lại trong bộ đồ bộ đội bạc màu, rách bươm. Lão ôm khư khư cái ba lô cũng bạc màu rách nát như bộ đồ của lão.
Người lão như xác khô, da đen mốc, cặp mắt trô trố nằm trong hốc sâu. Lão nói lắp bắp bằng cái giọng trọ trẹ của người miền ngoài, rất khó nghe. Nhưng đàn bà vốn kiên nhẫn, sự xuất hiện của lão cũng là sự lạ ở vùng đất nghèo ven đô này, nên các bà hỏi vặn mãi cũng hiểu ra nhiều điều. Đại khái lão là bộ đội trước chiến đấu ở Campuchia. Trong một trận chiến đấu hay hành quân gì đó, lão bị thương, lạc đơn vị và bị mất trí nhớ.
Lão đươc đưa về một khu an dưỡng mấy chục năm. Một ngày đẹp trời, lão yêu cầu cho lão về quê, nhưng có ai biết quê lão ở đâu, lão cũng chắng nhớ. Không cho về thì lão trốn. Và từ chỗ an dưỡng ở Bình Phước, lão lang thang suốt mấy tháng, vạ vật kiếm ăn từ cơm thừa canh cặn nơi hàng quán bên đường cho đến những đống rác. Cho đến ngày lão trôi giạt đến khu chợ ven đô này.
Lão bảo chốn này giống quê lão, cũng có ngôi chợ nhỏ lèo tèo, cũng có giòng sông, cũng có mặt trời đẹp và to như quê lão, cũng có rác rến, cũng có con đường đất, cũng có bụi tre gai, giống lắm. Và lão ở lại làm như đã về được quê nhà. Nhưng có lúc lão lại khóc tu tu, hỏi mọi người sao không thấy Mạ của lão, Mạ lão bán rau ở chợ mà, sao tìm hoài không thấy?
Thấm thoát thế mà gần chục năm lão trú ở vùng này. Lúc đầu thì suốt ngày quẩn quanh ở chợ, ai nhờ gì thì làm, khiêng vác, quét dọn, đổ rác, gọi giúp người này, nhắn giúp người kia. Làm xong việc người ta lại cho ít tiền, có khi lại cho tấm bánh, chén cơm.
Một thời gian sau, thấy có mấy người dựng mấy cái lều ở chỗ đống rác, gần cái cống nước đen ngòm, lão cũng kiếm được mấy tấm ni lon, mấy cái bao cũ, che được cái lều be bé rúc ra rúc vô, lão gọi đó là cái nhà của lão. Mọi người dựng lều được thì lão cũng dựng được, cũng chẳng thấy ai có ý kiến gì.
Sống lâu với dân chợ, thật thà, chất phác, không tham của ai, chẳng giận hờn ai, chưa bao giờ gây gổ, nặng lời với ai, dân chợ thương, quyên góp cho lão được ít tiền làm vốn đi bán vé số. Thế là hàng ngày, từ mờ sương, lão lên đường đi vào thành phố, sẩm tối lại về. Cũng có nhiều hôm bị mấy đứa bất lương gạt tiền, cũng có khi lại bị bọn cướp cạn giật mất xấp vé. Về lão khóc tu tu, lại quanh quẩn ở chợ thời gian, mấy bà, các cô ở chợ lại góp cho lão số vốn, lão lại đi.
Dù đi đâu, dù mưa hay nắng, dù bán được hay không, lão luôn về khu chợ với túp lều của lão trước khi chương trình thời sự ở trên truyền hình phát tin tức. Lão về để canh giờ gõ trống. Cứ đúng bảy giờ tối là lão gõ trống. Chiếc trống con con có dây đeo trước bụng. Lão gõ rất bài bản, bắt đầu những tiếng rời rạc nhưng rất đanh, sau đó là những tiếng dồn dập. Tay đánh, miệng lão phát ra âm thanh của tiếng súng tạch tạch bùm..tạch tạch bùm. Rồi lão hét: Tiến lên! Tiến kên các đồng chí. Rồi lại bắn. Rồi lại hô: Các đồng chí xung phong, xung phong...Lão diễn trò này đúng mười lăm phút không sai. Cuối cùng chấm dứt là báo cáo: Đồng chí Huy đã hi sinh, Đồng chí Thân hi sinh, đồng chí Toàn đã hi sinh và sau đó là lão ngã vật ra, nằm im một lát và rổi trở lại bình thường, đem cất cái trống vào chỗ của nó. Chuyện này diễn ra đều đặn mỗi ngày, không sớm hơn, cũng chẳng trễ hơn. Cũng từng đó động tác, từng đó lời nói, không thừa, chẳng thiếu. Chuyện lão đánh trống diễn ra từ khi lão về đây cho đến bây giờ. Lúc đầu thì mọi người còn để ý, con nít còn bu xem, riết rồi chán, chẳng ai thèm coi nữa. Nhưng lão diễn đâu phải để mọi người xem, lão diễn như một nhu cầu bí mật nào đó thôi thúc lão, bắt lão phải làm, không làm không được, đó là một bồn phận không thể nào quên.
Người ta đoán đó là trận đánh diễn ra ở bên Campuchia của lão, xảy ra lúc bảy giờ tối, đồng đội lão chết hết, mình lão còn sống và bị thương bởi mảnh đạn vào đầu khiến lão chẳng còn nhớ gì ngoài trận chiến đấu cuối cùng.
**********
Hôm nay lão chuẩn bị vào phố với xấp vé số trên tay. Nghe nói tuần trước ở Sài Gòn người ta tụ tập đông lắm. Nghề của lão càng đông người càng dễ làm ăn. Người ta tụ tập, ca hát, vui đùa dễ động lòng và phấn khích để mua vé số. Mấy năm theo nghề lão rút ra được kinh nghiệm ấy. Lão lấy làm lạ khi nhiều người bán vé số như lão lại ưa bán ở bệnh viện. Lão nghĩ nơi ấy buồn tẻ quá, ai cũng đang lo cho sinh mạng, bệnh tật của mình hoặc người thân, tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện mua số. Thế nên, lão chỉ bán ở chỗ nào vui, quán nhậu, chỗ hội hè, tụ điểm ca nhạc... Toàn chỗ vui, đời buồn lắm rồi, kiếm chỗ rộn ràng cho bớt tẻ.
Lão đi đến Bưu điện thành phố và Nhà thờ Đức Bà thì nắng đã lên. Hôm nay nắng đẹp. Những sợi nắng vàng óng ấm áp của buổi sớm mai làm lão khoan khoái sau khi đi một chặng đường dài với một chuyến xe bus ngắn. Lão thấy vui, lẩm bẩm một khúc quân hành bỗng dưng xuất hiện trong đầu lão. Ngồi nghỉ trên ghế đá, lão ngước nhìn khuôn mặt của tượng Đức Mẹ trước nhà thờ, đôi mắt mới buồn làm sao, nhìn như có giọt nước mắt. Có một chút ký ức thoáng hiện trong đầu lão. Ngôi nhà thờ ở gần dòng sông. Đôi mắt của Đức Mẹ. Đôi mắt và những giọt máu của Chúa Jesus trên ngôi thập giá. Đứa bé quỳ bên mẹ, nhìn lên. Tiếng cha giảng. Amen! Như ánh chớp, hình ảnh thoáng qua rồi mù tăm.
Nghe kể ngoài này đông người lắm mà, sao chẳng thấy. Có mấy xe du lịch chở khách nước ngoài. Mà nước ngoài thì chẳng ai mua vé số. Lão nhìn quanh, công an, cảnh sát áo xanh áo vàng , trật tự dân quân ở đâu mà lắm thế. Nhìn đâu cũng thấy. Kiểu này chắc phải dời chỗ khác thôi. Mấy ông ấy cũng chẳng bao giờ mua vé số, mở miệng là xua đuổi, là chửi thề, chẳng trông mong gì đám ấy.
Lão đứng lên định đi thì bắp gặp nó. Nó nằm chỏng chơ cạnh lão từ nãy giờ mà lão không để ý. Một chiếc điện thoại có bao màu hồng, nhìn rất sang và đẹp. Lão cầm lên, ngắm nghía. Mở nắp, có mấy nút, lão chẳng biết ấn nút nào. Cái này chắc đắt tiền. Tội nghiệp ai lại đánh rơi ở đây. Chắc bây giờ chủ nhân của nó đang lo lắng đi tìm. Lão nghĩ hay là ngồi đây đợi một lát, có khi họ trở lại mình trả cho người ta. Lão có cần xài mấy cái này đâu. Lão có ai để gọi mà có ai gọi cho lão để nhận. Nhưng phải công nhận nó đẹp, người ta nghĩ ra nhiều thứ quá. Bỗng thấy nó rung, rồi có chuông reng, lão luống cuống, chẳng biết làm gì, mắt nhìn vào nút xanh nút đỏ mà chẳng biết bấm vào đâu. Chuông tắt. Rồi lại kêu, lại rung. Lão bó tay. Hay là đến hỏi anh chàng áo xamh đằng kia, anh ta nhìn mình trô trố, xem cái mặt dữ dằn quá. Lại sợ. Hình như tay anh ta còn có cái gậy. Hắn nổi hứng phang mình một cái thì chết mẹ. Thôi vậy. Cứ để nó reng rồi lại tắt. Lão ngồi mân mê cái điện thoại. Nghe chúng nó bảo còn chụp hình được như máy ảnh. Hay nhỉ. Làn đầu tiên trong đời lão cầm trên tay cái thứ hiện đại này. Lão đưa lên mắt nhìn như người đang chụp ảnh. Đen thui thùi lùi, có thấy gì đâu. Lão xoay lai, nhìn thêm lần nữa, cũng chẳng thấy gì ngoài một màu đen. Đúng lúc ấy thì lão bỗng thấy mình bị xốc nách đứng lên và một giọng nói giận dữ bên tai lão: Chụp hình gì đấy, lão già. Lão chưa kịp nói gì đã bị hai gã thanh niên lực lưỡng kéo lên, lôi đi xềnh xệch. Đi theo sau là thằng mặc áo xanh nhìn lão hồi nãy, cái gậy trong tay hắn khua khua. Lão la lên: Làm chi rứa. Làm chi rứa. Tui bán vé số mà. Tui chụp hình mô. Đem tui đi mô đây? Lão vùng vẫy chân tay, miệng lão la nhưng hai tên thanh niên vẫn kéo lão đi. Lão nghe nhói ở chân như bị hòn đá nhọn đâm vào. Mấy du khách đứng nhìn, có người đưa máy hình lên, nhưng đã có mấy anh áo xanh đưa tay bịt ống kính, ra dấu không cho chụp.
