Latest Post





Ngày trước, những nhà giàu sang, phú quý, nhà quan lớn, tiệm buôn bán lớn thường có câu đối ở ban thờ hay ở trước cửa hiệu. Những câu đối này như lời giới thiệu gia thế hoặc ước vọng của chủ nhân. Giới thiệu một số câu đối tiêu biểu ở ba miền.

- Câu đối gắn trước của hiệu của một số gia đình ở huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng
Gia đình có cửa hiệu mang tên Mộc Lợi:
Mộc gia tiên đức sáng cơ nghiệp (Cái đức đời trước của gia đình họ Mộc an dựng nên cơ nghiệp)
Lợi phát tài nguyên chấn gia thanh (Nên lợi lộc tiền tố đời nay làm uy danh gia tộc mình thêm)

- Gia đình có cửa hiệu mang tên Kim Lợi:
Kim ngọc mãn đường tích thiên tứ (Vàng ngọc đầy nhà là do thụ hưởng được ơn của trời)
Lợi lộ hanh thông vạn đại xương (Con đường lợi lộc có tốt đẹp là do gia tộc: muôn đời làm điều tốt)

- Câu đối treo ở cửa nhà anh thợ mộc ở Tiền Giang
Cuối thế kỷ XIX, ông Nguyễn Minh Triết ở làng Đông Mỹ Thượng (Cai Lậy, Tiền Giang) viết đôi câu đối cho anh thợ mộc hay dùng bùa trừ yểm hại nhà chủ, để anh ta treo bàn thờ tổ sư:
Anh linh thiên tải hộ (Anh linh nghìn năm phù hộ)
Hiển hách vạn thu truyền (Hiển hách vạn thủa lưu truyền)
Câu đối này đọc qua thì thấy câu đối rất hay, tứ sâu, nghĩa đẹp. Nhưng đọc lái thì…"tải hộ" thành "tổ hại"; "thu truyền" thành "thiên trù" (trời trừ). Làm ăn như thế thì chỉ tổ hại hoặc hại đến tổ tiên, sẽ bị trời trừ, trời úm.

- Câu đối khắc tại nhà Nguyễn Đăng Tại làng Đại Mão-Trung Thôn, Bắc Ninh
Thôn Đại Mão có tên chữ là "Đại Mão Trung" tên nôm "Làng Giữa", thuộc xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trong làng có cụ Lê Nho Thầm là con của cụ Lê Nho Cúc, thường gọi là cụ giáo Cúc. Ông Thầm có người con gái lớn là Lê Thị Đăng sau khi tốt nghiệp Trung cấp sư phạm thì đi dạy học và xây dựng gia đình cùng với Nguyễn Đăng Tại người thôn Lam Cầu, Nguyễn Đăng Tại là Phó Giám đốc Công ty Thông tin tín hiệu Bắc Giang. Nhận thức và cũng là để giáo dục cháu con về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người với gia đình và xã hội, tại cổng nhà, Nguyễn Đăng Tại tự tay viết đôi câu đối nói về cái cổng, nơi phân giới giữa xã hội và gia đình :
Nhất phiến ám vân, phụ tử tôn tằng xuất quá tuân pháp luật
Song long giới địa, công hầu tao mặc nhập nội thị gia phong
Tạm dịch nghĩa:
Trên có nóc che trời, cha con cháu chắt ra ngoài nhất nhất phải tuân theo Pháp luật của Nhà nước
Hai cột ngăn cách giữa trong nhà - ngoài đường, bất kỳ ai dù là công hầu khanh tướng khi vào tới nhà cũng phải tuân theo nền nếp của gia đình

- Những câu đối ghi chép trong sách "Tam xã đăng khoa lục" ở xã Tứ Trưng
Tam xã đăng khoa lục là cuốn sách ghi chép các nhà khoa bảng của ba xã Kẻ Rưng là Văn Trưng, Lăng Trưng và Hiến Trưng, xưa thuộc huyện Bạch Hạc phủ Tam Đái trấn Sơn Tây nay là xã Tứ Trưng, gồm ba thôn Văn Trưng, Vĩnh Trưng (trước là Lăng Trưng) và Thế Trưng (trước là Hiến Trưng) thuộc huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài ra còn có thôn Bảo Trưng (trước là Nhủ Trưng) nay đã cắt sang xã bên. Hiện nay còn lại đôi câu đối ca ngợi ba xã có nhiều người thi đỗ làm quan:
Câu đối của nhà thờ họ Nguyễn:
Đồng thế đồng triều tam Tiến sĩ
Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh qui
Nghĩa là:
Cùng thời ba vị Tiến sĩ làm quan cùng triều
Một nhà hai người thi đỗ về làng vinh quy một ngày
Câu đối ở nhà thờ họ Nguyễn nhưng có ý nghĩa đối với cả xã. Ba vị tiến sĩ là hai cha con cụ Nguyễn Tiến Sách, Nguyễn Đình Toản và cụ Đỗ Hi Thiều
Câu đối ở nhà thờ họ Đặng:
Bách thế xưng thần lịch niên dữ quốc
Bát thôn cư thủ do tộc nhi hương
Nghĩa là:
Làm quan trăm đời nhiều năm giúp nước
Giữ đất tám thôn nhờ họ nên làng
Vế trên của câu đối họ Đặng cũng như các họ khác trong xã có nhiều người nối đời làm quan. Còn vế dưới nói về nghiệp võ của họ Đặng

- Câu đối treo ở ban thờ gia đình ông Phạm Vũ Ngọ ở xóm 3 Đôn Thư huyện Thanh Oai
Xuân hoa mãn mục, hỷ khí doanh môn
Tử đệ tân cần, xuân phong nhập hộ
Vào cuối đời Nhà Trần (trước sau năm 1375), có ba anh em một nhà ở đất Ái Châu thiên cư ra Bắc tìm đất lập nghiệp, trong đó Phạm Tiên Công chọn vùng Thời Trung – Đôn Thư, sau đã định cư ở Trang Thời Trung (tức xã Phương Trung bây giờ) và trở thành Thủy Tổ của Phạm Tam Chi nơi đây. Sau khi nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, song cũng phải đến năm Gia Long thứ 6 (1807), khoa thi Hương đầu tiên sau một thời gian gián đoạn mới lại được tổ chức. Khoa thi đó ở Đôn Thư có hai chú cháu cùng đi thi là cụ Phạm Đình Dư (đời thứ 6) và cụ Phạm Vũ Quyền (đời thứ 7), cả hai cụ đều thi đỗ. Phạm Vũ Quyền khi dự thi tuổi còn thấp, còn chưa có tên trong sổ đinh, phải mượn tên của chú ruột là Phạm Vũ Phác. Tư nghiệp Phạm Vũ Phác sau được phong Tế Tửu. Tế tửu Phạm Vũ Phác (tức Phạm Vũ Quyền) khi về hưu trí, được vua ban áo bào, được cấp tiền làm nhà dưỡng lão và được mang đôi biển “Hồi tị – Túc Tĩnh” về quê sử dụng như ở nhiệm sở khi còn đương chức. Cụ nghỉ hưu ở quê, dân làng thường gọi cụ là “Cụ Tế”, năm cụ qua đời, nhà vua gửi viếng đôi câu đối:
“Sự nghiệp tam triều vọng
Văn chương nhất quốc sư”

- Những câu đối khắc tại 1 số ngôi nhà cổ ở làng Phú Mộng - thành phố Huế
Nhà vườn Phú Mộng là cách gọi chung cho các ngôi nhà vườn hiện diện trong khu vực Phú Mộng phường Kim Long thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. "Phú Mộng viên" là vườn của ông Hoàng Xuân Bậc, ngôi nhà xưa nay vốn là phủ thờ Tôn Thất Thuyết. "An Lạc Viên" lại là ngôi nhà vườn theo một cách riêng của ông Võ Văn Long, nơi du khách có thể đọc thấy ý tứ của gia chủ qua việc chọn cây, bày cảnh và thưởng thức tài nữ công gia chánh của mẹ con bà chủ vườn. Bà Mai Thị Kim Hoàn và cô con gái Mai Chi đã bày trên chiếc bàn tre góc vườn những lẵng bánh trái được làm y hết hoa quả thật. Không ai nghĩ những đào, lê, táo, lựu... kia lại được làm từ... bột cộng với tài hoa gia chánh của phụ nữ Huế. Trước cổng ngôi nhà vườn bà Phạm Thị Túy - xưa là nhà ở của thượng thư bộ lễ Phạm Hữu Ðiền, có đôi câu đối:
Nhập thất hoán hiệp tương đức mỹ
Thường môn thảo mộc cộng tri xuân
Tạm dịch:
Vào nhà, cái lớn nhất là đạo đức và vẻ đẹp
Ở ngoài cửa, màu xanh hoa lá cỏ cây cùng nhau làm nên cảnh sắc
Trong gian giữa nhà ông Võ Văn Long là hai câu:
Ngũ hoa đài phán hương sơn vĩ
Thốn thảo thừa hoang cẩm thượng y
Tạm dịch:
Mùi hương của đám đài hoa rụng ẩn mình trong ngàn lau lách
Sắc màu của thảm cỏ hoang như một chiếc áo gấm

- Câu đối khắc tại ngôi nhà cổ độc đáo tại Tiên Cảnh, Tiên Phước, Quảng Nam
Huỳnh Thúc Kháng hiệu Mính Viên, Mính Viên tức "vườn chè", nghĩa rộng hơn là người sinh ra tại xứ "vườn chè". Nơi ấy, một vùng đồi núi bát úp dựa lưng vào dãy Trường Sơn. Có thời gian "Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an" đã lui gót về quê nuôi chí. Căn nhà xưa nay đã trở thành di tích tại thôn 5, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Trong nhà còn lưu đôi câu liễn bị mối mọt thời gian gặm nhấm dần nhưng tâm niệm và khí tiết của chủ nhân đầu tiên, xuất thân nhà nho trong họ của cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn đó: "
Bách tải triệu bằng bồi phước trạch
Nhất sinh trì thủ trọng can trường
Năm 1939, Ngô Đình Diệm lúc đó là thượng thư, vào Quảng Nam chơi với anh mình là tổng đốc Ngô Đình Khôi, nghe tiếng ngôi nhà tìm đến thương lượng. Hôm đó buổi trưa. Tri huyện Tiên Phước Phạm Xuân Chánh dẫn đầu đoàn người ngựa đi trước, Thượng thư Ngô Đình Diệm đi sau. Ông Chánh mới nói: "Cụ thượng muốn mua lại căn nhà!" Người cháu bên họ ngoại của Huỳnh Thúc Kháng là Nguyễn Huỳnh Anh lúc đó là chủ sở hữu ngôi nhà đã từ chối rồi chỉ cho mọi người câu đối treo trên cột. Kể xong ông đọc luôn:
"Tổ đức càn khôn đại
Tôn công nhật nguyệt đường"
Căn nhà ông cố để lại coi như được dựng nên từ phước đức ông bà, không thể bán!

- Những câu đối khắc trong các ngôi nhà cổ ở Hội An có nội dung khuyên con cháu học hành
Canh độc lưỡng đồ, độc khả vinh thân canh khả phú (Nông học đôi đường, học sớm vinh thân nông sớm phú)
Kiệm cần nhị chí, cần năng sáng nghiệm kiệm năng thành (Kiệm cần hai chữ, cần cù sáng nghiệp kiệm thành công)
Thập niên song hạ vô nhân vấn (Mười năm đèn sách không ai hỏi)
Nhất cử thành danh thiên hạ tri (Thi trúng thành danh thiên hạ hay)
Thư sơn hữu lộ cần vi kính (Núi sách có đường, biết cần cù sẽ tìm ra đường ấy)
Học hải vô nhai khổ tác chu (Biển học vô bờ, khổ luyện sẽ là con thuyền đưa về bến thành công)
Quân tử tâm năng khuất năng thân tùy cơ ứng biến (Lòng người quân tử phải biết duỗi co tùy lúc và phải biết tùy cơ ứng biến)
Thiên hạ sự vô nan vô dị hữu chí cánh thành (Việc trong thiên hạ không khó cũng không dễ miễn có chí tất sẽ thành công)

- Những câu đối khắc trong nhà ông Trần Công Vàng, P. Phú Cường, Tx. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương
Chánh tâm vi tiên, minh đức triệu cơ truyền thế viễn
Trung lập bất ỷ, thánh ngôn thuỳ huấn lịch niên tân
Nghĩa là:
Trước hết tâm phải chính, làm sáng đức để xây dựng cơ nghiệp lâu dài
Tự lập, không ỷ lại, lời thánh nhân truyền dạy mãi với thời gian
Và:
Sáng nghiệp duy nan, tổ phụ tu thường tân khổ
Thủ thành bất dị, tử tôn nghi giới xa hoa
Nghĩa là:
Sáng lập nên sự nghiệp khó khăn, tổ phụ phải trải qua nhiều cay đắng
Giữ lấy không dễ, con cháu chớ nên xa hoa

- Câu đối ghi trong cuốn Gia Phả họ Trương ở Đáp Cầu - Bắc Ninh
Yến dực di mưu vinh Bắc địa (Cánh Én đưa tin từ đất Bắc dành cho đời sau sự vinh hiển)
Hồng cơ biệt phái nhẫn Trương môn (Chim Hồng đặt để nhà họ Trương mềm dẻo) (Biệt phái: có phái riêng từ cội gốc dấy lên)
Nghĩa bóng (ý tại ngôn ngoại – ý vượt ra ngoài lời) của câu đối này vô cùng thâm thúy, vô cùng ảo diệu và uyên bác. Nước Yên dành máu từ đất Bắc (vinh=máu), Hồng hạc mang hình bởi họ Trương. “Hồng Hạc” trong vế sau của câu đối là hình ảnh con chim Hồng (chim Lạc) đã được khắc họa trên trống đồng -một dạng biểu tượng quốc huy của người Bách Việt cổ. Ở đây cùng ngầm ý rằng: người họ Trương từ thời đại Hùng Vương, Hồng Bàng đã tham gia phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng cơ đồ Bách Việt. Họ Trương có gốc gác từ Thanh Hà quận ở Trực Lệ hay Phúc Kiến, đều thuộc nước Yên của đất Bách Việt cổ phía nam sông Dương Tử, di cư về phương Nam vì nhiều lý do và giai đoạn khác nhau trong lịch sử.