Lão bị quăng lên xe đậu bên kia đường. Trên xe cũng có mấy người bị bắt như lão. Mặt ai cũng ngơ ngác, đầy lo âu và sợ hãi. Ở góc xe, có một thanh niên mũi đang rỉ máu, đưa tay chào và cười với lão. Có quen không? Nhìn mặt không quen. Lão gượng cười lại, có cảm giác cái chân đau, lão nhìn xuống chân mình, thấy có một vệt máu chảy, chắc là bị xây xát do hòn đá nhọn lúc bị kéo lê trên đường.
Xe đổ người xuống ở góc công viên Tao Đàn, bên phía đường Huyền Trân Công chúa. Lão nhận ra ngay vì có nhiều lần lão đến đây bán vé số nhân mấy trận đá banh. Người bị bắt khá đông, ngồi dài dài trước sân. Kẻ đứng, người nằm lộn xộn. Lão bị lùa xuống nhưng trong đầu chỉ có một câu hỏi cứ nhấp nhô trong đầu lão: Sao lão lại bị bắt. Lão có làm gì đâu? Hay người ra nghi lão ăn cắp cái điện thoại? Lão lượm được mà. Lão chờ người để trả lại mà. Lão có ăn cắp đâu? Mà dân ăn cắp đâu mà chở về đây nhiều thế? Toàn người ăn cắp à? Đang miên man thì lão bị dẫn vào phòng. Một anh thanh niên đè ngửa lão ra, lục soát khắp người. Lôi từ túi lão ra mấy đồng bạc lẻ nhàu nát, cái điện thoại màu hồng tươi tắn và cuối cùng từ cái túi xách mang theo xấp vé số, cuốn sổ dò số và hai cái dùi trống be bé. Tất cả được đặt lên bàn, trước mặt lão. Căn phòng ngoài lão ra còn có bốn người nữa. Một anh mặc sắc phục công công an. Hai anh thanh niên đội nón lưỡi trai đen, mặc đồ thường và một cậu mặc đồ dân quân tự vệ. Anh thanh niên đội nón cầm ngay cái điện thoại. Mở nắp, hất hàm hỏi: Pass là gì? Lão nhìn, không hiểu y nói gì. Hăn lại nhắc: Pass là gì?. Lão hỏi lại: Pass là chi? Tên này quắc mắt, sấn tới, mặt kề mặt lão: Đóng kịch hả bố già. Mật mã cái điện thoại. Hiểu chưa? Lão lại ngơ ngác: Tui có biết mật mã chi mô. Tay kia gằn giọng: không có thì giờ để giỡn với bố già nhé. May ông lớn tuổi đấy, nếu còn trẻ là đã ăn tát rồi. Tôi hỏi lại, mật mã là gì? Lão lớn giọng: Tui có biết chi mô, cái ni tui lượm được mà. Vừa nói xong, lão ân hận. Lão nghĩ: Nói thế thì hắn tịch thu luôn cái máy thì người mất làm sao lấy lại được. Đã vô tay tụi này, dễ gì lấy ra. Lão ậm ừ: Của người ta nhờ tui giữ, tui không biết chi cả. Vừa dứt câu lão đã thấy má phải bỏng rát vì một cú tát. Thằng này khoẻ, tát một cái muốn vẹo cái quai hàm. Lão vừa xoa má vừa trệu trạo: Sao đánh tui? Tui làm chi đánh tui? Lão lại nhận thêm một cú rờ ve bên trái, cũng bỏng rát. Lão nghĩ, Chúa bảo khi bị đánh má bên phải, chìa má bên trái cho đánh luôn. Lão chưa kịp làm theo lời Chúa đã bị đánh thêm má trái. Lão ức! Bị đánh mà không biết lý do. Lão đứng dậy, hắn đánh mình thì phải đánh lại chứ. Giặc bắn mình một phát mình phải trả lại một phát, không nhân nhượng, nhân nhượng là đầu hàng. Lão là lính, không thể hèn. Nhưng lão vừa nhớm đít, anh dân quân đã ghì lão xuống, khóa hai tay lão lại sau lưng ghế. Lão giận rồi, mặt lão đỏ lên, hai mắt mở to, nhưng lão bất lực. Lão khai lão bán vé số, xấp vé số là chứng minh. Mấy con mắt nhìn lão, có kẻ tin, có người có vẻ nghi ngờ.
Một cô gái bị dìu vô, cô này chắc bị đánh trước đó rồi, mặt nhầu nhĩ, cũng lục soát, cũng hỏi pass, cô gái cũng không nói pass, cũng bị đánh, máu chảy nơi khoé miệng. Rồi tiếp tục nhiều người vào bị hỏi cung. Trẻ có, trai có, gái có, hiếm hoi có vài người già cỡ lão. Lão nghe nói nhiều, nhắc nhiều hai chữ tập trung với biểu tình. Lão chẳng hiểu gì. Lão đâu có đi biểu tình. Lão chỉ đi bán vé số.
Tay thanh niên lấy điện thoại của lão, mang ra ngoài. Lão bị đưa xuống ngồi dưới sàn, bên cạnh mấy cậu thanh niên dang lim dim ngủ sau trận đòn tra khảo. Lão cũng thấy buồn ngủ, lại đói, sáng lão không ăn sáng, giờ cái bụng cồn cào. Lại khát nước. Giờ mà ở ngoài phố lão sẽ ghé ven đường, mấy chỗ uống trà đá từ thiện, làm mấy ly cho đã. Lão lim dim, gật gù trong tiếng tra khảo và huỳnh huỵch của cú đá cú đánh vang lên trong phòng. Có người đến hỏi lão về nơi cư trú với thân nhân để gọi lãnh về. Lão bảo lão không có thâ nhân và nơi lão ở là xóm Sầu ven đô. Tay hỏi lão nhìn lão ngạc nhiên rồi chửi: Mẹ lão già, nói đéo ai hiểu gì cả. Không người lãnh thì tiếp tục ngồi đấy. Người ta mang đến bao bánh mì, lão định lấy một ổ, cho qua cơn đói. Nhưng nhìn quanh, chẳng ai lấy, đành thôi.
Có người lục tục ra xe chở đi đâu đó, nhiều người mặt có máu chảy. Lão lại lim dim. Chiếc điện thoại màu hồng lão lượm được lại reo trên bàn. Tay mặc sắc phục công an chộp lấy, hai bên nói qua lại chi đó. Lão nghe lỏm bỏm tiếng cô gái bảo là cũng bị bắt, đã được thả, đề nghị xin lại cái điện thoại. Lão vừa nghe vừa đoán thế qua cách nói của anh chàng công an. Lão nghĩ là mình đoán đúng. Kiểu này chắc cái điện thoại này tiêu rồi. Dễ gì trả lại. Lão nghĩ trong vụ này có lỗi của lão. Lão sẽ ráng xin lại thử xem rồi về xóm Sầu ven đô nhờ mấy thằng nhóc liên lạc với người mất để trả lại. Tụi đó rành sáu câu.
Đến chiều thì lão được thả ra, nhận lại nhúm bạc lẻ và cái túi nhỏ đựng vé, cặp dùi trống và cuốn sổ. Cái điện thoại lão nói mãi mà họ không trả, họ bảo sẽ liên lạc với chủ nhân để trả lại. Đành chịu vậy.
Lão thất thểu ra về, đói và khát. Chuyến xe bus đưa lão được một đoạn ngắn. Đầu lão chỉ vỏn vẹn một câu thắc mắc: Sao lão lại bị bắt? Lão bị tội gì? Đến đầu ngõ nhơm nhớp bùn của xóm Sầu ven đô, lão chạy như ai đuổi vào căn lều rách nát. Truyền hình đang chuẩn bị phát thời sự. Gần bảy giờ. Lão vội vã gắn chiếc trống con con có dây đeo trước bụng. Bài bản bắt đầu bẳng những tiếng rời rạc nhưng rất đanh, sau đó là những tiếng dồn dập. Tay đánh, miệng lão phát ra âm thanh của tiếng súng tạch tạch bùm..tạch tạch bùm. Rồi lão hét: Tiến lên! Tiến kên các đồng chí. Rồi lại bắn. Rồi lại hô: Các đồng chí xung phong, xung phong... Đúng mười lăm phút không sai. Cuối cùng chấm dứt là báo cáo: Đồng chí Huy đã hi sinh, Đồng chí Thân hi sinh, đồng chí Toàn đã hi sinh và lão ngã vật ra, nằm im một lát. Trò diễn chẳng còn ai xem. Lão độc diễn như một nhiệm vụ. Ti vi đang chiếu các cấp lãnh đạo đi thăm các thương binh liệt sĩ, mặt ai cũng cười, còn những người được thăm hình như lại chẳng vui.
Lão trở vào lều, cất chiếc trống trên đống đồ phế liệu. Lão ngồi thừ xuống sàn đất nhớp nháp và tiếp tục tự hỏi: Sao lão lại bị bắt? Lão bị tội gì?. Lão chợt nhớ xấp vé số. Lão lục trong túi, không có. Chỉ có cuốn sổ dò số. Lão lục lại lần nữa. Cũng không còn. Ai đó đã lấy xấp vé số của lão rồi. Không biết có số nào trúng không? Nếu có số trúng sẽ có người giàu thêm và lão thì nghèo đi vì trắng tay. Xem như mất vốn. Ngày mai lão lại ra chợ, bốc vác, làm những việc người ra nhờ. Bất giác lão đưa tay rờ trên má, dấu tay vẫn cồm cộm và bỏng rát.
Đêm đó lão không ngủ, người ta nghe lão ngồi khóc tu tu.
Sài Gòn 20.7.2018
DODUYNGOC



Tiếng xe cấp cứu giục giã giữa phố kẹt đường
Mây xám xịt chờ mưa
Người cảnh sát giao thông đứng nhìn
Đèn xanh không bật
Người đông nghìn nghịt
Bóp bóng, bóp bóng
Rú còi, rú còi
Xe nhúc nhích, nhúc nhích
Tim đập thình thịch, thình thịch
Lá cờ bên kia đường nhà nước bỏ quên
Héo rũ như lá chuối khô
Màu của tàn phai
Lão già cụt chân ngồi vệ đường thổi sáo
Bài "Bác đang cùng chúng cháu hành quân"
Những bao tăm lăn lóc chẳng ai nhìn
Tiếng sáo chẳng ai nghe
Tiếng sáo trộn với tiếng bô xe
Tò te, tò te
Bình bịch, bình bịch
Cô bé gục trên vai mẹ
Chiếc ba lô trên lưng nặng trĩu
Mắt cô bé nặng trĩu
Miệng nhai miếng bánh và mắt ngủ
Một ngày với sách vở còn thêm trận chót
Ở nhà cô giáo tối về
Còi xe cấp cứu vẫn ò e
Ò e, ò e
Quán bên đường phát bài Cát bụi
Giọng Khánh Ly não nề
"Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi"
Con chim hoảng hốt
Chưa kịp đậu xuống đã vội bay
Lúc nhúc, lúc nhúc
Ôi toàn là người
Ôi toàn là bụi
Đầy bụi, bụi đầy
Trần gian quá chật
Bụi bay.
Bà bán vé số nhìn đồng hồ
Còn chín tờ nữa mà giờ đang hết
Ngước mắt nhìn người đi
Ai cũng lơ
Ai cũng bơ phờ
Tiếng thời gian đập trong ngực bà
Tích tắc, tích tắc
Bán hết mấy tờ này bà mới dám ãn cơm
Tích tắc, tích tắc
Nhịp tim là nhịp đồng hồ
Toán công nhân đốn cây
Tiếng cưa máy rú
Cây gãy
Lá rụng, lá rụng
Thu chớm đến lá chưa kịp vàng
Đã rụng
Người chen như lá
Chen nhau, lách nhau, qua mặt nhau
Bóp còi inh ỏi
Tin, tin, tin
Ai cũng vội
Ghế đẩu vỉa hè
Một người chẳng chờ ai
Chẳng còn chi để đợi
Một người không vội
Nhìn chiều đang đi
Nhưng buổi chiều không yên tĩnh
4.8.2018
DODUYNGOC


Ông bạn tui, nhân vật trong bài này giờ đã định cư ở Mỹ vừa điện thoại tám chuyện với tui. Chợt nhớ cách đây 4 năm, anh bạn hom hem vô Sài Gòn chữa bệnh. Từ đó có bài này. Hôm nay đăng lại để nhớ một kỷ niệm vui cùng bạn.

HO
Hôm trước ngồi với ông bạn từ ngoài Trung vô, hơn chục năm mới gặp. Thấy ổng hom hem, bèo nhèo quá, dù gia cảnh cũng khá giả lắm, cùng tuổi tui mà lọm khọm, nhăn nheo. Trời Sài Gòn nóng bỏ mẹ mà ổng chơi hai ba lớp áo, luôn cái áo khoác ngoài thêm cái khăn quàng cổ. Nhìn oải thiệt tình. Lâu nay cứ nghĩ mình già, đã tới tuổi cổ lai hy ai dè gặp ổng thấy mình còn trẻ chán. Ổng than ổng bệnh, đủ thứ bệnh, ai bệnh chi ổng bệnh nấy. Đi vào Sài Gòn khám, vẫn chưa tìm ra bệnh, ngoài bệnh huyết áp cao thì đã biết lâu nay. Ổng ho sù sụ như người bệnh lao nặng, có lúc ho tím cả người, mấy ngón tay quắp lại, mắt trợn lên kinh lắm. Hỏi ho bao lâu rồi, trả lời mới mấy hôm nay, từ khi vô khám bệnh, có lẽ không hạp với khí hậu trong này, theo ông thì tui bị bệnh gì? Hắn ngước mắt chờ tui trả lời. Ca này khó à nghe. Ổng đang lo, phán tầm bậy dễ có hậu quả nghiêm trọng lắm!
Lâu nay, bạn bè người quen có bệnh hay hỏi tui, vì tui cũng biết chút chút. Ba tui làm ngành y nên từ nhỏ tui đã quen với thuốc men, lại thêm có mấy năm học y khoa bỏ dở nửa chừng nên cũng có chút kiến thức. Nhưng nói nghe chơi, trấn an người có bệnh cho họ yên tâm thôi, thường tui khuyên nên đi xét nghiệm, siêu âm, đi khám bác sĩ là chính. Giờ nghe anh bạn hỏi, tui cũng chẳng biết nói sao vì thấy ông bạn có vẻ sợ bệnh, sợ chết quá, cũng khó trả lời. Tui bảo ông nên đi chụp phổi, ho kiểu này để lâu không tốt đâu. Tập an nhiên thì dễ sống hơn, lo lắng nhiều lại sinh bệnh. Cứ nghĩ bệnh thì đẻ ra bệnh, phớt lờ nó đi, kêu đừng dạ.
Chia tay bạn mà thấy xót xa, tội cho tuổi già, thương bạn mà cũng lại thương mình. Mới tuổi thanh niên khoẻ mạnh, lực lưỡng, yêu đời phơi phới, vui tươi đấy, ngoảnh qua ngoảnh lại đã thấy tuổi già ập đến, chân yếu, mắt mờ, bệnh hoạn tùm lum. Cứ thấy bạn nào bệnh, nghe tin có bạn nào mất, lại lo. Chợt nhớ cách đây mười mấy năm, cũng có lần tui cũng bị ho dữ dội như thế.
Hồi đấy, tui bị cao huyết áp, lo sợ lắm, đi đủ bác sĩ với bệnh viện. Biết đó là kẻ sát nhân thầm lặng, nên cứ đo thấy số cao là gọi cấp cứu, gọi miết đến độ bộ phận cấp cứu quen mặt và địa chỉ luôn. Có lần đi khám Bác sĩ Đặng Vạn Phước, nghe nói học ở Đức về, là con của Bộ trưởng Bộ Y tế thời VNDCCH, phòng mạch ở Lê Thánh Tôn. BS khám, cho toa. Về uống thuốc mấy hôm cũng ho y chang. Cứ tưởng mình bị phổi. Lúc đó đánh banh hàng ngày ở sân Phan Đình Phùng, có quen với BS Nhi, ông này chuyên trị phổi, là thành viên Hiẹp hội Lao phổi gì đó của Liên Hiệp quốc. Ổng bảo đến phòng mạch của ổng ở đường Bùi Thị Xuân. Nghe tim, nghe phổi xong ổng cho một toa thuốc dài dằng dặc. Nào là thuốc hen, thuốc suyễn, thuốc phổi, thuốc ho. Uống suốt tuần vẫn ôm ngực ho, người lả đi vì ho. Cứ sợ bị lao hoặc ung thư phổi, chẳng làm ăn chi được. Ra sân đánh trái banh qua đưa trái banh lại xong đứng ho làm ai cũng ngại. Cho đến một bữa đi ngang đường Pasteur, thời đó có bệnh viện Hồng Đức mới mở thì tình cờ gặp một tay đàn em làm bác sĩ phụ trách siêu âm ở đó. Thời ấy mới có máy siêu âm, hiếm lắm. Thấy tui ho quá, hắn bèn dẫn tui vô giới thiệu một bác sĩ nhờ khám dùm. Cũng vì thấy hắn nhiệt thành quá, cũng miễn cưỡng mà vào, cũng chẳng hy vọng gì. Nhất là khi thấy bà bác sĩ già, cung cách, khuôn mặt, cách ăn mặc theo kiểu cán bộ ngoài Bắc thì tui lại càng thiếu tin tưởng. Bà bác sĩ nghe tim, nghe phổi xong thì hỏi tui, gần đây có uống thuốc gì mới không. Tui đọc mấy thứ thuốc BS Phước cho, bà bảo về thay thuốc Concor đi, thuốc đấy làm cho ho đấy. Nghe thế thôi, nhưng tui chưa tin. Nhưng về, tui cũng nghỉ thuốc đấy, uống thuốc huyết áp của toa trước, không có Concor. Ai ngờ nghỉ thuốc hôm trước, hôm sau hết ho ngay, người bình thường như cũ. Lúc ấy, tui mới nể bà bác sĩ già ở bệnh viện Hồng Đức, tự nhủ đừng bao giờ có suy nghĩ không tốt về bất cứ người nào khi chưa biết rõ về họ. Thế mà khi bị ho, tui hỏi ông BS Phước, ổng bảo làm gì có phản ứng như thế. Từ đó, tui bỏ phòng mạch ổng luôn, không bao giờ trở lại. Tui ho là do phản ứng phụ của thuốc, chỉ thế thôi mà làm tui khổ cả hơn chục ngày, lo lắng và tốn kém.