- Câu đối ghi trong Gia Phả họ Phùng ở Nam Cường
Qua khỏi cầu đường sắt Yên Xuân, rẽ phải khoảng 1km bên bờ hữu ngạn sông Lam là xóm 1, xã Nam Cường, Nam Đàn, Nghệ An. Đền thờ các tiên tổ họ Phùng có hai tòa khá khang trang, đẹp đẽ, ở tách riêng ngoài xóm, nằm giữa đồng ruộng thoáng đãng. Đền thờ xưa thuộc làng Xuân Trạch, xã Hạ Khê, tổng Phù Long, huyện Hưng Nguyên, nay thuộc xã Nam Cường, huyện Nam Đàn. Gia phả dòng họ Phùng ở Nam Cường được lập vào năm 1788, do Thượng tướng, Quận công Phùng Viết Đán biên soạn. Trong Gia Phả có ghi chép 1 câu đối nội dung như sau:
“Phù Long sinh hào kiệt phụ quốc công cần lưu quốc sử
Phùng tộc hiển phúc thần độ dân ân đức thấu nhân tâm”

- Câu đối trong cuốn Lều Chõng của Ngô Tất Tổ
"Thuỷ ứng Chu hoa tam bạch hậu,
Trường trưng Thương quả thập hoàng sơ".
Chu đối Thương, (Nhà Chu nối tiếp sau nhà Thương và trước nhà Tần ở Trung Quốc) Hoa đối Quả, Tam đối Thập, Bạch đối Hoàng, Hậu đối Sơ. Từng chữ một đối nhau chan chát, Câu này được tác giả cho là "Thần Cú".

- Câu đối trong cuốn Bút Nghiên của Chu Thiên
Vế ra: Ba Sĩ ngồi một Kỷ, đội đức Đường Nghiêu (“Ba chữ sỹ 士 đè trên chữ kỷ 几 thì thành chữ Nghiêu 堯”)
vế đối: Một Bách xách hai Cung, đáng tài Lý Bật (“Chữ Bách 百 kẹp ở giữa hai chữ Cung弓, gọi là chữ Bật 弼”)
Đường Nghiêu là những vị vua giỏi trong lịch sử Trung Quốc. Chữ Nghiêu có ba chữ Sĩ ở trên chữ Kỹ là ghế: ba sĩ ngồi một ghế trong truyện cũng để tả cảnh ba người có học cùng đến cầu hôn). Lý Bật là vị tướng giỏi đời Lý- Đường được phong tước vương ngang với Quách Tử Nghi. Chữ Bật có một chữ bách ở giữa và hai chữ cung ở hai bên
Hoặc câu đối chữ nôm :
Vốn giòng thi lễ đôi tám xuân thu, gặp khách thư sinh đem lòng dục dịch
Trong câu này có lấy tên ngũ kinh là : Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu
Câu này đuoc đối lại: Đệ tử Trương Chu mười năm Khổng Mạnh, thấy nàng nhan sắc nên phải thưa trình.
Trong câu đối lại có lấy tên họ các bật thánh hiền là : Khổng Tử, Mạnh Tử và Trương Tử, Chu Tử, Trình Tử. Ba vị sau là ba vị danh nho đời Tống.

- Câu đối “mừng đám cưới” trong sách “Giai-Thoại Câu Đối” của Quỳnh-Liên-Tử Bảo Vân Bùi Văn Bảo (1917 - 1998)
Bùi Văn Bảo hiệu Bảo Vân và Bê Bình Phương sinh tại Thái Bình. Tốt nghiệp lớp Sư phạm năm 1940, trường Bưởi ở Hà Nội, Việt Nam. Vào Sài Gòn viết thêm cho báo Tự Do (mục Ðàn Ngang Cung) cho Ca Bắc (ở Sài Gòn) năm 1956 nghỉ viết báo, soạn sách giáo khoa tiểu học và xuất bản báo Tuổi Xanh cho thiếu nhi. Năm 1975 di cư sang Canada lại soạn sách dạy tiếng Việt cho trẻ em và viết thơ và văn cho nhiều báo ở hải ngoại. Trong bài thơ "Giữ gìn tiếng Việt" có hai câu mở đầu mà nhiều người biết là:
Chỉ sợ đàn con quên Việt Ngữ
Ðừng lo lũ trẻ kém Anh Văn
Trong tác phẩm Giai Thoại Câu Đối có có ghi chép về 1 đôi câu đối mừng đám cưới như sau rất độc đáo như sau:
“Tơ hồng vương vấn, cho nên em về làm dâu ông Hoa-Thịnh-Đốn
Nguyệt lão xe duyên, thành ra anh đi ở rể bà Trưng-Nữ-Vương”

- Câu đối của danh nhân Nguyễn Sinh Khiêm khắc tại nhà thuốc Đông Cát - thành phố Huế tỉnh Thừa Thiên
Nguyễn Sinh Khiêm (1888 - 1950) còn có tên Nguyễn Tất Đạt, là anh ruột của Nguyễn Tất Thành, người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Khoảng năm 1936-1939, ông thường ghé vào tiệm thuốc bắc thầy Đoàn Ngọc Phách (cháu nội thầy Cảnh, ở Sịa) ở chợ Kệ đàm đạo và cân thuốc. Năm 1943-1944, ông có đi lại vùng Kim Long, thường lui tới tiệm thuốc bắc Đồng Cát (của thầy Hườn, Kim Long). Gia đình này quen gọi thầy Nghệ là Cụ Cố Đạt. Nhìn tiệm thuốc có tên Đồng Cát, ông lấy 2 chữ đầu làm đôi câu đối:
Đồng chí, đồng tình, kiêm đồng đạo
Cát tâm, cát sự, tịnh cát tường

- Câu đối khắc tại Nhà Thuốc Đông Y Gia Tuyền Trần Ngọc Chấn
Nhà Thuốc đông y gia truyền Trần Ngọc Chấn phòng 6 ngõ 84 Hoàng Đạo Thành- Kim Giang- Thanh Xuân- HN. Theo gia phả họ Trần còn ghi chép lại được thì Cụ thượng tổ khởi nghiệp y đời thứ nhất là Cụ Trần Hữu Tạo (1580 - 1650) đến Lương y Trần Ngọc Chấn (1916-1995) là đời thứ 13, lương y Trần Ngọc Tấn (con trai lớn của cụ Chấn) là đời thứ 14 và đến bác sỹ Trần Thịnh là đời thứ 15 liên tục kế thừa. Lương y Trần Ngọc Báo (1873-1963) Đời thứ 11 có sở trường trị bệnh nhi khoa, thuốc suy dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, đặc biệt có kinh nghiệm chữa bệnh đậu mùa, dập được nhiều vụ dịch tiêu biểu như vụ Cụ cứu trăm người dân xã Quảng Nạp huyện Thanh Ba - Phú Thọ do vậy vì cảm ơn đức của Cụ chức sắc và dân làng đã tặng Cụ đôi câu đối chữ Hán:
"Hạc toán tràng sinh, quế tử lan tôn bằng hậu ấm
Long chân đế vượng, kim tinh ngọc kiểm khế linh thuyên"
ý nghĩa:
Tuổi hạc bền lâu, con quế cháu lan nương bóng cả
Lộc tài thịnh vượng, vàng dòng ngọc nén chứa đầy kho

- Những câu đối ghi chép trong tập sách Hán Nôm ở tư gia cụ đồ Nguyễn Tòng Mậu
Nguyễn Tòng Mậu là thầy đồ định cư tại ven sông Cái Cối, xã An Hữu, đối diện đình thần An Hữu - đình Rạch Chanh, tại nhà cụ hiện có 1 tập sách quý. Đó là một tuyển tập gồm nhiều tác phẩm rất đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung. Chữ trong tập sách hoàn toàn là chữ viết tay, phần lớn tương đối dễ đọc vì thống nhất về nét viết, kiểu chữ và phong cách trình bày. Tuy nhiên, khoảng mươi trang về cuối trình bày không ổn định và chữ viết khó đọc, có thể là do người khác viết thêm vào. Trong tập sách này có ghi chép lại 1 số câu đối khá hay như sau:
* Câu đối cháu ngoại khóc ông:
“Nhớ thuở ông còn ông dắt cháu, cháu biết chững; ông nâng cháu, cháu biết cười; nhấc công đức ấy mà cân, nội ngoại hai bề, yêu thương một lòng coi cũng thế.
Bây giờ cháu đến cháu hỏi ông, ông chẳng thưa; cháu tìm ông, ông chẳng thấy; nghĩ cảnh tình này mà ngán, âm dương đôi ngã, nhớ thương chút dạ biết bao nguôi.”
* Câu đối của Trung Bắc và Học báo:
“Hơn mười năm một ngọn bút ngôn đàn, vẫy vùng ngoài bắc trong nam, dốc nhiệt thành gây dựng lối văn ta, công ấy dễ cùng cây cỏ mục.
Trong sáu tháng hai lần tang báo quán, ngao ngán người còn kẻ khuất, mở di thảo ngậm ngùi màu mực cũ, sầu này theo với nước mây xa.”
* Câu đối do ông Nguyễn Mạnh Bỗng điếu ông Phan Kế Bính, ông Bỗng đã trích chọn những sự kiện, công việc, chí hướng, tính cách của ông Phan Kế Bính, sắp đặt chúng trong một cấu tứ huyền diệu của loại câu đối mà viết nên những dòng ca ngợi công lao người đã khuất và bày tỏ tấm lòng kính trọng, nể phục của ông:
“Tình nặng với giang sơn, khi bôn tẩu, khi hô hào, Nam Bắc hai Kỳ, làng báo sinh nhai, mấy độ quốc dân tâm đã mệt.
Công to cùng học giới, nào dịch phiên, nào trước tác, lâm lang mấy bộ, nhà Nho sự nghiệp, ngàn năm văn học sử còn ghi.”
* Câu đối Tết:
“Cũng muốn trồng nêu e quỷ khiếp
Rắp toan nổ pháo sợ trời kinh”
* Câu đối hôn sự:
“Bình giai lão rượu đào dâng rót, vách đề thơ ghi tạc trăm năm
Khay hợp hoan trầu quế bưng mời, sân nổ pháo vui mừng hai họ”

- Câu đối do nhà thơ Lê Khả Sĩ viết tặng nhà thuốc Nguyễn Hữu Toàn ở Hải Phòng
Lương y Nguyễn Hữu Toàn là cháu nội của Y Gia Nguyễn Hữu Hách, được sự đồng ý của cụ Hách và gia đình (sau khi cụ mất), Lương y Nguyễn Hữu Toàn đã thành lập “Phòng khám đông y Nguyễn Hữu Toàn”. Năm 1995, Nguyễn Hữu Toàn đã làm được phần mềm hỗ trợ cho chẩn đoán, điều trị bằng thuốc đông y; quản lý theo dõi bệnh nhân và kiểm chứng hiệu quả chữa bệnh của từng bài thuốc. Sử dụng phần mềm này, thầy thuốc có thể kiểm tra, thống kê kết quả chữa bệnh trong nhiều năm đối với từng loại bệnh, từng bài thuốc vào bất cứ thời gian nào một cách dễ dàng chỉ mất vài chục giây. Năm 2000, Hội Đông y Việt Nam cùng Sở Y tế Hải Phòng, Thành hội đông y Hải Phòng đã thăm quan và biểu dương sáng kiến của chương trình này. Nhà thơ Lê Khả Sĩ có tặng nhà thuốc đôi câu đối nội dung như sau:
Hữu Nghĩa Hữu Tình Để Đức Độ Hoá Niềm Vui Hậu Thế
Toàn Tâm Toàn Ý Lo Yên Lành Cho Sự Sống Nhân Dân

- Những câu đối khắc tại di tích vườn An Hiên thành phố Huế
Di tích vườn An Hiên tọa lạc tại thôn Xuân Hòa, xã Hương Long, ở khu vực tả ngạn sông Hương thuộc ngoại ô thành phố Huế. Nhà rường này nguyên là phủ An Hiên do ông Phạm Đăng Thập xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, Đầu thế kỷ XX, ông Thập để phủ lại cho ông Tùng Lễ về làm giám thủ nhà thờ Đức Quốc Công. Năm 1934 ông Tùng Lễ bán lại cho ông bà Tuần phủ Nguyễn Đình Chi và Đào Thị Xuân Yến. Nằm giữa hai trụ và sát lối ra vào có 2 con dơi sãi cánh nhìn xuống cổng miệng ngậm câu đối bằng chữ Hán khảm sành màu xanh viết trên tàu lá chuối thả dọc theo cổng đọc được như sau:
Bình Sơn ái đãi vân thiên đóa
Hương Thủy trừng ngưng nguyệt nhất huyền
Tạm dịch:
Bình Sơn mờ mịt mây nghìn đóa
Hương Thủy trong veo nguyệt một vầng
Từ cổng chính đi theo con đường đất dài 34m sẽ thấy bức bình phong lớn nằm uốn mình hơi chếch về hướng tây che chắn nhà thờ chính. Mặt ngoài bình phong ở hai bên chữ Thọ có câu đối bằng chữ Hán viết màu sơn đen trên nền đỏ đọc được như sau:
Xuân Thủy liên vân nhạn tân cạnh độ
Hòa phong nhập thụ hoa tín tài văn
Tạm dịch:
Mây rợp sông xuân chập chờ nhạn liệng
Cây vờn gió nhẹ thoang thoảng hoa đơm
Gian giữa nhà thiết bàn thờ phật Thích Ca và bàn thờ gia tiên, hai cột trước gian thờ treo đối diễn chữ chân pha thảo:
Thử chí tại cao sơn lưu thủy
Kỳ nhân như thủy trúc bích ngô
Tạm dịch:
Chí ấy ở non cao nước chảy
Người kia như trúc biếc ngô xanh
Trong gian thờ có bức trướng gấm thêu câu đối:
Hồng Lĩnh nãi Hà Bắc chi hùng, quốc tráng phiên hà tư trọng thọ
Long Cương thi ngộ châu chi thắng, gia liên phiệt duyệt xuất danh thần
Tạm dịch:
Cõi Bắc có Hồng Lĩnh hào hùng, đất nước cõi bờ thêm trọng thọ
Quê ta có Long Cương thắng cảnh, nếp nhà dòng dõi nẩy danh thần

vi.m.wikiquote.org


Buổi chiều rất lạ ngồi bên ghế đá
Nghe gió thở dài gọi tên một người
Có vết đau nào còn hằn trên má
Sóng vỗ miên man tựa tiếng ai cười