Nhớ chuyện cũ, tui điện ngay cho bạn, hỏi trong toa thuốc huyết áp có Concor không? Nếu có thì dừng ngay thuốc đấy, đến bác sĩ đề nghị đổi thuốc khác vì ho. Bạn tui xác nhận trong toa có thuốc đó. Hai hôm sau, bạn kêu tui đi cà phê, mừng lắm, cứ bắt tay tui hoài, phục tui lắm, cứ mãi khen tui giỏi hê..hê, lại cứ thắc mắc sao tui biết trong toa có thuốc đó. Tui chỉ cười mím chi, không giải thích hê..hê. Cứ im lặng thế cho oai, ngu chi nói he...he.
4.8.2018
DODUYNGOC


Ở giữa đám đông hay đám hội hè
Người ta cứ bảo tôi là nhà này nhà nọ
Tôi chỉ muốn làm một nhà
Đó là gã nhà quê
Tôi không ở được chung cư
Vì tù túng chẳng khác nhà tù
Mảnh trời như chiếc khăn tay
Gió không còn lối thoát
Tôi không mặc được đồ hàng hiệu lắm tiền
Tôi thích quần jean của kẻ chăn bò
Áo ca rô mua giá rẻ ở quán ven đường
Tôi sợ veston cà vạt làm khó thở
Tay cài manchette cứng đờ
Đôi giày da làm tụ máu chân
Xin đừng trao cho tôi áo mão
Nhìn chẳng ra làm sao
Tôi thích nằm ngửa bên ruộng lúa bờ ao
Nhìn trăng sao
Và thấy mình tự do với trời đất
Tôi không thích nhìn những ngôi nhà chất ngất
Những căn nhà không có đất
Không khí chẳng có mùi bùn lầy rơm rạ
Chỉ có mùi rất lạ của khói xăng
Tôi muốn ngửi mùi hăng hăng
Của chiếc lá ngắt bên hàng rào vò nát
Mùi của cỏ cây lên tiếng hát
Ngây ngất giữa đồng xanh bát ngát
Tôi muốn nhìn hoa nở
Và trăng không bị nhốt bởi lầu cao
Muốn nghe lũ châu chấu cào cào
Nói chuyện cùng đám dế
Cắm cần câu chờ cá về rất trễ
Dưới cầu tre
Đám lục bình nụ tím vừa mới mở
Tôi khao khát mỗi đêm nghe đất thở
Cây rùng mình đón gió dưới sông lên
Chiều chạng vạng nghe trâu bò nghé ngọ
Cứ tưởng mình đang thuở khai hoang
Tôi thèm nghe con cá quẫy
Bìm bịp kêu chiều nước lớn bên sông
Tôi thích đi lông bông
Gởi nụ cười với làng trên xóm dưới
Tôi sợ những ánh mắt lạnh lùng phố thị
Những xiêm y rực rỡ với đèn màu
Tôi sợ nụ cười giả dối suốt đêm thâu
Của cô gái mệnh danh là kiều nữ
Tôi sợ đám người suốt ngày khoe chữ
Mê danh xưng và vỗ ngực thiên tài
Những ngôi đền phủ kín bụi trần ai
Chen chúc sống không còn không khí thở
Tôi thèm chút mắm ruốc và trái ớt xanh
Miếng cá khô ngọt bùi đầu lưỡi
Con cá lòng tong
Mớ rau thơm ngắt ngoài bờ dậu
Ăn vào khoái khẩu
Tôi ngại nhà hàng lung linh
Có người hầu và nhạc xập xình
Ăn với khăn quàng cổ
Chung quanh toàn giọng nổ
Tôi thiết tha nghe đất trở mình
Mạn thuyền sóng vỗ
Nghe người đàn bà hàng xóm ru con
Những bài ca dao mai mốt sẽ không còn
Tôi thích nhìn những chiếc khăn rằn
Cái nón lá và áo bà ba
Những cụ bà hom hem móm mém nhai trầu
Quãng thời gian rất dài bà để lại ngoài kia
Gọi mọi người bằng thằng Ba thằng Bảy
Tôi muốn làm người nhà quê
Để mỗi ngày được nhìn bóng núi
Thấy con chim bay trên trời
Và cá lội bờ ao
Và đọt tre xanh thẫm ở trên cao
Tôi muốn làm gã nhà quê
Lúc đất nước hiểm nguy ấn ngay súng vào tay và bắn
Lúc yên bình người ta quên lãng
Có thể bị đạp xuống bùn đen
Người nhà quê chẳng cần giấy khen
Người ta cần tình nghĩa
Những người tốt đã nằm ngoài nghĩa địa
Tôi muốn là gã nhà quê
Nhưng mọi người không chịu
Họ bảo tôi không biết uống rượu
Mà cũng chẳng thích bia
Cũng chẳng chịu nhậu nhẹt lia chia
Ca vọng cổ sáu câu xuống xề còn dở ẹt
Thì làm sao mà nhà quê được
Thì thôi đành làm gã nhà quê nửa mùa
Mỗi ngày rú xe lăng quăng giữa những đường cua
Lẩm nhẩm nhạc tình
Để thèm quê
Hê..hê
2.8.2018
DODUYNGOC



Tôi tìm tôi ở đâu trong đêm thâu vật vã
Giữa khe truông đồi núi chập chùng
Giữa suối sâu và biển cả
Tôi đang tìm tôi
Tôi lạc giữa thế gian lắm điều tàn nhẫn
Cũng chẳng thiếu chuyện nhiệm mầu
Tôi đi trong tiếng kinh cầu
Lẫn với tiếng nguyền rủa và nhục mạ
Tôi tìm tôi ở đâu khi tấm bản đồ tơi tả
Lịch sử nát bươm đầy tiếng kêu gào
Thế giới chung quanh từng gương mặt lạ
Trước mặt sau lưng thú rừng hoang dã
Tôi đi tìm tôi giữa đống hoang tàn
Những điều giả trá
Toàn đeo mặt nạ
Tôi chẳng thấy tôi
Tôi ở trong tay của ai
Tôi như con rối lắm màu
Ngụp lặn trong lo âu
Hãi hùng trong đe doạ
Tôi đi tìm tôi trong căn nhà phóng hoả
Cột kèo đã xiêu vẹo chờ ngã
Trong khu vườn không quả
Giữa làng xóm không người
Những con đường đầy dẫy lũ đười ươi
Tôi đi tìm tôi qua bao bến lạ
Biển vắng bóng thuyền và phố lắm xe qua
Những hàng cây cụt đầu
Những pho tượng lặng câm
Tôi đi tìm tôi chiếc bóng âm thầm
In trên vỉa hè một thân người gãy
Tôi đi tìm tôi và chẳng thấy
Tôi mất tiêu đâu rồi trong hoang mạc với tiếng hô
Một hai..một hai
Tất cả tiến lên
Tất cả bước lùi
Tất cả dừng lại
Tất cả ngồi xuống
Và sủa
Những con người máy giống hệt nhau
Tôi đánh mất tôi
Tôi đi tìm tôi và tôi soi gương
Tôi có mặt nạ và đứng bên đường
Tôi như hạt bụi trong giông gió
Cuốn vào guồng máy và quay
Tôi bay.
2.8.2018
DODUYNGOC


Những âm thanh
xô tôi
chạy cùng trời cuối đất
Một mảng xám
của đời
đụng trên trán chảy máu
thành vầng trăng khuyết
Làng xóm giạt qua hai bên
nước tràn các ngả đường
Bóng đèn đường vàng nghệch
thơ ngây
Nghe máu chảy của mùa kinh cuối cùng
thân phận đàn bà
Nốt báo hiệu không còn giới tính
Cuối con đường là ngã ba
Chẳng có tiếng súng
Tôi đi tìm gì
giữa thanh âm im lìm
của chợ quê không còn người bán
Tiếng đàn rơi lạc lõng
đêm có tiếng nấc
trên sợi tóc dài quấn quanh cổ
Cô gái trần truồng
kéo đám mây giữa khung xám xịt
Mây rớt giữa đường bay
Sóng rì rào trào ra khoé miệng
nước chảy
đoàn quân đi
bước chân dồn
Không một tiếng khóc
Lịch sử bỏ lại ở gậm giường.
Mưa thúi hoắc
Tôi ói tràn cả bờ tường đầy rong rêu
Thân ngã gục
Như một giấc mơ định kỳ
đầy kinh hãi
Tôi vẫn thở.
Ác mộng màu xanh tím
dẫn về nơi có tiếng chim kêu
thảng thốt
Chiều muộn màng
Bên cửa sổ còn lại một thỏi son
Màu đỏ rực rỡ của một ký ức không muốn nhớ
Tan hoang cây cầu bắt qua một nhịp thở
Những nhịp gãy
Hơi thở mang mùi trái chín héo
Chua mùi xú uế
Vết cọ quệt dài trên bố
bỏ lửng lơ
Tôi ngẩng đầu lên
thấy vì sao bé xíu
Một mình tôi
29.5.2018
DODUYNGOC


Linh bắt gặp nó rất tình cờ khi một buổi sáng rảnh rỗi ghé chơi gian hàng của người bạn bán chim cảnh. Nó như một miếng thịt bèo nhèo, tai tái. Hai khoé mỏ còn vàng ươm, hai mắt chưa mở, chỉ là hai đốm đen. Cái cổ ngẳng, quẹo một bên, thỉnh thoảng lại cố vươn lên, ngáp ngáp như người khó thở. Hai cái cánh bé xíu, cặp chân cũng nhỏ tí, co quắp lâu lâu lại giật giật như người mắc bệnh kinh phong. Cả thân hình trơ trụi, lông chưa lún phún. Nó nằm trong thùng giấy, trên mấy cọng rơm khoanh vội, rải thêm mấy giấy vụn. Lại gần nghe mùi thum thủm của phân. Có cảm tưởng như nó đang đói, cái mỏ cứ mở ra, nhưng chắc không thấy gì, khép lại sau cái giẫy. Bỗng dưng Linh thấy nó tội quá, anh quay qua hỏi tay chủ tiệm:
- Con chim gì ghê thế?
- À! Hoạ mi con. Mới vào từ Lạng Sơn một ổ mấy con, người ta lựa hết còn mình nó.
- Trông nó èo uột quá
- Ừ! Chắc không sống nổi đêm nay.
Linh chợt nghĩ đến một sinh linh đang đi đến một cái chết được báo trước. Chắc chắn nó sẽ chẳng thấy khổ đau thướng tiếc cuộc đời như con người, vì tất thảy sinh vật, chỉ có con người mới ý thức được sinh ra để rồi chết. Nhưng nó sẽ bị quăng vào chuồng của lũ chim ăn thịt, nó sẽ bị xé xác. Anh rùng mình khi nghĩ cảnh đó. Nó như đứa bé sơ sinh. Vốn Linh là người nhạy cảm, anh yêu cuộc sống và yêu những sinh vật có mặt trong đời sống. Giữa cuộc sống nháo nhào hôm nay, người như anh bị mọi người nhìn với cặp mắt kỳ dị, bởi anh nghĩ mọi sinh vật đều có quyền có được một cuộc sống, mọi sinh vật đều có một tâm hồn, đều khát khao sống. Không biết từ đâu khiến anh buột miệng:
- Nhiêu vậy?
- Gì? Con này hả, gần chết rổi, mua chi ông?
- Thì kệ tui, tui muốn lấy nó.
- Mua bán con mẹ gì, ông thích thì mang về, nhưng nó sắp đai rồi, nuôi không được đâu. Ông thích thì tui cho ông.
- Không có chuyện cho, mua bán đàng hoàng. Ông biết tánh tui mà, tui không thích lấy không của ai bao giờ
- Thôi được. Chiều ông. Năm chục. Nhưng tui nhắc lại là không sống nổi đâu, nó yếu quá rồi.
- Kệ!
Thế là Linh bỏ túi giấy mang về. Vẫn biết có thể nó không sống nổi, nhưng anh sẽ chôn nó dưới gốc cây nguyệt quế, còn hơn là để cho lũ diều hâu kia xé xác nó ra từng mảnh. Nó yếu quá rồi, nhưng Linh nghĩ với số vốn kiến thức dở dang mấy năm học trường Nông Lám Súc, biết đáu sẽ cứu được nó. Linh đang nuôi mấy con vẹt, con cockatoo mào vàng la hét suốt ngày, con Rainbow sặc sỡ và con xám đuôi đỏ Phi châu thông minh. Ái dà! Lại bận rộn rồi đây. Anh hoạ mi này phải theo dõi hăm bốn trên hăm bốn mới được. Nó dặt dẹo quá! Đang có sẵn mấy hộp sữa bột cho vẹt con, Linh đem ra khuấy thử cho nó ăn. Nó há mỏ, nhem nhép, sữa tràn ra đầy khoé, thêm chút nữa, nó nuốt, vô được miệng chút xíu, nuốt được là hi vọng sống. Tin vậy đi. Anh lấy cái rổ nhựa nhỏ, lót vải vụn, bỏ nó vào. Cầm trên tay thấy nó chút nị, nhẹ như không. Khoảng hơn giờ sau, thấy có chút phân, hi vọng sống tăng thêm một chút. Anh cockatoo đứng trên giàn ngó xuống, chắc ngạc nhiên nên cứ ngóng cổ hét làm con Rainbow nhảy cà tưng cà tưng.
Suốt tuần lễ Linh không làm được gì, cứ rảnh lúc nào là ngổi bên tồ nhựa, lúc thì bôm thức ăn, khi thì bôm chút nước, lâu lâu lại giọt cho chút thuốc bổ. Và nó sống được. Nó khoẻ ra từng ngày, cái cần cổ có thêm chút thịt, không còn quặt quẹo nữa. Sau hơn tuần lễ, hai cánh và đuôi đã thấy ló ra mấy cọng lông lún phún. Rồi đến lông đầu. Qua tuần thứ ba thì nó đứng được trên hai chân hai chân như cọng nhang, run rẩy bước từng bước nhỏ rồi bẹp xuống. Linh chắc chắn là nó đã được tái sinh. Cái mỏ đã bớt một chút khoé vàng, đã biết đòi ăn và lúc được hơn tháng thì hám ăn bất kể. Nó bắt đầu phổng phao, nhưng cái phổng phao của anh còi chậm lớn. Bộ lông bắt đầu mọc đầy, con mắt đã lộ dấu vết của giống nòi.
Linh bắt đầu chán mấy con vẹt, lần lượt cho chúng về chủ mới, chỉ còn lại chú hoạ mi còi cọt chậm lớn trong rổ nhựa.
Sau một năm, nó trổ hết lông đầu, lông cánh, lông đuôi, bộ lông màu vàng khoác lên thân mình bé bé. Nó vẫn là con chim còi cọc, nhưng rất khôn ngoan. Nó đã biết bay vòng vòng bằng đôi cánh nhỏ trong chiếc lồng tre. Mi mắt cũng bắt đầu lộ ra, xanh xanh khéo như một nét cọ vẽ. Mỗi lần thấy bóng Linh, nó kêu khèn khẹt, hai cánh đập liên hồi như quạt gió. Linh mở cửa lồng, nó bay ra đậu trên tay Linh, chiếc mỏ quẹt qua lại trên tay anh đòi ăn, anh cho
nó con cào cào non, nó nhận lấy bằng cú đớp rất lẹ. Anh mở băng cho nó nghe tiếng hót hàng ngày để hi vọng nó sẽ học giọng. Nó đã bắt đầu trổ mã của con chim mùa đầu, dáng cũng cao cầu, mi dài, mỏ dày, đầu xà, mắt trường mi xanh biếc chỉ tội nhỏ con, nhiều khi còn nhỏ hơn con chích choè than, kiểu này chỉ nuôi nghe hót chơi.
Một buổi trưa, đang nằm thiu thiu, nghe ngoài hiên có tiếng chim đi giọng gió. Thật ra ở giống chim, giọng gió của chúng nhiều khi nghe đã hơn giọng hót, bởi nó dìu dặt, đều đặn, không cao giọng chát chúa như giọng hót. Thế là anh chàng đã chuẩn bị trưởng thành, đã bắt đầu đi giọng. Và trưa trưa, thỉnh thoảng đã có mấy giọng hót ngắn. Mỗi lần bắt ra chơi, nó đã mở miệng nhay nháy kiểu của anh chàng trẻ tuổi muốn khoe giọng vỡ của mình. Từ lúc đấy, Linh thường mang nó vào mấy cội chim chơi, ai thấy nó cũng buồn cười vì trông nó dị dạng quá đỗi, lốt chim hoạ mi trong xác con chích choè.
Nhưng khi thay xong mùa lông thứ nhất, rồi đến hết mùa lông thứ hai thì mọi người quên mất thân hình bé nhỏ của nó mà cứ trầm trồ giọng hót. Linh cứ sợ nó hót giọng chim con, không ngờ oà nó hót giọng đặc rừng, lanh lảnh, vút cao, bộ ngực bé của nó sao lại chứa đựng hơi dài đến thế. Nó hót liên tục, lẹ miệng vô cùng, chỉ cần nghe tiếng chim hay chỉ nhảy lên tay là nó ngóng cổ hót, hót say sưa và không bao giờ có tiếng đề pa cạp cạp như những con chim khác. Khi hót đuôi nó xoè ra như cánh quạt, nhịp theo giọng hót, có khi lại lắc lư người, trông rất điệu. Mỗi lần đi chuyện cũng vậy, giọng nó véo von, trầm bổng, du dương nghe như một khúc nhạc giao hưởng của bầy chim trong rừng sâu. Đặc biệt, ẹt, tuy thân hán hình bé nhỏ ỉ, nhưng nó không oing bao giờ sợ iwj những con chim khác. Nhiều con chim to khoẻ nhưng nghe giọng nạt của kẻ mạnh hơn là xù đầu nhảy loạn trong lồng. Nó không bao giò, cứ nghe giọng nạt là nó nạt lại, giọng khè là nó khè lại, đưng vươn cồ trên cầu mà thảnh thơi hót. Đám chơi chim khoái nó lắm, bởi dễ gì kiếm được con hoạ mi đứng trên vai, trên tay hay trên nóc chuồng hót giọng rừng mà lại hót liên tu từ bắt đầu ra cho đến lúc về. Linh cưng nó lắm, ngày nào cũng có cào cào, thức ăn thì kiểu cách kê lột trộn trứng gà và chút gan heo sấy. Trưa nào cũng được tắm, thức ăn, thuốc men đầy đủ nên lông lúc nào cũng mượt mà. Anh bạn chủ tiệm cũng khiong ngờ nó sống nổi và càng ngạc nhiên khi nghe giọng hót của nó, giọng hót đầy chất hoang dã của núi rừng. Đám chơi chim thích nó, nhiều lần muốn mua, nhưng Linh không bán. Anh bảo:
- Tôi mua con chim này chỉ năm chục ngàn. Tôi mua để cứu sống nó, ai dè được có giọng hay. Tôi sẽ không bao giờ bán nó với bất cứ giá nào.