Buổi chiều rất lạ nghe tiếng chuông xa
Có tiếng cầu kinh từ những căn nhà
Hoa phượng rỏ máu thấm con đường nhỏ
Chẳng còn tiếng ve khi trời vào hạ

Buổi chiều thật lạ với lắm bôn ba
Ta đợi chờ ai giữa mấy sân ga
Người đã đi qua không lần ngó lại
Trong những chua ngoa mong chút thật thà

Buổi chiều thật lạ phố chẳng còn ai
Trong cơn mộng mị chợt giấc mơ bay
Cây rớt lá vàng mùa thu chưa tới
Có kẻ thẫn thờ nghe những tàn phai

Buổi chiều rất lạ chỉ toàn ghế trống
Bè bạn ra đi biết bao trông ngóng
Có tiếng dương cầm buồn hơn nước mắt
Ta ngồi buồn thiu như người mất bóng

Buổi chiều rất lạ thèm bàn tay ai
Bên khung cửa nhỏ ấm cả bờ vai
Bờ môi không son giờ thành nỗi nhớ
Một khúc bi ca cây ngã đường dài
8.6.2020
DODUYNGOC


Chiều chờ một tiếng gõ cửa
Không có ai chỉ cơn gió trở mình
Đốt thêm một cối thuốc
Bình trà cạn
Dòng nước mỏi mệt chảy trong hồ cá
Ta có hơn gì đâu

Tiếng còi xe vọng lại ở hàng hiên
Thèm một bàn tay
Thiếu một hơi thở
Quá khứ như mới hôm qua giờ đã tắt
Cuộc chia ly đột ngột
Chẳng ngoái đầu nhìn lại

Vẫn còn đó biển sâu và những con ốc nhỏ
Vẫn còn đó tiếng sóng vỗ của ký ức
Ta lún sâu vào cát
Chôn chân ở đấy nhìn mặt trời lặn phía bên kia
Có tà áo nào bay chấp chới
Màu áo của hôm qua
Gắn chặt với nụ cười

Chiều vỡ vụn của tiếng ly vỡ
Ngột ngạt máu chảy
Thời gian ăn mòn thịt da
Những đoá hoa rực rỡ như cuộc tình một thời
Màu hoa và máu đỏ
Cũng héo mòn theo bóng chim

Sông chẳng còn chảy và rừng đã cháy
Một mình với giường chiếu lạnh
Soi gương thêm tóc bạc
Ai gõ nhịp đời ta
Những bậc thang đi lên đi xuống
Không còn ai để chờ
Ta nằm ngửa nhìn trần nhà
Nghe máu chạy dưới da

Người mang đến tuyệt vọng
Chín trong ý nghĩ
Và người đi
Để lại nỗi đau đầy dấu vết
Mây quằn quại giữa hoang vu
Chẳng còn ai để tin
Chiều gục trên vai đầy gai nhọn
Con chim thổ huyết hót tiếng cuối cùng
Đêm bùng vỡ.
22.5.2020
DODUYNGOC

Nghe lại bài hát cũ



Mười một năm rồi không có Mạ

Giữa đời thui thủi một mình con

Đêm nay thắp nén nhang nhớ Mạ

Con ngỡ quanh đây Mạ vẫn còn


Mạ ơi cho con nắm bàn tay

Cho con ôm Mạ tấm thân đầy

Cho con được khóc trên vai Mạ

Được thấy trên môi Mạ mỉm cười


Mạ ơi con nhớ cơm Mạ nấu

Cá kho canh mít đọng đến giờ

Những giọt mồ hôi bên bếp lửa

Gần hết cuộc đời vẫn cứ mơ


Con nhìn ảnh Mạ giữa khói nhang

Gió thổi hàng hiên đêm sắp tàn

Đêm nay con thức vì nhớ Mạ

Nhà trống buồn đâu đứng xếp hàng


Mười một năm rồi không có Mạ

Chỉ còn di ảnh giữa bông hoa

Tưởng chỉ âm thầm rơi nước mắt

Tủi thân cô lẻ chợt khóc oà

10.5.2020

DODUYNGOC


Ta đi về lại con đường cũ
Dưới cầu con nước vẫn trôi xuôi
Bốn lăm năm vụt qua như mộng
Nhớ ngón tay ai bỗng ngậm ngùi


Tháng tư mặt đất như lò lửa
Tóc chẳng còn xanh mắt chớm mờ
Ký ức bềnh bồng đầy hơi thở
Cờ dựng hai hàng giết giấc mơ

Tháng tư còn đó vết dao đâm
Cha mẹ người thân lạnh chỗ nằm
Đã bốn lăm năm ngồi ngó lại
Cúi mặt buồn hiu lệ chảy thầm

Bốn lăm năm cây đời héo rũ
Suốt đường đi nhớ hoài chuyện cũ
Ngực miệt mài ủ mãi vết thương
Giữa chợ chiều thân không áo mũ

Tháng tư này ta chẳng còn nhau
Tiếng kinh buồn đâu xoá đớn đau
Con chim thống thiết kêu đầu ngõ
Thiên thu chờ đẩy đời qua mau

Tháng tư về trên dãy mồ hoang
Những mộ bia chẳng được thẳng hàng
Bao nhiêu xương cốt vùi trong đất
Suốt tháng năm dài thiếu nén nhang

Ta biết đi đâu, người về đâu?
Bốn lăm năm bao cuộc bể dâu
Đứng ở chân trời thương góc biển
Cuối đời trằn trọc suốt đêm thâu

Bốn lăm năm rồi ta trở lại
Muộn phiền đeo đẳng mãi trên lưng
Đi qua vườn cũ nghe lá thở
Bỗng nhớ dáng ai nhớ quá chừng
30.4.2020
DODUYNGOC


Tôi có được gì đâu, chỉ toàn là đánh mất
Chịu một đoạn đời khổ ải trầm luân
Mất hết những cơn mơ như lửa cháy trong lòng
Đêm trăn trở đường ngày mai bít lối
Ngày lại ngày giữa đồng hoang trơ trọi
Cười nói như một gã điên
Tôi đánh mất một quãng đời chỉ toàn mây xám ngắt
Giấc ngủ chập chờn với những tiếng rên la
Những tháng năm đói dài thèm bát cơm trắng
Thèm được thở thoát ra vòng tù hãm
Ngôn ngữ chỉ còn tiếng ê a vâng dạ


Tôi có được gì đâu trở thành kẻ câm lặng
Thời gian đè nặng trên vai
Một thời thổ tả
Lòng nấu nung như bánh pháo chẳng châm ngòi
Thèm tiếng nổ xé toang đời vô vị
Chẳng còn chi một trí não trống rỗng
Lại tập nói, tập cười
Tập để sống và cúi đầu nhẫn nhục

Tôi đánh mất ước mơ khi đứng giữa ruộng đồng không người cấy hái
Thiên hạ rùng rùng đi về phía biển
Tôi ngồi nghe giun dế khóc kêu chiều
Tôi chẳng còn tình yêu
Trái tim để lại những tiếng nấc
Ai đẩy tôi vào xó tối này

Hoang vu trên những lá cờ
Định mệnh nghiệt ngã làm người ở lại
Nhìn về phía chân trời mà ao ước
Khi gục mặt vào bảng đen và phấn trắng
Tôi đã rơi xuống hố thẳm tự lúc nào

Cha mẹ, anh em, quê nhà, bè bạn
Tản mác bốn phương trời
Còn lại một bầy dơi
Treo ngược đầu trên cành cây héo
Trăng méo nghiêng trên nóc tranh
Sao không mọc nữa
Những tháng ngày lộn mửa
Ký ức như dao đâm

Tôi còn lại gì đâu
Những bức tường rêu xanh cũng đã khô cằn
Chiếc xe ngựa lóc cóc về trên cánh đồng hạn hán
Vó đã mỏi mắt bịt kín chỉ còn một hướng đi
Tôi còn lại gì đâu
Đôi tay không còn nơi bám víu
Ngã giữa đời trời chẳng còn màu xanh
Cũng chẳng có lối về

Đâu chỉ có mình tôi, thiên hạ hoang mang
Đứng xếp hàng để tiếp tục tồn tại
Những bữa cơm trống vắng thức ăn
Sống tệ hơn thú vật

Tôi có được gì đâu ngoài những lá cờ
Ấn vào tay và phất
Những đôi mắt vô hồn và buồng tim sắp ngất
Đầy tiếng vỗ tay
Tôi có còn gì đâu ngoài những cơn ác mộng
Ma quái chạy rùng rùng giữa khuya
Mang đầy mặt nạ
Đàn bò ngơ ngác vào đại lộ
Nhà cao đổ ập xuống đè nát trí não
Đàn bò ngẩn ngơ ý thức về sự lọc lừa
Ở đâu cũng có đám chợ trời
Chuyên mua bán linh hồn
Sỉ và lẻ

Tôi đánh mất tôi rồi
Tôi chạy vòng quanh như đèn cù chấp nhận số phận
Tháng tư trời có mưa và sấm sét
Tôi khóc nhiều nước mắt hơn những cơn mưa
Củ Chi, 30.4.1979
DODUYNGOC


1.
Hôm đó hắn rời nhà sớm mười lăm phút, đồng hồ chỉ 6:15. Bình thường 6:30 hắn mới ra khỏi nhà.
Hắn là người sống nguyên tắc, đúng giờ giấc và đúng hẹn. Đó là những đức tính hắn có được nhờ thời gian hơn mười mấy năm sống trong cô nhi viện của một chủng viện công giáo. Ra đầu ngõ, cô Ba cà phê chào hắn: Thầy Tư hôm nay đi làm sớm thế? Hắn cười, giơ tay chào. Quán cà phê bắt đầu đông khách, cái chào của hắn ngầm chào hết mọi người, bởi toàn người quen cả.

Thật ra hắn chẳng có cuộc hẹn hò nào, đi sớm vì muốn thoát ra khỏi căn nhà, hắn thấy ngột ngạt, khó thở nên đi thôi. Cả đêm hắn không ngủ, vợ hắn chửi rầm rì suốt đêm. Cũng từng ấy chuyện thôi: rằng đàn ông không nuôi nổi vợ, rằng đàn ông mà không có khát vọng làm giàu, rằng đàn ông gì mà hèn, chỉ biết cúi mặt vào nấy cuốn sách vớ vẩn, rằng nhìn anh X, anh Y, nhìn bạn bè kìa, ai cũng công ty, ai cũng xe hơi, vila, vợ người ta như bà hoàng ... Toàn những chuyện cũ rích nhai đi nhai lại cả năm nay rồi. Hắn nghe mãi phát ớn, nhưng hắn không làm cách nào hơn. Ừ thì hắn bất tài, hắn hèn, hắn ngu, nhưng hắn là hắn thôi, hắn chẳng biết luồn cúi, hắn ghê tởm chuyện nịnh hót, hắn căm thù lũ người đạp trên người khác mà ngoi lên. Các frère, các cha dạy hắn thế. Nếu không có biến cố 75, chắc hẳn sẽ xin đi tu và đã thành linh mục rồi. Nhưng đời mà, biết đâu mà lường trước.