Linh lại đặt nó trên tay, nó cất cao giọng, anh nói với nó:
- Hoạ mi nhỉ! Ở với anh suốt đời nghe chú em!
*******
Cuối năm đó, bà chị ruột của Linh từ Canada về thăm quê sau ba mươi năm xa nhà. Linh bảo chị không được ở khách sạn, nhà Linh neo người mà phòng trống còn nhiều. Hai đứa con lớn Linh lấy vợ lấy chồng ra riêng cả, chỉ còn đứa út ở nhà. Hôm đầu tiên nói chuyện, Linh cứ ngờ ngợ về bà chị của mình. Ngày xưa, chị làm xướng ngôn viên truyền hình, quen toàn các ông to bà lớn thời ấy, cũng ăn chơi theo kiểu quý tộc. Bây giờ, chị toàn nói chuyện Phật pháp tu hành, nói toàn duyên với kiếp, toàn ngộ với vô thường, nghe phát mệt. Kiểu nói của các đạo hữu lúc nào cũng chắp tay Mô Phật liên hồi mà chẳng hiểu chút gì cái sâu xa của Phật pháp. Chi thấy Linh ngồi đùa với chim, chị bảo:
- Cậu biết nhốt con chim vào lồng là tàn ác không? Con chim thân của nó phải bay ngoài trời, phải tự do tung cánh. Cậu nhốt nó vào lồng, dù là lồng son, vẫn là nhà tù, tước đoạt cái quyền tự do bay nhảy của chim, như thế là cậu có tội
- Em chẳng thấy tội lỗi gì, em cứu sống nó, nó thán thiết với em, nó sống tự do trong khung trời của nó. Khái niệm tự do của nó là chiếc lồng này. Tự do đôi khi không phải là tung cánh trên bầu trời mà là cách cảm nhận tự do tuỳ mỗi hoàn cảnh.
- Cậu lý luận tào lao, làm gì có thứ ự do trong tù đày?
- Mỗi người tự chọn cho mình kiểu tự do theo ý mình. Khi người ta chấp nhận hôn nhân, có phải là người ta đã tự nguyện bỏ một kiểu tự do này để đến một kiểu tự do khác không?
- Thôi không nói lý sự cùn với cậu nữa, theo chị, cậu nên thả chim về với bầu trời của nó đi, chỉ có khoảng không gian rộng lớn ngoài kia mới là nơi chốn đi về của chúng
Linh cười ha hả:
- Nói chuyện với bà chị chẳng đi đến đâu, em với chị vẫn là hai đường thẳng song song.
Gần Tết, Linh phải bay ra Đà Nẵng năm ngày để thanh toán công nợ cho công ty, cũng như mọi lần, anh chuẩn bị cho con hoạ mi rất chu đáo. Anh gài thêm ba cóng nước, đổ đầy hai cóng thức ăn. Anh biết anh sẽ nhớ chim và con chim cũng sẽ buồn. Đừng nghĩ chim không có cảm xúc nhé. Chim cũng biết buồn, biết nhớ, cũng bị stress khi không được chăm sóc thường xuyên, không được chủ vuốt ve, lưu ý.
Công việc xong xuôi, Linh bay về ngay. Đến cửa anh huýt gió như mọi lần, bình thường chim sẽ vẫy cánh, hót một giọng dài trầm bổng như đón anh. Hôm nay im lặng như tờ, vợ anh nhìn anh khang khác. Anh bỏ va li, chạy lên balcon, lồng trống trơn. Anh huýt thẻm mấy đợt, không một vọng âm. Vợ anh cũng vừa lên, nói nhỏ:
- Chị Hai thả chim rồi, chị bảo anh sẽ đồng ý với chi thôi. Hồi nhỏ, chị bảo gì anh cũng nghe.
Linh muốn nổi đoá, muốn hét lên cho đỡ bực mà không hét được. Miệng anh há ra, hai tay anh ôm đầu rồi ngồi phịch xuống ghế. Anh hỏi vợ:
- Chị Hai đi đâu rồi?
- Chị lên chùa từ hồi sáng, chiều tối mới về
Linh ra lại bạcon, nhìn quanh quất, huýt mấy tiếng, cũng chẳng thấy bóng dáng chim.
- Quái, làm sao nó đi xa được, chỉ quanh quẩn đây thôi, hay là ai bắt nó rồi.?
Anh đem cào cào non đặt một hàng trên thành balcon. Anh rải thức ăn cũng một hàng dài. Anh mở rộng cửa lồng, châm thuốc ngồi đợi, hi vọng chim đói sẽ về. Mà chắc nó phải về thôi. Ra khỏi lồng, vào thiên nhiẻn chim làm sao sống được vì đã quen với thức ăn người nuôi, rồi mèo, rồi chuột cống, rồi con người tham lam và gian ác.
Buổi tối chị Hai về, Linh chỉ gượng chào, chị bảo:
- Chị thả chim là chị tạo nghiệp cho cậu đó. Cậu cứ ôm lấy nó, nhốt nó trong nhà tù của chú, nghiệp chú càng lúc càng nặng thêm
Linh chẳng buồn cãi, ngồi hút thuốc lá, nhả khói um.
Đến đêm, giờ chim về tổ, Linh mấy lần ra cũng chẳng thấy gì, đang ngủ, nghe lịch kịch ngoài hiên, anh cũng thức giấc rọi đèn ra xem khắp mà cũng chẳng thấy tăm hơi.
Đã hai hôm rồi, chẳng thấy bóng chim, đi làm về anh cứ ngồi nhìn chiếc lồng mà nhớ chim. Chắc nó đã bay xa rồi. Chắc nó đã gặp đàn đâu đó rồi. Thôi thì cũng cầu mong thế.
Sáng ba mươi, cây nguyệt quế nở bông trắng thơm ngát, Linh định lấy cái xẻng nhỏ xới gốc cây, châm thêm chút phân thì nhìn thấy con chim hoạ mi. Nó đã chết, chắc mấy hôm rồi, kiến bu đầy đã ăn hết khoang ngực. Màng trắng đầy mắt, hai chân co quắp với hân hình teo tóp, cánh rũ và thân đã có mùi. Nó đã chết mấy hôm rồi, nó đói, nó về nhưng cũng không tìm thấy thức ăn quen thuộc và nó gục chết dưới gốc cây nguyệt quế. Ngày xưa khi đem nó về, Linh cũng nghĩ nếu nó chết,anh sẽ chôn nó dưới gốc cây này. Bây giờ sau gần ba năm nuôi nó, nó đã chết vì cái tự do nó không cần thiết. Anh chôn nó và thầm nghĩ: Đôi khi con người cứ nghĩ rằng đang làm việc thiện nhưng thật ra đang làm kẻ ác. Mỗi người, mỗi sinh vật đều có cách sống riêng của nó. Cách sống đó tạo ra từ hoàn cảnh, từ thói quen. Anh bứt người ta ra khỏi thói quen đôi lúc anh trở thành kẻ sát nhân. Bởi vậy, đem những người dân tộc rời rừng để trở về cộng đồng văn minh, chưa chắc đã là việc tốt. Bứng họ ra khỏi đại ngàn lâu nay họ đã sống chính là cắt đứt mạch máu của họ. Họ cũng sẽ chết như con chim hoạ mi này. Chết vì lòng thiện nửa vời.
9.8.2016
DODUYNGOC


Hắn tên là V. Huy, thật ra tên đầy đủ của hắn là Nguyễn Phúc Vĩnh Huy, vốn là con cháu giòng họ vua chúa triều Nguyễn. Bố hắn là giáo sư tiến sĩ, từng chữa bệnh cho Cụ Hồ. Ông nội hắn là Thượng thư bộ Lại trong triều vua gì đó của nhà Nguyễn. Mẹ hắn cũng là giáo sư nhưng hình như bên ngành Luật, tốt nghiệp từ bên Tây, nghe lời dụ dỗ của Cụ Hồ về nước tham gia đánh giặc. Lí lịch của hắn quá ư là đẹp, vừa quí tộc vừa cộng sản, không chê vào đâu được. Hắn tốt nghiệp Tiến sĩ ngành ngoại giao ở Liên Xô, cũng nghe nói là bằng đỏ đàng hoàng, và chắc chắn là bằng thật. Thế mà hắn lại xổ toẹt cái lí lịch đó, đái lên cái truyền thống đẹp như mơ đó. Hắn không bao giờ chịu thổ lộ cái tên trong khai sinh cho bất kì ai, và luôn luôn tự xưng tên tôi là V. Huy, cắt đứt mọi liên hệ với cái gia đình danh giá. Cũng chẳng biết tại sao. Và mọi người cũng không rảnh thì giờ để điều tra chuyện đó.