Hắn gặp vợ hắn cũng như duyên phận vậy. Hồi đó hắn đi dạy học, các trường thường tồ chức những sinh hoạt liên trường với nhau. Hắn có giọng hát tốt vì từng hát ca đoàn nên thường được bố trí đại diện trường của hắn thi văn nghệ. Cũng nhiều lần được giải. Có một lần khi hát xong, trên đường đi về lại chỗ ngồi, hắn vấp té vì một cái chân của một cô gái ngáng đường, thấy hắn té, cô gái và các bạn cười khoái trá, hắn tức mà không biết làm gì, mặt đỏ như say rượu. Oái ăm thay, trên đường về, hắn lại bắt gặp cô gái đó bị tai nạn ở ngã tư đường, chiếc xe nằm chỏng chơ, cô gái thì đang bất tỉnh. Người xem thì đông mà chẳng ai có động tĩnh gì, hắn định bỏ đi, nhưng rồi bản chất thiện nhân trỗi dậy trong lòng, hắn gởi xe ở quán bên đường, chỉ là hai chiếc xe đạp thổ tả thôi mà, bồng cô gái thuê xe taxi vào bệnh viện. Hắn làm mọi thủ tục, vét hết đồng bạc cuối cùng để đóng viện phí, ghi trong hồ sơ là người nhà, ký tên ở dưới nghiêm chỉnh. Bởi lúc đó hắn cũng cuống, nhân viên bệnh viện bảo gì, hắn làm đấy. Hắn ngồi chờ, ngủ quên một lúc cho đến khi y tá gọi tên hắn, hắn ngơ ngác thức giấc và rồi giật thót cả mình khi y tá bảo: chồng hả? Chết mẹ rồi, ngó bộ có chuyện rồi. Hắn ấp úng: Không phải ch..ồng.... là b ..a..n,! Cô y tá cười nhếch mép: Bà xã tỉnh rồi đấy, vào với bả đi. Hắn bỗng sợ, mặt hơi tái đi. Vào rồi, biết nói chi đây? Hay là đến đây xong nhiệm vụ rồi, dọt được rồi. Nghĩ vậy thôi, nhưng hắn vẫn bước vô. Cô gái thấy hắn thì ngạc nhiên: Anh là người đem tui vào đây đấy hả? Hắn gật. Anh tốt quá! Hắn gật cái nữa. Sao anh biết chuyện mà đem em vô đây? Hắn định gật, nhưng thấy là cái gật vô duyên. Hắn gãi đầu, ấp úng: Thì tình cờ thấy nên làm vậy. Bây giờ sao rồi? Cô gái cười: Em bị choáng thôi, anh đừng lo. Bình thường rồi. Hắn chợt phát hiện cô gái này cũng đẹp đó chớ. Nụ cười lại có duyên. Chỉ tội bạo dạn quá, hắn nhớ cái gạt chân cho hắn té hồi chiều. Hắn rụt rè: Sao hồi chiều gạt chân cho tui té vậy? Cô gái lại cười: Tại em thích anh, thích giọng hát như ca sĩ chuyên nghiệp của anh, nên chọc chơi. Hắn lại đỏ mặt, hắn tần ngần, tay xoắn lấy chiếc mũ: Thôi. Cô khoẻ rồi thì tôi xin về. Cô gái nắm lấy tay hắn: Sao vội vàng thế, anh đem em vào đây thì anh phải có trách nhiệm đem em về chớ, bỏ em một mình ở đây à. Thế là hắn ngồi lại đó suốt đêm, lúc thì rót cho cô gái li nước, lúc thì xoay cái gối. Hắn cảm thấy vui vì được săn sóc cho người khác, chuyện đó hắn chưa từng làm cho ai, lại làm cho người khác được vui.
Sau đó là những buổi hẹn hò, tháng sau thì về ở chung trong căn phòng bé tí như tổ chim trên lầu 7 của một chung cư hắn được cấp. Cũng chẳng cưới hỏi gì, cũng chẳng ra phường làm hôn thú. Hắn mồ côi, không biết cha mẹ là ai, chẳng bà con thân thuộc. Cô gái làm vợ hắn thì cả gia đình di tản từ những ngày cuối tháng 4.75. Vợ hắn không đi, không biết vì lí do gì, cô ấy chẳng nói, mà không nói thì hắn không hỏi, tánh của hắn thế. Cũng có một thời gian đầu hạnh phúc, chiều chiều đi dạy về, hai vợ chồng ngồi ngay balcon ca hát, kể chuyện cho nhau nghe. Nhưng vợ hắn không bao giờ kể chuyện ngày xưa, chỉ kể chuyện ở trường ở lớp. Hắn cũng vậy thôi, những chuyện ở cô nhi viện buồn hiu lấy chi mà kể. Vợ hắn dạy môn Pháp văn, hắn dạy môn Văn. Thời gian đó, tiếng Pháp ế chỏng gọng, chẳng có ai thèm học, vợ hắn dạy một tuần có mấy tiết, nhà trường bố trí làm thêm kế toán sổ sách. Môn Văn của hắn cũng chẳng ra gì, trong khi các môn Toán, Lý Hoá, Anh văn người ta hốt bạc nhờ dạy thêm thì hắn chỉ nhờ đồng lương mà sống. Hắn cũng chẳng có nhu cầu gì nhiều, không rượu chè, cờ bạc, gái gú lại càng không, chỉ có hút thuốc lá, tốn kém chẳng bao nhiêu. Hắn thấy sống được thế này là hơn những ngày sống cô nhi viện rồi.

Nhưng vợ hắn lại khác hắn, có chút tiền là son, là phấn, là sắm áo, mua giày. Nhiều bữa đi mua sắm về, mua không được món ưa thích vì không đủ tiền, vợ hắn cứ than: Sao đời tôi lại khổ thế này, chỉ có cái váy mà cũng không đủ tiền mua. Hắn ngồi im hút thuốc, chứ biết nói gì nữa, hắn cũng cảm thấy bất lực. Từ lời than, tiến tới cái liếc, cái nguýt và rồi nói thẳng vào mặt hắn: Thứ đàn ông không nuôi nổi vợ là hèn. Và rồi hục hặc suốt. Chẳng có bữa cơm nào trọn vẹn.

Cái bất hạnh không dừng ở đó, nhà nước chủ trương thanh lọc lại hàng ngũ giáo viên, sở giáo dục gọi hắn lên thắc mắc cái giấy khai sinh của hắn, không cha mẹ, nhưng có cha là một cố đạo người Pháp, hắn giải thích mãi hắn là con hoang, được chủng viện lượm về nuôi từ hè phố, chẳng có giấy tờ nên các cha làm cho cái giấy khai sinh và đứng ra làm cha đỡ đầu. Cán bộ không tin, cứ cho hắn có yếu tố nước ngoài trong lí lịch nên buộc hắn nghỉ việc. Hắn nhận quyết định tỉnh bơ không một lời xin xỏ, cũng tại cái tánh nó thế, dù hắn chưa biết ngày mai hắn sẽ làm chi để sống, rồi những lời nhiếc móc của vợ nữa. Vợ hắn cũng bị thanh lọc, cũng vướng cả gia đình ở nước ngoài nên không cho đứng lớp mà cho xuống văn phòng làm kế toán, sau này mới biết là tay hiệu phó cũng khoái nhan sắc của cô nàng nên cũng tranh đấu cho chút ưu tiên. Hắn chưa dám kể chuyện buộc nghỉ việc với vợ, hắn rụt rè nhiều lần mà vẫn chưa nói được thì may quá là may, có người quen đang làm phó tổng biên tập ngỏ lời cho hắn vào làm thày cò chữa morasse trong nhà in của báo. Buồn ngủ gặp chiếu manh, hắn tạ ơn Chúa lòng lành giang tay cứu nó đúng lúc. Nhận việc xong, hắn mới báo với vợ đã bỏ dạy về làm báo. Vợ hắn chỉ hỏi: Làm báo lương cao hơn nghề giáo không? Hắn bảo khá hơn chút. Vợ hắn gật: Thế thì được. Người ta vẫn gọi hắn là thầy. Xưa là thầy giáo, nay là thầy cò.

Về ở với nhau được hơn tháng, hắn phát hiện bụng vợ hắn lúp xúp, hắn hỏi: Bầu à? Vợ hắn lườm hắn một cái: Chứ không bầu thì là bụng mỡ à. Hắn vui lắm, hắn sắp có con, con hắn sẽ có cha mẹ đàng hoàng chứ không phải con hoang như hắn. Con hắn cũng sẽ có một gia đình. Nhưng vợ hắn thì bình thường. Chẳng vui, chẳng buồn, chỉ than vãn cho số kiếp sao nghèo mãi!!!

Thế nhưng rồi niềm vui của hắn không được bao lâu, bụng vợ hắn bắt đầu to thì một buổi chiều vợ hắn ra huyết dữ, thấm ướt cả đũng quần, hắn luống cuống chở vợ vào bệnh viện. Ngồi ngoài phòng đợi mà tim hắn cứ đập thình thịch, hắn lo sợ đủ điều. Hắn cầu xin Chúa, cầu xin Đức mẹ Maria lòng lành đoái thương cho gia đình hắn, giúp vợ con hắn được tai qua nạn khỏi. Nhưng Chúa ngó lơ, Đức mẹ cũng chẳng nghe lời cầu xin thảm thiết của hắn, con hắn chết non. Bác sĩ bảo hắn: Tiếc quá, đến ba mươi tuần rồi mà không giữ được. Hắn nghẹn ngào: Cám ơn Bác sĩ, phần số của cháu không được ra đời, chắc cũng là ý Chúa, biết phải làm sao? Nhưng rồi hắn giật mình, vợ chồng hắn về ở với nhau mới hơn bốn tháng, chính xác là bốn tháng mười ngày, sao lại có bào thai hơn bảy tháng? Hắn thấy cổ như ai bóp, không thở được. Thế là hắn bị lừa sao? Thế là thằng nào ăn ốc, hắn đổ vỏ sao? Hắn buồn thúi cả ruột gan, nhưng hắn vẫn vẫn im lặng, nuôi vợ chỉn chu những ngày vợ nằm bệnh viện. Cái nhẫn nhục đó cũng do cái tánh hắn thế, hắn không muốn ai phải băn khoăn về tội lỗi của mình.

Về nhà, lấy cớ đang bệnh, vợ hắn bảo hắn trải chiếu dưới nền nhà mà ngủ vì vợ hắn suốt đêm nhiều lần dậy tiểu, sẽ làm cho hắn thức giấc. Hắn nghe lời ngay, từ đó hắn nằm giữa phòng, trên cái chiếu rách, trời nóng thì cởi trần, mùa lạnh thì quấn tạm manh chăn cũ. Một bữa, không biết có chuyện gì vui, vợ hắn lại bắt chuyện với hắn bâng quơ mấy chuyện. Được một lát, hắn chợt nhớ đến cái bào thai, bèn rụt rè hỏi: Vậy chứ cha đứa bé là ai vậy? Vợ hắn quắc mắt lên, hai tròng mắt như lòi hết ra ngoài, nghiến răng nói từng chữ: Anh không cần phải biết, cũng như anh không cần biết quá khứ của tôi, anh chỉ nên biết đó không phải là con anh. Thế thôi. Hắn vớt vát: Nhưng là con của ai? Vợ hắn lại đay nghiến: Biết để làm gì. Nó đã chết rồi, biết nó là con ai để làm gì nữa. Hắn im, tánh nó thế, không muốn cãi với ai. Lúc nào hắn cũng nhận phần thua về mình.
Kể từ hôm đó, vợ hắn không cho hắn động vào người, nàm dưới sàn nhà, nhiều hôm bức bách quá, nhìn lên giường thấy thân thể vợ hắn phô ra dưới làn áo mỏng, hắn tự thủ dâm như thời mới lớn trong cô nhi viện.

Thời gian gần đây, vợ hắn như được lột xác, đẹp và tươi tỉnh hẳn ra. Áo quần, giày dép mua sắm hàng loạt. Vì từ bữa hắn hỏi về bào thai, cơm ai nấy ăn, trưa hắn ăn cơ quan, chiều bữa thì gặm bánh mì, hôm thì gói mì gói. Vợ hắn thì chiều nào cũng diện đồ đẹp, đi suốt, có hôm về say khướt, kêu cửa loạn cả lên. Vợ hắn lại có thêm nhiều bè bạn, các cô gái thì son phấn loè loẹt, mặt dấu vết mỹ viện tùm lum, diện toàn váy ngắn, guốc cao, lũ đàn ông thì mặt mũi ông nào cũng bặm trợn, trông như lũ cô hồn các đảng, thằng thì trọc lóc, thằng thì tóc dài thậm thượt, đi toàn mô tô, người đầy xăm trổ. Mỗi lần vào xóm, mấy chiếc xe nổ bình bịch, đứng từ dưới bóp kèn, kêu réo om xòm, hàng xóm bực mình lắm, nhưng thấy các các ông các bà ấy, ai cũng hãi nên đành im thin thít, chỉ lén lút chửi thầm con vợ hắn, bảo nhau rằng: Cô giáo gì mà bạn bè toàn như lũ xã hội đen. Vợ hắn không biết học ngôn ngữ ở đâu, mỗi lần nhiếc mắng hắn lại đệm thêm chữ địt và đéo, giọng lại lơ lớ như người miền ngoài. Có lẽ lai theo giọng của đám âm hồn mới nhập băng. Cũng có lần vợ hắn đoái hoài tới hắn, nói muốn giúp cho hắn mua chiếc xe mà đi cho ra hồn người, bởi mang tiếng là vợ hắn mà chồng đi chiếc xe cà tàng mất mặt quá. Vợ hắn hỏi hắn có được bao nhiêu tiền, hắn nghĩ bụng hắn làm gì có tiền, lương tuy sau này vợ hắn không thèm cầm nữa, nhưng cũng chỉ đủ cơm gạo và thuốc lá hàng ngày, chẳng có dư. Hắn chợt nhớ chiếc đồng hồ đeo tay, cái này cha Francois lúc về Pháp cởi ra tặng hắn, Omega đàng hoàng, đã có lần đi chùi dầu, tên sửa đồng hồ gạ mua mười một triệu rưỡi. Hắn nghĩ đồ kỷ niệm, ai lại bán đi. Nhưng bây giờ, mua chiếc xe mới thì cũng phải đành lòng thôi. Hắn bèn bảo vợ: Tôi cũng có thể có khoảng hơn mười triệu khi bán chiếc đồng hồ này. Vợ hắn cười khanh khách: Địt mẹ, có mười triệu mà cũng đòi mua xe. Thôi thì tôi tính như vầy. Xe khoảng ba lăm triệu, tôi cho anh mượn thêm hai nhăm triệu, ngày mai ra tiệm hốt về một chiếc mà đi cho ra cái hồn con người. Thế là hắn có chiếc Honda Air Blade mới tinh. Nhưng vợ hắn chưa bao giờ ngổi cho hắn chở, cô ấy chỉ thích ngồi xe môtô nổ bình bịch, ngồi trên yên đít vểnh lên như con nhái hay cũng giống thế ngồi ỉa trên bàn cầu Mỹ, đằng trước có thằng đầu trọc lóc, xăm trổ tùm lum cầm tay lái, rú ga chạy vù vù.

Cũng trước cái hôm mà sáng ra hắn đi sớm mười lăm phút, vợ hắn đem mấy tên bạn âm hồn xăm trổ của cô ấy ra mà so sánh với hắn. Vợ hắn bảo cũng là một thằng đàn ông giống nhau sao mà một bên trông anh hùng hảo hán, làm ra tiền muôn bạc vạn, ăn chơi toàn chỗ lẫy lừng, còn một bên thì như con cù lần, sống rụt cổ với mớ chữ nghĩa chẳng mang lợi ích gì, suốt đời không ăn được miếng ăn ngon, đến được những chỗ sang trọng, sống thế phí cả đời người. Hắn cũng cãi mấy câu, hắn nói đến triết lí sống, hắn đưa ra cách sống của kẻ sống bằng trí tuệ đương nhiên có lối sống khác của lũ lừa đảo kiếm cơm, quên đi những nỗi đau của đồng bào mình, của dân tộc mình. Vợ hắn gầm lên: Rởm! Địt mẹ suy nghĩ của những thằng trí thức nghèo đéo làm được gì nên tự rúc đầu vào cát. Hắn muốn điên, hắn muốn tát vào cái mồm đĩ thoả của vợ hắn, nhưng hắn kìm lại được, ngồi suốt đêm đốt cháy cả bao thuốc. Cái tánh hắn thế, hắn nhẫn nhục quen rồi.

Sáng hôm đó hắn đi làm sớm mười lăm phút, sau một đêm thức trắng, hắn vẫn là kẻ yêu đời, vẫn cảm nhận được những hạt mưa bụi nhè nhè như sương trong nắng sớm, hắn khe khẽ huýt sáo một bản nhạc vui. Đời vẫn vui, buồn làm chi, quên đi số phận đẩy đưa hắn gặp một người đàn bà, quên đi một kiếp vợ chồng không tìm thấy hạnh phúc. Hắn lái ngang đường Pasteur, quay qua Lê Thánh Tôn, ghé vào gánh xôi bà Lộc, gánh xôi lừng danh có mặt ở góc phố này đã hơn nửa thế kỷ, định mua gói xôi bắp ngon nổi tiếng của bà. Khách hàng đông quá, lớp trong lớp ngoài. Nghĩ mình là khách quen, hắn nhoài người vào cho bà cụ thấy mặt, sẽ ưu tiên gói cho nó một gói. Khách đông không chen vào được, hắn dựng xe, chen vào trong. Bà cụ đã thấy mặt hắn, cười chào, gói liền cho hắn một gói. Hắn hí hửng đi ra, bỏ gói xôi vào giỏ, hắn quay người lại và trái tim muốn rớt ra ngoài. Chiếc xe mới tinh của hắn không còn đó nữa, ai đó đã lấy mất rồi. Hắn hét lên hãi hùng: Xe tui đâu? Xe tui mới dựng đây đâu rồi? Hắn cuống cuồng nhìn từng người, lắc mạnh vai người đứng cạnh: Xe tui đâu? Xe tui đâu? Mọi người quay lại bàn tán, thương cảm cho hắn, nhưng cũng chẳng ai biết xe hắn đâu, ai là người lấy xe của hắn. Có người bày cho hắn đi báo công an, người mách gắn về miệt Gò Vấp tìm đám xã hội đen thuê tìm, mỗi người một ý nháo nhào cả lên. Hắn ngồi phịch xuống lề đường, chiếc túi bỏ nghiêng, gói xôi lăn lóc bên vệ đường. Hắn ôm đầu, vò tóc, hắn không còn là con người bình tĩnh, nhẫn nhục, ít bộc lộ tình cảm như cái tánh thường ngày của hắn nữa. Hắn đau đớn, hắn muộn phiền và tiếc nuối, đánh mất luôn con người của hắn.

2.
Nghe theo lời mọi người, hắn đi báo công an, thủ tục qua loa, chiếu lệ, làm đơn cớ mất rồi về. Hắn buồn không biết đi đâu, gọi điện thoại đến toà soạn xin nghỉ một bữa, rồi lang thang miết, thấy chiếc xe Honda Blade nào cũng nhìn kỹ, cứ ngỡ là xe mình. Hắn lang thang đến trưa, đi ngang qua quán thịt chó đường 3 tháng 2, hắn tạt vào, buồn quá, tập uống chén rượu quên sầu. Gọi mấy dĩa thịt, kêu xị rượu, người ta bảo người say không biết buồn, hắn mong xị rượu này sẽ giúp hắn quên buồn. Hắn uống chậm rãi, cứ mãi ngồi trầm ngâm. Bàn bên cạnh cũng có một người khách ngồi một mình. Lão này người trông cổ quái, để râu ba chòm lượt thượt, ánh mắt sắc cứ láo liên, nhìn như đốt cháy người ta. Lão mặt cái áo jacket đen, đội cái mũ nỉ xưa lắc lơ cũng màu đen. Khuôn mặt xương xẩu xám ngoét, nếu lão cầm thêm lưỡi hái người ta sẽ hình dung ra thần chết hay lão phù thuỷ trong các truyện cổ tích. Lão cứ nhìn sang hắn mà cười, nụ cười bí hiểm làm chòm râu rung rung. Hắn thấy e ngại, cứ cúi mặt mà ăn, lâu lâu nhăn mặt hớp li rượu đắng, hơi rượu tràn đầy hai lỗ mũi. Bỗng hắn thấy có một bàn tay gầy guộc đặt trên vai hắn, hắn hốt hoảng nhìn lui, lão già đã đứng sau lưng hắn, nhìn hắn và cười, phô những chiếc răng nhọn vàng khè: lão nói như rít trong cổ họng: Buồn lắm phải không? Đời mà sao không buồn được. Cho ta ngồi chung cùng uống rượu quên buồn nhé. Độc ẩm làm sao vui. Vừa nói lão vừa ngồi xuống chiếc ghế trống bên cạnh hắn. Hắn gượng cười: Xin mời lão. Và rồi cả hai cùng uống, hết chai này lại kêu chai khác. Lão già vẫn tỉnh queo, còn hắn thì đã say khướt, nhìn một hoá hai, mặt đất cứ quay vòng vòng dưới chân hắn. Lão già bỗng kê miệng sát vào tay hắn: có muốn bay lên trời không? Hắn nhừa nhựa: Là sao? Lão già lại càng sát vào hắn: Là đi trên trời, là cách xa mặt đất đầy khói bụi, là thoát cảnh chen lấn của trần gian, là một mình một cõi khi mọi người phải luồn lách mà sống.

Bỗng dưng hắn nhớ đến những ngày còn bé ở cô nhi viện, những lúc nghĩ đến cảnh sum vầy của một gia đình có cha mẹ, anh em. Hắn thèm lắm một gia đình. Hắn thường leo lên mái nhà cô nhi viện, nhìn sang gia đình hàng xóm đang sinh hoạt hay đang cùng nhau sum họp mà ước ao. Hắn muốn bay lên như chim, bay thật cao, để nhìn thấy được cảnh của nhiều gia đình, bay lên cao để không còn nỗi buồn của đứa trẻ mồ côi. Nhiều khi đi thả diều, nó cũng muốn được như cánh diều bay giữa trời lộng gió, được tự do trong bầu trời xanh biếc. Và trong cơn say hôm nay, có người bảo nó có muốn đi trên trời không, có muốn thực hiện ước mơ của một thời thơ dại. Trong vô thức của quá khứ, hắn gật đầu, hắn muốn được thực hiện ước mơ. Lão già cười, lão bảo hãy há miệng ra, nuốt viên thuốc này, ngươi sẽ đi trên trời giống như đi trên mặt đất, ngươi sẽ thành NGƯỜI ĐI TRÊN TRỜI duy nhất trên thế giới này bằng chính đôi chân của mình. Không chút do dự, hắn há miệng thật to và lão già chỉ dùng hai ngón tay khẩy nhẹ, viên thuốc đi lọt vào thẳng bao tử của hắn. Hắn nghe thấy một luồng hơi nóng chạy dọc sống lưng, đi xuống hai cẳng chân của hắn và nằm ở đó. Đôi chân hắn ấm như đang hơ trên một lò than. Lão già lại kề tai hằn thủ thỉ: Bí mật, giữ bí mật về viên thuốc này, ngươi sẽ sống, bằng ngược lại, ngươi sẽ chết ngay lập tức. Nhớ chưa. Hắn say lắm rồi, đầu đã nghẹo một bên, nước giải chảy bên khoé miệng, nhưng vẫn nghe loáng thoáng những lời cuối cùng của lão. Hắn ngước lên, định đưa bàn tay lên như minh chứng đã nghe và sẽ giữ lời. Nhưng lão già như luồng gió, biến mất tiêu. Hắn rùng mình, lạnh dọc sống lưng và hình như tỉnh rượu đôi chút. Hắn trả tiền và ngật ngưỡng đi về. Hắn không biết phải về đâu, loanh quanh mãi lại thấy về nhà. Lần từng bước lên lầu bảy, hắn thấy trời như sà xuống đầu hắn, cứ quay mòng mòng. Đứng trước cửa phòng, hắn ngại gặp vợ, không biết nói sao về vụ mất xe, nên cứ ngập ngừng trước cửa. Hắn mở hé cửa sổ nhìn vào. Và hắn tỉnh hẳn rượu, hắn thấy trời vẫn trên cao và không quay mòng mòng nữa, nhưng hắn lại thấy máu đông cứng lại, tim như ai bóp nghẹt, không thở được, tay hắn run run và chân thì muốn khuỵ xuống. Hắn nhìn thấy vợ hắn đang làm tình với thằng đầu trọc. Vợ hắn thì rên mà cái mông của thằng trọc thì cứ nhấp nhô đẩy tới. Hắn thắy đắng họng, và hắn lặng lẽ rời đi. Hăn lê bước bải hoải xuống cầu thang và ngồi ở đó cho đến khi mặt trời tắt sau những mái nhà bên kia phố. Hắn không cảm thấy đau, không cảm thấy buồn., nhưng có một vật gì đó cứ khóet mãi trong lòng hắn. Hắn cảm thấy bị sỉ nhục, hắn thấy hắn bị xúc phạm nặng nề. Hắn đã hình dung cảnh này khi chúng hẹn chở nhau đi, nhưng khi chứng kiến trước mắt thì cảm giác hoàn toàn khác.

Rồi hắn cũng phải lên phòng, vợ hắn với chiếc váy hờ hững phủ lên người đang say ngủ, sau cuộc ái ân thoả mãn người ta cần ngủ. Nhưng hắn đang khó chịu trong lòng, hắn đánh thức vợ hắn dậy, trả thù vợ nó bằng cách báo cho biết là chiếc xe ba mươi lăm triệu đã bị mất rồi. Vợ nó tru tréo lên, hết địt đến đéo, ồn ào cả một vùng. Hàng xóm bu lại rồi tản ra, ai cũng lắc đầu. Đợi vợ nghỉ mệt,hắn mới thong thả giằn từng tiếng: Tôi biết rõ hồi trưa cô đã làm tình với ai trên chiếc giường này. Nhà tôi không phải là nhà thổ, cô muốn làm đĩ thì đi chỗ khác, chỗ này không phải là chỗ để mấy người làm chuyện thú vật. Vợ hắn đang há miệng để tiếp tục chửi, nghe hắn nói xong thì khép miệng lại, giọng bớt hàm hồ hơn: Thôi được, tôi cũng muốn chấm dứt lâu rồi, nhưng chưa có dịp, bây giờ tình hình thế này thì tôi sẽ đi, nhà của anh anh ở, anh và tôi cũng chẳng có trói buộc gì nhau, nên cũng chẳng có gì để bàn bạc. Hắn ngồi im, hút thuốc, trở lại chính con người của hắn, thản nhiên trước mọi chuyện. Và rồi vợ hắn đi, chấm dứt một cuộc tình. Cũng xong một đời vợ.

3.
Đêm đó hắn cũng chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Chỉ thấy cuộc sống của hắn thừa thải và vô tích sự quá. Hắn cũng quên mất cơn say bữa trưa, quên mất lão già và câu chuyện huyền ảo của lão. Hắn thấy mình nên chết đi, sống thế cũng đủ cho một đời người rồi, sống nữa cũng chỉ lập lại những điều đã sống. Hắn ngồi trên balcon, nhìn xuống những mái nhà, nhìn thấy những gia đình đang sống với nhau. Ngoài xa kia là khu nhà mới xây của tầng lớp cán bộ cấp cao, những ngôi nhà thật là đẹp, đêm đêm đèn sáng như ngày. Họ ở một thế giới khác không có gì giống cuộc sống và thế giới của hắn và rất nhiều người khác. Hắn liên tục đốt thuốc và trong khoảnh khắc không kìm hãm, hắn đứng trên thềm balcon rổi nhảy xuống trần gian lộn xộn phía dưới. Ra khỏi khoảng không, hai chân của hắn quơ quào trong không khí như bản năng sinh tồn và rồi hắn cảm thấy như đang đứng trên mặt đất, hai chân chạm vào không khí nhưng lại vững chải như đứng trên nền nhà. Hắn thử bước đi, nhưng bước chân chẳng khác chi như đang đi trên đường. Lúc đầu hắn hơi hãi, nhưng rồi nhớ đến lão già trong quán thịt chó, hắn ý thức được rằng điều huyền ảo đó chính là sự thật. Hắn đã đạt được ước mơ của quá khứ. Hắn đi loanh quanh, khi xuống thấp một chút, lúc lại lên cao một chút. Thú vị thật. Hắn men ra khoảng không trống trải phía trước, nhìn xuống giòng xe chạy trên đường, nhìn từng đoàn người lũ lượt chen lấn nhau, hắn cười rú lên thích thú, từ nay hắn đã có một thế giới mới, một thế giới khác loài người nhưng vẫn ở trong thế giới này. Bỗng có người ở dưới kia phát hiện ra hắn đang lửng lơ giữa trời, đoàn xe đang chạy đứng hẳn lại, đoàn ngưới đang lũ lượt cũng đứng hẳn lại, tất cả đều ngước mắt lên để nhìn thấy hắn. Có nhiều ánh chớp loé của máy chụp hình, có tiếng la hét của đám đông. Hắn sợ, thế giới của hắn đã bị phát giác, rồi sẽ bị phá vỡ, hắn lật đật chạy vào phòng, đóng cửa và ngồi thở. Hắn sẽ bị phát hiện, cuộc sống của hắn sẽ không còn như cũ nữa.
Đêm đó, hắn chìm trong giấc ngủ mộng mị trên chiếc giường mà đã mấy tháng rồi hắn không được ngã lưng.