Tôi gặp hắn lần đầu trong quán cà phê. Quen qua quen lại mà thành thân gần tám năm nay. Hắn là một thằng có cá tính. Mà lại là cá tính quái dị. Tôi cũng vốn là một người quái đản – theo mọi người chung quanh bảo thế – nên khi gặp hắn là thành thân ngay, đi đâu cũng có nhau. Ngưu tìm ngưu, mã tìm mã mà.
Hắn có khuôn mặt của John Lennon: ngây thơ mà tinh quái. Cũng nét mặt gầy, mũi thẳng, tóc xoăn để dài đến bờ vai, chỉ khác là tóc màu đen. Hắn cũng đeo kính cận gọng tròn, nặng độ, dày như đít chai. Lúc nào hắn cũng kè kè cái ba lô nặng trĩu chứa tùm lum nào sách, nào khăn, nào đủ thứ như một túi rác. Nhưng hắn bảo hắn chứa cả càn khôn trong đó.
Hắn chỉ có độc một bộ đồ, chiếc áo jean bạc màu, áo jacket màu cứt ngựa có nhiều túi và cũng nhiều fermature. Chiếc quần jean rách ở đầu gối và sờn ở hai mông đít. Đôi giày lính Mỹ cao cổ loang lổ và ám bụi đường. Hắn không bao giờ giặt áo quần, cứ mặc cho đến tả tơi lại đi tìm bộ khác cũng y như thế. Công nhận hắn cũng giỏi săn lùng vì suốt tám năm quen hắn, tôi có cảm tưởng hình như hắn chẳng bao giờ thay kiểu quần áo.
Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác. Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường. Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford , đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được. Nói tóm lại, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.
Không biết chính xác hắn ở đâu. Lúc thì bảo ở quận tư, có khi lại ở quận tám. Tóm lại hắn là thằng giang hồ. Một thằng trí thức nhất trong những thằng trí thức đúng nghĩa của Việt Nam đang là kẻ không nhà. Hắn là thằng ma – cà – bông. Cứ khoảng chín giờ sáng là có mặt hắn ở quán cà phê, kêu li đen và ngồi rít thuốc liên tục. Bất cứ vấn đề gì hắn cũng có thể nói được, và nói rất sâu. Gặp những từ ngữ cần chính danh, hắn có thể lấy giải nghĩa từ nguyên chữ Hán và có khi từ chữ gốc của tiếng La tinh. Hắn có thể nói từ chuyện văn chương kim cổ cho đến những phát minh từ xưa đến nay của loài người. Hắn giảng về Socrate, Platon cho đến các triết gia cận đại. Hắn nói về Mác thì ai cũng ngóng cổ lên mà nghe bởi vì toàn những vần đề mà những ngài tuyên huấn cộng sản không bao giờ biết đến và phân tích nổi. Khi hắn phân tích cách mạng Trung Hoa, cách mạng Việt Nam, rồi tương lai của toàn thế giới thì mọi người há mỏ nghe không ngậm lại được, mặt ai cũng nghệch ra như ngỗng ỉa. Trong mọi cuộc bàn luận, hắn trở thành trung tâm. Khi chưa có mặt hắn ở khu vực này, tôi được mọi người phong cho là bách khoa toàn thư, chuyện gì cũng biết. Nhưng từ khi có hắn, tôi như đèn dầu le lói mà hắn thì sáng như đèn pha. Ngay như chuyện chó mèo, chim cò, rắn rít, thú hoang hắn cũng rành như ông giáo sư Võ Qúy. Chuyện gì hắn cũng biết, mà biết rõ ngọn ngành rành mạch mới siêu chứ. Khi hắn đã nói thì chẳng còn ai có thể cãi lại hắn được. Với cái đầu của hắn, nếu được làm lãnh đạo hắn có thể l à người lãnh đạo giỏi hay ít nhất đất nước sẽ nở mày nở mặt khi hắn tiếp xúc với năm châu bốn bể. Nhưng hắn lại là thằng lang thang, sống bằng những bài dịch tin nước ngoài cho mấy tờ báo lá cải. Trong khi mấy thằng ngu thì chức cao quyền trọng, ghế cao chót vót. Đời là vậy đấy! C’est la vie!!
Theo những tin tức vỉa hè thì hồi mới về nước thì hắn cũng đi làm ở bộ ngoại giao. Là nhân viên của một cục, một vụ gì đấy. Nhưng vì hắn quá giỏi lại quá ngông, không chịu nghe theo những chỉ thị ngu xuẩn của lãnh đạo nên cuối cùng bị đẩy xuống làm anh chạy văn thư. Vì cảm thấy nhục, hắn cũng kiện tụng tùm lum mà chẳng đi đến đâu nên bỏ sở mà làm kẻ lang thang. Tôi nghĩ tánh khí ngang tàng không khuất phục chính là nguyên nhân bi kịch chối từ gia đình của hắn.
Cách đây mấy năm, tôi có người bạn Pháp, một chuyên gia sưu tầm cổ vật Đông phương sang Việt Nam mua được một chậu sứ Trung Hoa rất cổ, hình như là đời đầu Minh. Chậu sứ vẽ cảnh mục đồng chăn trâu men xanh rất đẹp. Nét vẽ uyển chuyển và tinh tế của một nghệ nhân bậc thầy. Ông bạn tôi mấy lần mang về Pháp đều bị chận lại vì hải quan không cho mang cổ vật ra khỏi nước. Chuyện đến tai hắn, hắn bảo sẽ mang đi được với điều kiện bạn tôi mua vé khứ hồi cho hắn kèm theo 1500 Euro cho hắn tiêu mấy ngày ở bên đó. Bạn tôi ok ngay. Và hắn mang đi được thật mà chẳng cần xin xỏ, khai báo gì cả. Dịp đó hắn đi hết mấy nước châu Âu; gần hai tháng sau hắn mới về. Hỏi hắn làm sao, hắn bảo có khó đéo gì đâu, vào đến phi trường tớ đến ngay quầy bán hoa lan của Đà Lạt, mua một giỏ hoa lan có cả chậu, vào ngay phòng vệ sinh, bỏ chậu ra, lấy chậu sứ thay vào. Thế là ung dung xách giò lan bước lên máy bay chẳng thằng nào, con nào hỏi một tiếng. Ai cũng bảo hắn giỏi. Hỏi hắn ở bên đó hai tháng lấy gì mà ăn, hắn bảo hắn làm hướng dẫn viên du lịch. Đến thành phố nào cứ thấy mấy thằng du khách ngơ ngác thì hắn sấn tới làm quen sau đó hướng dẫn người ta đi tham quan. Hỏi hắn chưa bao giờ đi qua đó, biết đếch gì mà hướng dẫn. Hắn gào lên xin lỗi mọi người à, trước khi đi tôi đã học thuộc mấy cuốn sách hướng dẫn du lịch của hơn mười nước Châu Âu rồi. Nghe sợ chưa?
Có lần tôi với hắn đi nghe một tay giáo sư người Mỹ nói chuyện văn chương, trong giờ giải lao, hắn bước đến nói chuyện với tay giáo sư đó. Chẳng biết nó nói những gì mà khi trở lại sân khấu để tiếp tục câu chuyện, tay giáo sư người Mỹ mời hắn lên ngồi chung và giới thiệu hắn với cử tọa bằng những lời rất trân trọng. Lần đó hắn bị công an văn hóa mời lên mấy lần để nói rõ mối quan hệ giữa hắn và tay người Mỹ. Hắn chỉ bảo là hắn không đồng tình một số ý của diển giả và người giáo sư nể hắn. Thế thôi. Bắt nó làm tường trình, nó bảo chẳng có đéo gì mà phải tường với trình, không tin thì cứ đi hỏi tay giáo sư người Mỹ chứ tại sao lại hỏi hắn. Cuối cùng huề, chẳng có chuyện gì mà ầm ĩ.
Hắn chưa bao giờ kể cho tôi nghe về mối quan hệ của hắn với phụ nữ. Thế mà có một lần, có một người đàn bà đẹp đến tìm hắn ở quán cà phê. Tôi ngỡ ngàng khi gặp người phụ nữ này, bởi vì cô ấy quá đẹp. Một sắc đẹp đài các, duyên dáng và rất trí thức. Một khuôn mặt mà thi ca và hội họa suốt đời ca tụng. Bữa đó không có mặt hắn ở quán và tôi tiếp chuyện với người đàn bà đẹp đó. Nàng tên là Bạch Huệ – hoa huệ trắng- cái tên nghe có vẻ hơi cải lương, nhưng cô gái đó nói chuyện rất thông minh và rất có trình độ. Nàng đi tìm hắn đã lâu rồi, và rồi không biết ai đó đã hướng dẫn nàng đến đây. Cô gái kể sơ cho tôi nghe về mối quan hệ giữa hắn và nàng. Yêu nhau từ ngày còn ở bên Nga, nàng là con gái rượu của đại sứ Vệt Nam ở đó. Một mối tình đẹp và môn đăng hộ đối. Hai người về Việt Nam và dự định khi ổn định cuộc sống sẽ làm lễ cưới. Nhưng rồi hắn chửi lãnh đạo, mất việc, bị bố nàng nói nặng nhẹ đụng chạm tự ái sao đó, hắn chửi ông bố vợ tương lai một trận ra trò và bảo các ngài chỉ là một lũ ngu rồi bỏ đi không dấu vết. Nàng đau khổ đi tìm. Vô vọng. Mò kim đáy bể. Cuối cùng nghe theo lời bố lấy chồng. Chồng nàng bây giờ là thứ trưởng một bộ rất quan trọng. Tôi bảo thế thì bây giờ cô còn tìm hắn làm gì, khi đã trở thành hai tầng lớp khác nhau, vị trí xã hội cũng đã không còn như xưa nữa. Cô ấy bảo là tìm để xem hắn sống ra sao, tìm lại hình ảnh mối tình xưa đã không còn nữa và quan trọng nhất là cô ấy vẫn còn yêu hắn.