Ngay sau đấy chỉ năm phút, tất cả báo mạng ở Sài Gòn đều đăng bài về một con người thần bí đi được trên trời, nhưng rất tiếc không có tấm hình nào đủ rõ để thấy được nhân vật. Sáng hôm sau cũng thế, tất cả tờ báo đểu đăng tin nhân vật kỳ bí đang đi trên trời, cũng chẳng có tấm hình nào rõ mặt. Các tôn giáo đều cho rằng đó chính là thánh chủ của tôn giáo mình. Nhiều người dân đem hoa, đem nến đặt ngay khu vực nhìn thấy người đi trên trời, nhiều kẻ còn quỳ lạy cầu xin, khấn vái cho đến hết đêm. Báo chí nóng như hơ trên lò lửa, bịa ra nhiều chuyện kỳ bí, đặt nhiều tít rất dữ dội để câu view. Đám phóng viên ảnh mang nhiều ống kính dài cả thước chầu chực suốt ngày, đám phóng viên mang laptop, ipad gặp ai cũng phỏng vấn có thấy gì không. Chính quyền, công an, an ninh chuẩn bị phương án, họp bàn đến tối mịt. Nhưng người đi trên trời vẫn bặt vô âm tín. Hắn đang đi đâu?

4.
Sáng hôm đấy hắn rời nhà sớm. Đi bộ. Đương nhiên. Xe mất rồi thì đi bằng hai chân thôi. Và hắn lại chợt nhớ ra đêm qua hắn đã đi được ở trên trời. Hắn nghĩ: giá mà không có ai để ý nhỉ, hắn phi một cái lên chỗ bát ngát kia, lượn lờ đến cơ quan, sướng phải biết. Ngang chỗ cô Ba cà phê, hắn vẫy tay chào, cô Ba nói với theo: Thầy Tư hôm nay lại đi sớm. Trong giọng nói có chút thương hại khi cô nghĩ đến cảnh nhà hắn hôm qua. Cuộc chia ly của một cuộc tình. Gì cũng thấy xót xa. Hắn chờ ở trạm xe buýt, phố dần đông, nhiều người đi ngang chỗ toà chung cư cũ xì của hắn, ngước nhìn chỉ chỏ.

Hắn đến cơ quan và vào bàn như mọi lần, xấp bài nằm một chồng trên bàn, hắn phải sửa xong trước trưa nay. Hắn lại thấy đang lười, hắn là thằng rất nghiêm chỉnh và có trách nhiệm trong công việc. Nhưng giờ thì hắn thấy oải. Phía bên kia, nhóm dàn trang và trình bày báo đang xúm lại trước màn hình. Tên trưởng nhóm đang phân tích gì đấy trên hình. Hắn không ưa tên này, mặt dơi, tai chuột lại ti hí mắt lươn. Người đã xấu tánh tình lại rất tệ. Chuyên đi soi mói chuyện người khác. Tên này làm công tác đoàn, đang là đối tượng phấn đấu vào đảng. Tên này hay lân la hỏi chuyện hắn, hỏi như điều tra, nhưng tánh hắn không thích nói nhiều về mình cho kẻ khác, cho nên trong ý nghĩ của tên này, hắn có điều gì che dấu, nên cứ tìm cách gợi chuyện hoài. Bỗng dưng tên này hét lên: A đù!!! Tui nghĩ ra rồi. Hắn click chuột, zoom hình lên và hỏi: Thấy giống ai không? Mới nhìn tui đã ngờ ngợ. Cả đám nhìn vào rồi ngước nhìn qua bàn hắn. Hắn chột dạ, hình như cả đám đã thấy gì đó liên quan đến hắn, dính líu cái vụ đi trên trời đêm qua chăng? Cái tin này đang hot quá mà! Hắn cúi mặt như muốn che đi mặt mình, làm như đang cắm cúi say mê với công việc, nhưng hai tai giỏng lên lắng nghe chúng nó nói gì. Có đứa bảo: Ừ! Có vẻ giống. Nhưng mà không lẽ... Có thằng lại gạt đi: Chuyện tầm phào, thằng cha cù lần đấy mà làm gì làm được chuyện động trời thế? Lại có kẻ bảo: Mấy ông rảnh quá hà. Làm việc đi! Chỉ có tên trưởng nhóm sau khi buông tiếng A đù là trầm ngâm, nó liếc qua hắn, liếc đến mấy lần. Hắn không hiểu trong đầu tên đó đang suy nghĩ gì, nhưng hắn biết chắc suy nghĩ đó có liên quan đến hắn.

Trưa ăn cơm ở căn tin, tên này đến vỗ vai hắn và hỏi: Đêm qua đi đâu thế? Hắn cảnh giác: Đi đâu là đi đâu? Nằm ngủ sớm chứ đi đâu? Có chuyện gì à? Tên này cười giả lả, hai mắt tít lại như hai sợi dây chì, cái tai chuột rung rung: Hỏi chơi thôi. Thế là tốt. Hắn nghĩ, chắc tên này đã phát hiện chi rồi, ngồi ăn cơm mà hắn thấy bụng lo lo, dính với thằng này là lắm rắc rối, nó là thằng rất thông minh nhưng cũng rất nham hiểm. Phải nghĩ cách đề phòng mới được.

Khuya. Không ngủ được, hắn ra balcon ngồi hút thuốc, thấy lòng thật trống trải, thấy đời buồn tênh. Dưới kia giòng người vẫn trà trộn nhau đi tới, luẩn quẩn với những kế sinh nhai. Hắn muốn bước ra khoảng không gian của trên trời kia, đi trên tất cả muôn người, lặng lẽ một thế giới khác, không đua chen, không lấn bước ai. Nhưng hắn ngại. Hắn sợ lại bị phát hiện như đêm qua. Hắn biết, dưới kia có bao kẻ ngồi rình chờ đợi sự xuất hiện của hắn. Hắn đành kìm hãm khát khao lại. Ngồi nhìn đêm trôi đi.

Mấy ngày rồi, tin người đi trên trời chẳng thêm gì mới. Một ngày biết bao chuyện lướt qua đời, cha hiếp con, vợ cắt của quý của chồng, ca sĩ trẻ chửi nghệ sĩ già, đồng tiền tụt giá, cán bộ bị bắt, chuyện phá núi xây vila, chuyện quan nuôi gái tốn hàng tỉ đồng mua xe, sắm nhà, chuyện nhà đất đang lên giá, cô diễn viên đóng phim lộ cả mông trần, clip sex thầy chùa làm tình bằng miệng mấy chục phút, tay chơi trẻ lộ clip làm tình với cả đàn người đẹp.., Những tin tức dồn lên nhau, đè lên nhau tràn ngập báo chí, che khuất dần chuyện có một người đi ở trên trời. Có thể người ta chưa quên, nhưng người ta không nhắc đến nữa.
Hằng đêm, hắn ngồi ở hàng hiên, nhìn xuống đường, rồi nhìn lên trời. Đêm hè, trời cao tít đầy sao. Hắn thèm được đi trong không gian đó, để được thong dong quên sự đời. Hơn tuần nay rồi, những phút khát khao như thế, hắn cảm giác đôi chân như có lửa, nóng ngùn ngụt, cứ thúc hắn bước qua cái bờ xi măng, bước đến cái không gian vô tận chào mời. Nhưng hắn sợ, một nỗi sợ mơ hồ, hắn biết vẫn có người đang rình rập dưới kia chờ cơ hội, chỉ cần hắn bước đi trên không gian kia, hình ảnh của hắn sẽ bị thu vào ống kính ngay, và hậu quả như thế nào, hắn cũng chưa hình dung ra nổi.

Một đêm, không ngủ được, hắn trằn trọc mãi. Nóng. Cái nóng mùa hè cộng thêm cái nóng như lửa đốt đôi chân, cứ hối thúc hắn đứng dậy và thôi thúc hắn trôi ra khoảng không gian đầy gió. Và khi chịu hết nổi, hắn đành đầu hàng. Hắn trùm áo khoác đen có mũ, bịt khẩu trang màu tối, mang kính đen thay cái kính cận có đôi mắt lấp lánh, hắn bước ra ngoài và đi. Lúc đó đã khuya lắm rồi, đường vắng, hắn men theo những hàng cây và những góc tối. Hắn đi càng lúc càng cao, những bước chân nhẹ nhàng thật êm ái, những bước chân như bước trên tấm đệm không khí mới thoải mái làm sao! Hắn không dám đi xa, chỉ loanh quanh trên trời cao khu vực nhà hắn. Phía bên kia, dãy vila của cán bộ lúc nào cũng sáng choang đèn đuốc, hắn muốn một lần qua đó, nhìn vào những căn nhà đẹp đẽ kia, nhưng hắn sợ bị phát hiện. Bên đó là biểu tượng của sự giàu sang, quyền lực, phía chung cư hắn ở như mảng đối lập, cũ kỹ, tối tăm, rệu rã. Hắn trở về lúc ánh sáng của bầu trời bắt đầu ngày mới và hắn cảm thấy thật sung sướng, thật hạnh phúc sau nhiều giờ lang thang ở trên trời.
Kể từ hôm đó, đêm nào hắn cũng tranh thủ ngủ sớm, khuya lại thức dậy, choàng đồ đen ngao du giữa trời. Càng ngày không gian hoạt động của hắn càng mở rộng và một hôm hắn đánh bạo bước qua thế giới của ánh đèn bên kia đường. Hắn nhìn vào thế giới đó và choáng ngợp. Nhà nào cũng đẹp, đồ đạc toàn thứ bóng lộn đắt tiền. Nhà nào cũng có vườn cây, ao cá, hồ bơi, thảm cỏ xanh rì. Căn phòng nào cũng đầy đủ tiện nghi. Đúng là ở thời đại này, không ai giàu hơn cán bộ lãnh đạo. Từ hôm đó, hắn khoái lân la khu vực này, vì phía bên kia chỉ là mảng tối đen, xám ngoét. Phía bên này, hắn thấy được nhiều điều, nhiều cảnh khác lạ. Hắn nhìn vào từng ngôi nhà, từng căn phòng cửa để ngỏ, và có hôm hắn nhìn thấy lão già làm tình với cô gái trẻ măng, có bữa lại bắt gặp một cặp phi công trẻ lái máy bay bà già, có đêm lại nhìn thấy hai đứa trẻ làm tình ngay hàng hiên. Hắn tự hỏi, sao giới này làm tình loạn cả lên vậy nhỉ. Hắn cũng từng nhìn thấy trong căn phòng tràn ngập tiền lấy ra từ các phong bì, cả vợ lẫn chồng ngồi đếm. Có khi thấy cả vàng và kim cương lấp lánh. Đặc biệt, hắn thường đứng trên cao để nhìn những tiệc tùng đầy ắp thức ăn ngoài sân với những chiếc đèn cao áp sáng rực, xe hơi sắp hàng dài và những người phục vụ lăng xăng trong tiếng nhạc xập xình, đôi khi xuất hiện những ca sĩ đình đám và nhiều lãnh đạo cấp cao. Hắn lạ lẫm không khí đó, vì từ nhỏ đến lớn, hắn chưa bao giờ được tham dự những bữa tiệc thế này. Con mồ côi, ở cô nhi viện, lớn lên thì kiếm cơm hộc máu, lễ tiệc thế này trước đây hắn chỉ thấy trong phim ảnh hay trong cuốn tiểu thuyết. Đó là một thế giới khác, hoàn toàn khác với thế giới hắn đang sống. Và chính cái tính tò mò đó đã hại hắn. Lần đó tiệc lớn lắm, tổ chức trong căn vi la lớn nhất khu đó, có ca sĩ Tuấn Ngọc đến hát. Đó là giọng ca hắn hâm mộ, một giọng trầm ấm, đầy nam tính mà chất chứa hồn phách của những ca từ. Anh ta hát như hơi thở. Bữa nay anh ấy hát bài Riêng một góc trời, bài hát hắn thích, nên nghe mê mẩn. Tiếng hát vút lên ở cuối đoạn, hắn đắm say với tiếng hát, lời ca nên cứ từ từ hạ thấp độ cao lúc nào không hay. Có một ánh chớp loé của máy ảnh làm hắn giật mình, hắn chỉ kịp nghiêng mình né luồng ánh sáng rồi vút đi như chạy trên đường, tim thình thịch. Hắn nghĩ đã có ai đó chụp được tấm hình của hắn. Hắn sợ, cả đêm đó hắn nằm thao thức mãi.

Sự kiện người đi trên trời lại được khơi dậy khi một tờ báo đăng hình ảnh độc quyền chụp được người đi trên trời. Tấm hình chụp nghiêng, một người mặc đồ đen từ đầu đến chân, nét mặt được ánh đèn rọi vào nên cũng thấy được phần nào khuôn mặt. Báo chí lại rần rần. Nhiều tít giật gân được tung ra: "Người đi trên trời: những bí ẩn"."Bức chân dung của người bí mật", "Người đi trên trời là ai?", "Những khám phá hé lộ người đi trên trời"....Thiên hạ lại xôn xao, báo mạng liên tục giật tít, người người ngồi bàn luận, đoán mò khắp phố và đầy các vỉa hè. Ban lãnh đạo thành phố họp, công an lập chuyên án, bộ đội chuẩn bị diễn tập. Thành phố mùa hè đã nóng càng nóng hơn. Hắn bắt đầu thấy sợ hãi hơn, đi đường hắn đội cái mũ sùm sụp, tránh nhìn mọi người. Đến cơ quan, hắn cúi mặt làm việc, không dám lân la nói chuyện như bình thường. Hình như tên mặt dơi tai chuột đó cứ nhìn hắn mãi. Y dán mắt vào màn hình, phóng to hình trên báo rồi cứ liếc hắn, rồi lại nhìn hình. Hắn lo. Thằng này quái lắm, chắc chắn là hắn nhìn thấy điều gì đó trong hình rồi. Y bước qua bàn hắn, nhìn xuống đôi sandal của hắn và y cười khoái trá, hai con mắt tít lại như hai vết chì, hàm răng hô càng vẩu ra. Hắn chột dạ vì tiếng cười hả hê của y. Chết mẹ, chắc hắn nhìn ra đôi sandal. Kiểu này chắc khó thoát rồi, mồ hôi tứa ra ướt cả lưng hắn.

Chiều hôm đấy, khi bước ra cổng toà soạn, thấy bên đường ở quán cà phê vỉa hè có hai thanh niên đứng dậy bước sang đường, hắn đã thấy lòng nghi ngại rồi. Hai người tiến đến kẹp sát hắn, một người móc trong túi một chiếc thẻ màu đỏ đưa ngang tầm mắt hắn, nhưng hắn chẳng thấy gì, tay kia vừa kẹp tay hắn vừa nói như rít trong cổ họng: Anh đã bị bắt, đi theo chúng tôi, không nên kháng cự vô ích. Hắn có cảm giác như bị dìu đi. Và hắn chẳng kịp phản ứng gì, bước chân vẫn bình thường băng qua đường đến chiếc xe hơi chờ sẵn.
Hắn quay lại ngước nhìn trên cửa sổ của toà soạn, thấy thằng tai chuột chồm ra nhìn xuống với vẻ mặt hân hoan, đắc thắng kèm nụ cười ngạo nghễ.

Thế là hắn đã bị bắt. Người đi trên trời đã bị bắt. Nhưng báo chí im re, không một tờ báo nào đăng tin này, kể cả hàng loạt báo mạng. An ninh và tuyên huấn chỉ thị đây là chuyện bí mật quốc gia, báo chí không được léng phéng..
(Còn tiếp)
ĐỖ DUY NGỌC


Nắng xuống tím loang tràn mặt nước
Bên đường hoảng hốt tiếng chim kêu
Một mình xao xác bàn chân bước
Vật vã càn khôn nát bóng chiều


Trần gian bỗng lạ hơn hôm trước
Cây cỏ rùng mình gió lắt lay
Nhân sinh dấu mặt sau làn vải
Bè bạn gặp nhau không bắt tay

Thế giới hoang vu như nấm mộ
Kẻ thù lơ lửng nhuộm không gian
Không tu nhưng lắm người đốn ngộ
Mắt mở đăm đăm ngó lụi tàn

Xác người xếp lớp như củi mục
Nửa đêm ma quỷ lẫn chung người
Cuộc sống quẩn quanh như tù ngục
Trái đất hoàng hôn vắng tiếng cười

Phố đầy bóng quạ thay thần chết
Nhà cây rũ bóng chít khăn tang
Lấp ló bên song đầy nước mắt
Buồn dựng thành cây đứng xếp hàng

Bao giờ trở lại ngày tháng cũ
Mặt trời sáng rực cõi an nhiên
Tiếng kinh xua đuổi mầm ủ rũ
Có toà sen nở góc hàng hiên

Con chim hót lại bên cửa sổ
Tà áo lung linh giữa mọi miền
Vỗ tay từ giã niềm thống khổ
Tràn mộng hân hoan đượm chút thiền
23.4.2020
DODUYNGOC



Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử.

Trong thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ, Thầy trò Khổng Tử cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và cũng có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo Thầy đến cùng.

May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm.

Tại sao Khổng Tử lại giao cho Nhan Hồi, một đệ tử đạo cao đức trọng mà Khổng Tử đã đặt nhiều kỳ vọng nhất, phần việc nấu cơm? Bởi lẽ, trong hoàn cảnh đói kém, phân công cho Nhan Hồi việc bếp núc là hợp lý nhất.

Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi thổi cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên, đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ.

Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở vung, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy vung lại, liếc mắt nhìn chung quanh, rồi từ từ đưa cơm lên miệng.

Hành động của Nhan Hồi không lọt qua khỏi đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Học trò nhất của ta mà lại đi ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Chao ôi! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!”

Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn nằm im đau khổ.

Một lát sau rau chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử xơi cơm.

Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, Thẩy rất mừng vì trong hoàn cảnh loạn lạc, dãi nắng dầm mưa, đói khổ như thế này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, các con vẫn yêu thương đùm bọc nhau, các con vẫn một dạ theo Thầy, trải qua bao nhiêu chặng đường đói cơm, khát nước. Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn làm sao Thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm Thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ. Thầy nhớ đến cha mẹ Thầy, cho nên Thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ Thầy, các con bảo có nên chăng?

Trừ Nhan Hồi đứng im, còn các môn sinh đều chắp tay thưa: “Dạ thưa, nên ạ!”

Khổng Tử lại nói: “Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?”

Tất cả học trò không rõ ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau.

Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch.”

Khổng Tử hỏi: “Tại sao?”

Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đó con liền xới lớp cơm bẩn ra, định vứt đi, nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình làm mất một phần ăn, anh em hẳn phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép Thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng Thầy và tất cả anh em. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa Thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ!

Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật! Chao ôi! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”

Lời bàn:

“Thấy mới tin, không thấy thì không tin” câu nói này dường như đã trở nên quen thuộc với rất nhiều người, chẳng vậy mà dân gian vẫn thường truyền tụng câu: “Trăm nghe không bằng một thấy”, Tuy nhiên vẫn có nhiều việc: thấy rằng mười mươi là như thế mà vẫn chưa hẳn là như thế! Bởi lẽ đằng sau mỗi sự việc hiện tượng còn có các mối quan hệ nhân duyên chồng chồng chéo chéo vô cùng phức tạp, biến ảo khôn lường.

Cho nên mới nói: chỉ dựa vào “đôi tròng mắt thịt” này mà đã vội vã kết luận về một con người hay vấn đề hoặc sự vật hiện tượng nào đó là tốt hay là xấu thì nhiều khi quả là không thể tránh khỏi những nhận định chủ quan phiến diện, thậm chí là sai lầm đến mức hồ đồ, để rồi khi kịp nhận ra và muốn sửa sai hay khắc phục thì e rằng cũng là quá muộn.

Lại có những sự việc hiện tượng con người ta không thể nghe thấy, không thể nhìn thấy, lại càng không thể sờ thấy mà vẫn luôn hiển nhiên tồn tại như một chân lý khách quan vĩnh hằng và bất biến, vậy nếu ta vẫn giữ nguyên quan điểm: “Thấy mới tin, không thấy thì không tin” thì thử hỏi làm sao mà tiếp cận chân lý một cách sáng suốt và thấu đáo cho được! Ví thử như chuyện nhân quả nghiệp báo, chuyện tích đức hành thiện, chuyện đề cao cảnh giới tư tưởng và thăng hoa tầng thứ sinh mệnh con người thông qua tu luyện và hồi thăng những giá trị đạo đức truyền thống…

Bởi thế nên con người ta ngoài phần nhận biết sự việc hiện tượng một cách cảm tính thì cũng cần có sự suy xét vấn đề một cách khách quan và lý tính. Việc nhỏ cũng như việc lớn nếu không thật sự bình tĩnh, khoan dung, dùng trí huệ mà suy xét vấn đề thì e rằng đến cả bậc thức giả, hiền triết cũng khó mà tránh khỏi có những lúc đưa ra nhận định chủ quan sai lầm không đáng có.


Trước đây trong một buổi nói chuyện với một số sinh viên ở Sài Gòn, có một bạn đặt câu hỏi với tôi về tổ chức hành chánh cấp tỉnh trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Câu hỏi khó trả lời liền tại chỗ vì cần phải có tư liệu. Thời gian này đang giãn cách xã hội vì con virus Vũ Hán, có dư thời gian rảnh nên lục tìm tư liệu để trả lời thắc mắc của bạn. Đưa luôn lên đây để mọi người cùng tham khảo.

TỔ CHỨC CẤP TỈNH THỜI VIỆT NAM CỘNG HOÀ

Tỉnh của Việt Nam Cộng hòa là đơn vị hành chính lớn nhất dưới cấp Quốc gia. Dưới cấp tỉnh là quận, không phân biệt đô thị hay nông thôn.

Vào thời Đệ Nhất Cộng hòa, Chính phủ còn dùng đơn vị Trung phần và Nam phần về mặt pháp lý và lập bốn Tòa Đại biểu Chính phủ đặt tại các thành phố và thị xã trung tâm của bốn khu vực:
1. Cao nguyên Trung phần (Đà Lạt)
2. Duyên hải Trung phần (Huế)
3. Miền Đông Nam phần (Sài Gòn)
4. Miền Tây Nam phần (Cần Thơ).

Sau năm 1963 thì hai danh từ Trung phần và Nam phần chỉ ấn định địa lý.

Khi tiếp thu quyền lực từ người Pháp năm 1954 thì khu vực phía Nam Vĩ tuyến 17, kể cả năm tỉnh thuộc Hoàng triều Cương thổ, tổng cộng có 32 tỉnh. Tỉnh nhỏ nhất dưới 500 km², lớn nhất hơn 20.000 km². Dân số các tỉnh cũng chênh lệch nhau khá nhiều: có tỉnh dưới 30.000 dân, tỉnh đông nhất hơn một triệu dân.

Tổ chức thời Đệ Nhất Cộng hoà:(Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm)
Đứng đầu tỉnh là tỉnh trưởng do tổng thống bổ nhiệm và báo cáo lên thủ tướng và bộ trưởng Bộ Nội vụ. Trách nhiệm của tỉnh trưởng gồm soạn ngân sách, điều hành lực lượng Nhân dân Tự vệ, giữ gìn an ninh trật tự và kiểm soát việc hành chánh.

Tỉnh trưởng có thể là quân nhân hoặc công chức. Cấp tỉnh không có mô hình cơ quan nghị luận. Tỉnh trưởng có toàn quyền hành pháp, thi hành mệnh lệnh trung ương; riêng ở vùng có dân thiểu số sắc tộc thì có thể gia giảm để thích hợp với tình hình địa phương.
Tỉnh trưởng cũng có quyền bổ nhiệm hội đồng xã và đề cử quận trưởng để tổng thống phái bổ. Nói chung thì tỉnh trưởng trực thuộc phủ tổng thống hoặc thông qua Bộ Nội vụ hay Tòa Đại biểu Chính phủ ở miền đó.

Thời Đệ Nhị Cộng hoà:(Thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu)
Đứng đầu tỉnh là Tỉnh trưởng (quân nhân, thường là cấp Trung tá trở lên, hầu hết là cấp Đại tá) và Phó tỉnh trưởng (dân sự). Cả hai do Tổng thống bổ nhiệm và thông qua Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tỉnh trưởng có trách nhiệm trật tự an ninh, soạn ngân sách, và điều hành lực lượng Nhân dân Tự vệ còn Phó tỉnh trưởng có trọng trách hành chánh. Chiếu theo Hiến pháp thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam thì người dân có quyền bỏ phiếu chọn Tỉnh trưởng nhưng trong tình trạng chiến tranh không thể tổ chức bầu cử địa phương ở mọi tỉnh được, Điều 65 cho phép Tổng thống nắm quyền bổ nhiệm Tỉnh trưởng.

Trong khi ở cấp trung ương có các Bộ điều hành thì ở cấp tỉnh có các Ty:
1 Ty Hành chánh: điều hợp các chương trình, tổ chức bầu cử, phát thẻ cử tri, báo cáo với Trung ương
2 Ty Cảnh sát Quốc gia: kiểm tra lý lịch, cấp thẻ căn cước
3 Ty Thông tin: quảng bá tin tức và chính sách Chính phủ
4 Ty Canh nông: trông coi nông nghiệp
5 Ty Điền địa: đo đạc đất đai, cấp phát đất cho người định cư
6 Ty Tài chánh: kiểm soát chi thu
7 Ty Kiến thiết: vẽ mẫu thực hiện các công trình
8 Ty Công chánh: thực hiện công trình đào giếng, ống nước máy, cống nước, đắp đường, bắc cầu
9 Ty Xã hội: phụ cấp nhu yếu phẩm cho người nghèo, kiểm soát các cơ sở như Cô nhi viện
10 Ty Thanh niên: tổ chức các đoàn thể, các chương trình thể dục, thể thao, văn nghệ
11 Ty Tiểu học: tổ chức trường sở, giáo viên
12 Ty Y tế: trông coi trạm xá phát thuốc, chích ngừa, vệ sinh công cộng
13 Ty Tỵ nạn cộng sản: ở những tỉnh thiếu an ninh, giúp cứu trợ và định cư

Sang thập niên 1970 việc phân phối các ty có thay đổi như sau:
• Ty Tài chánh đổi thành Ty Ngân sách và Kế toán
• Thêm các Ty Nội an, Ty Kinh tế, Ty Công vụ, Ty Nhân dân tự vệ và Ty Phát triển Sắc tộc ở các tỉnh Cao nguyên Trung phần.

Ty ở cấp tỉnh chấp hành lệnh của Tỉnh trưởng cùng những chỉ thị của Trung ương, tức các Bộ trưởng. Dưới các ty là phòng hoặc sở.
Tương đương với tỉnh nhưng dưới quy mô nhỏ hơn là các thị xã, đứng đầu là Thị trưởng. Riêng Sài Gòn có Đô trưởng cho Đô thành Sài Gòn.
Ngoài các ty, mỗi tỉnh còn có Hội đồng tỉnh, số lượng nghị viên tùy thuộc vào dân số mỗi tỉnh nhưng tối đa là 30 nghị viên. Hội đồng tỉnh có quyền quyết nghị, kiểm soát và tư vấn.

Các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh:
Năm 1966, 44 tỉnh của Việt Nam Cộng hòa được chia thành 241 quận, sau tăng lên 247 quận. Quận trưởng do tỉnh trưởng đề cử và thủ tướng bổ nhiệm.
Dưới quận là xã và thôn. Toàn quốc có 2.589 xã. Tính đến năm 1974 thì chính phủ kiểm soát 2.159 xã. Ngoài Đô thành Sài Gòn ra còn có 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá. Dưới xã là thôn ấp, tổng cộng có hơn 15.000 đơn vị.
Cấp tổng bị loại bỏ dần kể từ năm 1962.

Việc cai trị ở cấp xã trước kia tự trị thì năm 1956 thời Đệ Nhất Cộng hòa hội đồng xã phải do tỉnh trưởng bổ nhiệm. Sang thời Đệ Nhị Cộng hòa thì việc điều hành ở cấp xã trả lại cho địa phương. Hội đồng xã do cư dân 18 tuổi trở lên bầu ra. Những xã dưới 2.000 dân thì bầu ra hội đồng 6 người. Xã trên 10.000 dân thì được bầu 12 người.

DANH SÁCH CÁC TỈNH TỪ THỜI ĐỆ NHẤT CỘNG HOÀ ĐẾN 1975

Không lâu sau khi lên chấp chính, bắt đầu từ năm 1956, Chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa xúc tiến cải tổ cho nền hành chính thêm đồng đều và dễ kiểm soát hơn, phân chia lại địa giới, biến đổi diện tích và dân số của nhiều tỉnh.

Đầu năm 1956, thành lập thêm các tỉnh Tam Cần (9 tháng 2 năm 1956), Mộc Hóa (17 tháng 2 năm 1956), Phong Thạnh (17 tháng 2 năm 1956), Cà Mau (9 tháng 3 năm 1956).

Theo sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa thì Nam phần (tức Nam Bộ) gồm 22 tỉnh và Đô thành Sài Gòn.

Như vậy, toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 35 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Kon Tum, Pleiku, Darlac, Đồng Nai Thượng, Phước Long (tên cũ: Bà Rá), Bình Long (tên cũ: Hớn Quản), Long Khánh (tên cũ: Xuân Lộc), Biên Hòa, Bình Tuy, Phước Tuy (tên cũ: Bà Rịa-Vũng Tàu), Bình Dương (tên cũ: Thủ Dầu Một), Tây Ninh, Gia Định, Long An (gộp Chợ Lớn và Tân An), Kiến Tường (tên cũ: Mộc Hóa), Kiến Phong (tên cũ: Phong Thạnh), Định Tường (gộp Mỹ Tho và Gò Công), Kiến Hòa (tên cũ: Bến Tre), Vĩnh Long, Vĩnh Bình (tên cũ: Trà Vinh), An Giang (gộp Long Xuyên và Châu Đốc), Phong Dinh (tên cũ: Cần Thơ), Kiên Giang (gộp Rạch Giá và Hà Tiên), Ba Xuyên (gộp Bạc Liêu và Sóc Trăng), An Xuyên (tên cũ: Cà Mau), Côn Sơn và Đô thành Sài Gòn.

Ngày 19 tháng 5 năm 1958, lập 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức từ tỉnh Đồng Nai Thượng.

Ngày 23 tháng 1 năm 1959, lập 2 tỉnh Quảng Đức và Phước Thành.

Ngày 21 tháng 1 năm 1961, lập tỉnh Chương Thiện.

Năm 1962, lập 2 tỉnh Quảng Tín (31 tháng 7 năm 1962) và Phú Bổn (1 tháng 9 năm 1962).

Năm 1963, lập 2 tỉnh Hậu Nghĩa (15 tháng 10 năm 1963) và Gò Công (20 tháng 12 năm 1963).

Ngày 8 tháng 9 năm 1964, lập 2 tỉnh Châu Đốc và Bạc Liêu.
Năm 1965, bỏ 2 tỉnh Côn Sơn (21 tháng 4 năm 1965) và Phước Thành (6 tháng 7 năm 1965).

Ngày 24 tháng 9 năm 1966, lập tỉnh Sa Đéc.

Đơn vị đông dân nhất là Đô thành Sài Gòn: 1.332.872 người, ít dân nhất là tỉnh Côn Sơn: 1254 người.( Thống kê năm 1964)

Từ đó cho đến năm 1975, Việt Nam Cộng hòa có 44 tỉnh và Đô thành Sài Gòn:
Quảng Trị | Thừa Thiên | Quảng Nam | Quảng Tín | Quảng Ngãi | Kon Tum | Bình Định | Pleiku | Darlac | Phú Yên | Phú Bổn | Khánh Hòa | Ninh Thuận | Tuyên Đức | Quảng Đức | Bình Thuận | Lâm Đồng | Phước Long | Bình Long | Bình Tuy | Long Khánh | Bình Dương | Tây Ninh | Phước Tuy | Biên Hòa | Hậu Nghĩa | Gia Định | Long An | Kiến Tường | Gò Công | Định Tường | Kiến Phong | Châu Đốc | Kiến Hòa | Vĩnh Long | Sa Đéc | An Giang | Kiên Giang | Vĩnh Bình | Phong Dinh | Ba Xuyên | Chương Thiện | Bạc Liêu | An Xuyên.

Tham khảo
  1. Nguyễn Quang Ân. Việt Nam, những thay đổi địa danh và địa giới hành chính (1945-2002) (Do nhà xuất bản Thông Tấn in ấn và phát hành ngày 4/1/2002)
  2. Anh Thái Phượng. Trăm Núi Ngàn Sông. Gretna, LA: Nhà xuất bản Đường Việt, 2003.
  3. Duncanson, Dennis. Government and Revolution in Vietnam. New York: Oxford University Press, 1968.
  4. Ministry of Foreign Affairs. Vietnamese Realities. Saigon: Ministry of Foreign Affairs of the Republic of Vietnam, 1967.
  5. Nguyen Ngoc Bich, et al. An Annotated Atlas of the Republic of Viet-Nam. Washington, DC: Embassy of Viet-Nam, 1972.


Hôm nay đọc tin trên báo, thấy Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân Hà Nội đã chế tạo ra cái máy phát gạo cho người gặp khó khăn trong mùa đại dịch. Điều mà những người làm ra chiếc máy này tự hào là sẽ không người nào có thể gian lận để lãnh lần thứ hai. Để làm được điều đó, người xin gạo phải gỡ khẩu trang cho máy ghi hình nhận diện, khai rõ họ tên khi đứng trước hệ thống máy quét, đồng thời cung cấp địa chỉ, hệ thống sẽ ghi lại gương mặt, giọng nói. Đây cũng là phần mềm do cán bộ công nghệ thông tin của trường tự thiết kế, đảm bảo nguyên tắc trong 1 tuần, 1 người chỉ được nhận 1 lần. Tui đọc và nhìn kỹ thì có thấy cái máy phát gạo nào đâu, chỉ có một quầy để gạo, ai đủ thủ tục thì lấy một bao, chả có máy nào phát. Nếu gọi là máy chỉ là hai máy vi tính với hai màn hình gắn micro để gọi và computer ghi hình. Thế mà gọi là máy à, trời ơi là trời, phát minh với sáng chế chi lạ rứa trời!!! hê... hê

Trong chuyện làm từ thiện, việc có nhiều người có lòng tham cũng có, họ sẽ tìm cách lấy cho mình đôi ba phần, điều đó là chuyện không tránh khỏi, nhưng đó không phải là chuyện phải băn khoăn. Tuy nhiên phải hiểu rằng có trường hợp những người vì tuổi già, sức yếu, những người bị bệnh tật phải nằm một chỗ, họ cũng đang thiếu ăn, họ cũng đang ngặt nghèo hơn cả những người đi đến chỗ phát gạo để lãnh một suất từ thiện. Họ phải nhờ hàng xóm, người thân xin giúp một phần để qua cơn đói, nhưng như thế này thì họ đành thua. Hơn nữa, chỉ để lãnh được 3kg gạo mỗi tuần, thật sự trị giá cũng không bao nhiêu mà họ phải bị chụp hình, phải khai tên họ, địa chỉ nhà cửa, phải bị ghi hình, tiếng nói thì nghĩ có vẻ nhẫn tâm quá. Dùng chữ "máy thông minh" nghe cũng khiên cưỡng vì với các thiết bị máy móc thông thường hiện nay, việc ghi hình và giọng nói là chuyện quá tầm thường, có gì mà phải gọi là thông minh để xâm phạm quyền riêng tư của người khác. Người càng nghèo càng nhiều tự ái, bởi họ mang mặc cảm trong người. Cho tiền một người hành khất mà hỏi tên họ, địa chỉ nhà cửa là sẽ bị khó chịu ngay. Nếu đưa máy lên chụp hình nữa thì chắc là bị chửi thầm hay bị phản ứng công khai ra mặt Giúp một người nào đó mà đào sâu nhân thân của họ cũng sẽ nhận lấy thái độ thiếu thiện cảm vì họ cho là bị xúc phạm. Người nghèo thường dấu thân phận của mình, đi xin thường che giấu mặt, bây giờ lãnh mấy ký lô gạo lại bị lột trần dưới mắt mọi người, họ đau chứ, họ cảm thấy nhục chứ. Thế là từ việc có lòng tốt giúp người trở thành kẻ bất nhẫn và lố bịch. Đã làm từ thiện thì phải chấp nhận những trường hợp người tham, người gian, nhưng cũng nên hỷ xả thì việc làm tốt của mình sẽ càng tốt đẹp hơn. Kỹ lưỡng, ky bo, nguyên tắc quá sẽ chẳng hay chút nào.
Đức Phật có dạy rằng: "Trong khi bố thí, hành giả vì tâm từ bi bình đẳng, xem chúng sinh như con, nên không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành giả vì biết tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Hành giả vì biết cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và người nhận, không tự cao, tự đại." Làm từ thiện mà vô tâm thì việc làm ấy trở thành vô nghĩa.

Trong các bệnh viện, ở các quán cơm từ thiện phát cơm hay bán cơm giá rẻ hàng ngày ở Sài Gòn, không bao giờ có chuyện hỏi tên tuổi, hoàn cảnh hay bị chụp hình lưu trữ. Nếu có phát phiếu cũng chẳng bao giờ ghi tên tuổi. Ai cảm thấy thiếu thì lấy, ai cảm thấy đói thì ăn. Họ vui vẻ và cám ơn người tặng, kẻ cho chứ không cảm thấy nhục, thấy bị xúc phạm như kiểu lãnh gạo phải khai báo như thế này.

Những người chế ra cách kiểm soát này có lòng tốt giúp người gặp hoạn bạn đấy nhưng đó chỉ là thái độ ban phát, thiếu sự đồng cảm, vẫn là tư thế của kẻ giàu ban ân huệ cho người nghèo. Nói chính xác hơn họ thiếu cái tâm thiện cho nên cái máy được gọi là thông minh biến thành cái máy điều tra bất nhẫn, mất tình người. Người xưa thường bảo "Của cho không bằng cách cho". Kiểu cho như thế này không thể gọi là làm từ thiện. Ngay thời nạn đói năm 1945, những cuộc phát chẩn gạo cháo cũng không có hành vi bất nhẫn và xúc phạm phẩm giá như thế này. Người nghèo nhận được mấy ký gạo nhưng họ sẽ thêm tủi thân, buồn phận.
Mùa đại dịch
18.4.2020
DODUYNGOC






Cả tuần nay tui suy nghĩ về cái ATM gạo cho người khó khăn trong mùa đại dịch. Đúng là rất hoan nghênh sáng kiến của người sinh ra nó, phải có tấm lòng với người hoạn nạn mới làm được thế. 1 kg5 gạo một ngày cho một gia đình cũng là tạm ổn trong thời kỳ con virus Vũ Hán tác oai tác quái. Người Việt nghèo ăn uống cũng dễ, chỉ cần có chai nước tương, hay chén nước mắm, hoặc hủ chao với mớ rau là cả nhà cũng xong bữa cơm. Lúc nào khá thì có thịt, có cá, chẳng sao cả. Thế nhưng tui vẫn áy náy chuyện không phát gạo cho người đi xe có vẻ đẹp, áo quần tươm tất, có vẻ có tiền, có vẻ sang, có vẻ giàu. Mấy cái có vẻ đó đã hại họ. Và các anh, chị nhà báo nông cạn được dịp dùng những từ rất khó nghe dành cho những người này. Tít báo gọi họ là "vô liêm sỉ", "không biết nhục", "cướp cơm của người nghèo", "Bất lương"...Nghe nặng nề quá! Ngoại trừ những đám lãnh từ thiện có tổ chức, đầy lòng tham muốn vơ vét cho riêng mình, còn ngoài ra khi những người đứng vào xếp hàng để chờ lấy được miếng gạo giữa buổi trưa nắng như đổ lửa, họ cũng đã khổ tâm và đau lòng, mắc cỡ lắm rồi.

Bởi người xưa cũng đã nói "Chiếc áo không làm nên thầy tu". Những người ăn mặc tươm tất chưa hẳn là không gặp khó khăn trong cuộc sống. Tui vẫn nghĩ đã phát tâm làm từ thiện thì cũng đừng nên phân biệt người này kẻ nọ. Hoàn cảnh của mỗi người không thể giải bày ra bên ngoài được. Cũng có người tham lắm chứ không phải là không, nhưng mà như trong Đạo Phật dạy, người tham lam là tội của họ, họ sẽ chịu hậu quả.

Năm đầu tui vào Sài Gòn đi học, thời gian đầu đói lắm bởi đi học xa nhà mà chẳng có ai nuôi. Gia đình không phải là không có đến nỗi không gởi cho tui tiền nhưng vì nhiều lý do, tui rời nhà như người đi hoang, như kẻ bỏ nhà đi bụi. Và do xuất thân từ nền nếp của gia đình, được Ba Mạ tui dạy cung cách ăn mặc từ tấm bé, lúc nào tôi cũng chemise KT, quần Tergan hoặc Poliester đàng hoàng. Đi ra khỏi nhà là áo bỏ trong thùng, chân mang giày nghiêm chỉnh, nịt, vớ đầy đủ