Khi tôi kể lại cho hắn nghe cuộc gặp gỡ, hắn không nói gì chỉ lẩm bẩm chửi thề, chửi thề là thói quen của hắn, nên tôi không biết hắn đang chửi cái gì. Chửi số phận hay chửi mối tình của hắn. Sau đó hắn lầm lì mấy ngày rồi vắng mặt gần mười mấy hôm, cũng chẳng biết hắn đi đâu…..
Hắn xuất hiện trở lại chốn giang hồ với một cọc tiền khá lớn, hắn bảo hắn vừa lãnh tiền công viết luận án tiến sĩ cho một đồng chí lãnh đạo thành phố. Hắn nói đây là đồng tiền tanh hôi, đồng tiền đã làm lụn bại đất nước, nhưng nếu hắn không nhận làm thì thằng khác cũng làm, xã hội bây giờ thiếu gì thằng trí thức sẵn sàng làm thuê. Hắn gom mấy đứa trẻ bán báo, đánh giày, bán vé số lại. Thuê một chiếc xe mười lăm chỗ ngồi, chở hết mấy đứa trẻ vào thành phố, mua sắm áo quần, đồ chơi, sách vở. Lại còn cho mỗi đứa mấy trăm ngàn. Cả đám trẻ sung sướng. Còn hắn thì hả hê. Chưa bao giờ thấy khuôn mặt của hắn sướng đến như vậy. Mấy bà bán dạo quanh quán cà phê bảo hắn điên, hắn cười sảng khoái, gật gù: điên, điên, đúng là điên.
Tối hôm đó hắn đi vào bar Mưa Rừng, vừa bước vào cửa, mấy gã bảo vệ nhìn bộ dạng của hắn, định ngăn không cho vào. Hắn rút ra mấy tờ bạc giúi vào tay chúng. Hai gã bảo vệ nghiêng mình, mở cửa. Hắn vào bàn, ngoắc một em phục vụ ăn mặc nóng bỏng lại, kêu cho ly sữa tươi. Em cave nhìn hắn định cười khi dễ thì hắn đã rút hai tờ năm trăm nhét vào tay cô gái và bảo, em mua giúp anh ly sữa tươi. Dĩ nhiên là cô gái thực hiện ngay. Ai dại gì từ chối bán ly sữa tươi giá một triệu bạc bao giờ. Hắn uống một hơi hết ly sữa. Lại ngoắc em gái lần nữa và rút thêm một xấp tiền, bảo: vú em nhỏ quá, anh cho em chục triệu đi bơm vú to lên mà làm cho đời thêm tươi. Cô gái há hốc mồm không kịp nói gì thì hắn đã lẳng lặng rời ghế, đi về. Chuyện này được kể lại với nhiều tình tiết ly kỳ hơn, kéo dài mấy tháng trong giới cave, sau này trở thành giai thoại, báo chí cũng có đăng. Mọi người kháo nhau hắn là tỷ phú đóng vai kẻ nghèo vì chán cảnh giàu sang nhung lụa. Bữa đó hắn đi bộ về, vừa đi vừa khóc, chẳng ai hiểu tại sao?
Hắn lại mất hút. Cả tháng rồi tôi không gặp hắn. Cho đến một hôm, lúc trưa, tôi nhận được điện thoại của công an hỏi tôi có phải là người thân của hắn không? Tôi ừ. Đồng chí công an bảo phát hiện hắn đã chết đêm hôm trước, trong tay có mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của tôi. Tôi chạy ngay đến đồn, họ chở tôi đến một căn nhà nhiều phòng ở một chung cư tại quận tư. Hắn nằm đó, khuôn mặt thanh thản và bình yên, trên môi phảng phất nụ cười. Chung quanh giường và tràn ngập căn phòng là những cành huệ trắng. Màu trắng của huệ, màu trắng của chiếc drap giường và bộ đồ trắng lần đầu tiên tôi thấy hắn mặc làm cho căn phòng tinh khiết lạ lùng và cũng tang tóc vô cùng. Trên đầu giường có một bức tranh sơn dầu nhỏ vẽ chân dung một cô gái cũng mặt chiếc váy trắng. Khuôn mặt trong hình rất quen. Đó là chân dung của Bạch Huệ. Thì ra hắn tự tử bằng hoa huệ. Hắn đã chất đầy căn phòng hoa huệ trắng, đóng kín cửa và hắn từ từ chết trong hương thơm ngào ngạt của loài hoa huệ trắng. Trong tờ giấy hắm nắm trong tay lúc ra đi, ngoài tên và số điện thoại của tôi, hắn còn ghi thêm hai dòng nữa. Dòng đầu hắn cho biết là hắn tự kết liễu đời mình, không liên lụy đến ai. Dòng sau hắn ghi là hắn không còn cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt nên nhờ tôi hỏa tang thân xác hắn và rải tro xuống sông để cho hắn được trôi ra biển lớn. Tôi đưa tay chào như chiến sĩ, như một lời chia tay.
Ba hôm sau, tôi nhận được mail của hắn. Nhìn thấy tên hắn là tên người gởi, tôi lạnh dọc sống lưng. Sao hắn chết ba hôm rồi, than xác hắn đã thành tro bụi rải xuống sông rồi. Sao lại còn có thư của hắn gởi.
Hắn viết:
Gởi anh.
Đã đến lúc tôi cảm thấy mình thừa thãi trong cuộc đời này. Tôi không còn lí do để tồn tại nữa. Phải biết đúng lúc để rút lui là người khôn ngoan. Tôi đã làm tròn phận sự và tôi phải ra đi. Biết đâu ở thế giới khác sẽ vui hơn trần gian điên dại này? Xem như không có V.Huy ở cuộc đời này, quá khứ cũng như tương lai.
Anh ở lại hãy sống vui.
V.Huy
Tái bút: Tôi nhờ anh đến địa chỉ…lấy một số vật dụng của tôi và đốt tất cả giúp tôi. Đốt hết và đừng giữ lại gì. Cám ơn anh.
Anh đừng sợ hãi khi nhận được thư này. Tôi gởi thư theo chế độ hẹn. Tôi hẹn ba ngày sau khi tôi ra đi, máy mới gởi thư đi”
Tôi đến địa chỉ hắn đã ghi, người ta giao cho tôi một thùng to, vất vả lắm tôi mới chở được về nhà. Những gì trong đó làm tôi kinh ngạc đến sững sờ.
18 cuốn nhật ký hắn ghi từ lúc bảy tuổi cho đến trước ngày hắn chết một tuần lễ với nhiều suy nghĩ gây sửng sốt.
72 bản dịch những cuốn tiểu thuyết của nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới.
4 bản dịch sang tiếng Đức cuốn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Thơ các thiền sư đời Lý và cuốn Đoạn trường vô thanh.
3 tập phê bình và nhận định những sai lầm của chủ nghĩa Mác viết bằng tiếng Anh.
2 cuốn nói về sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thế kỉ 21 viết bằng tiếng Pháp.
43 cuốn phân tích và phê bình về các tác giả Việt Nam từ thơ ca đến tiểu thuyết.
12 cuốn viết về các danh nhân văn hóa Trung Quốc và sự ảnh hưởng của họ.
5 cuốn dịch thơ Đường sang tiếng Việt.
3 cuốn chép tay kinh Phật bằng tiếng Pali.
1 cuốn dịch nhạc Trịnh Công Sơn sang tiếng Tây Ban Nha.
8 tập thơ hắn viết từ hồi 15 tuổi cho đến năm ngoái, tức là cả năm nay hắn không còn làm thơ.
1 cuốn luận án tiến sĩ của hắn với tiêu đề: “Tìm hiểu chính sách ngoai giao của nhà nước Việt Nam từ đời Lý đến 1945”..với nhiều lời phê khen ngợi.
Và nhiều bằng cấp giấy khen của nhiều trường học, tổ chức trong và ngoài nước. Nhiều bài báo của hắn viết trên nhiều tạp chí chuyên ngành của nhiều tổ chức khoa học tiếng tăm trên thế giới.
Một gia tài đồ sộ chứng tỏ sự uyên thâm cùng sức làm việc khủng khiếp của hắn.
Tôi mất gần cả năm nay mà vẫn chưa đọc hết những gì hắn đã viết, và tôi sẽ tiếp tục đọc để hiểu hắn hơn, để càng thêm cảm phục hắn. Một thiên tài đã sinh nhầm nơi chốn. Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ.
Tôi không đốt như ý nguyện của hắn. Tôi đóng một tủ sách khá đẹp, đem tất cả tác phẩm hắn đã viết sắp xếp thứ tự. Ngoài mặt tủ, tôi đi thuê khắc dòng chữ: “CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V.HUY “
Saigon 12g45 AM ngày 11.8.2010
DODUYNGOC


 

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget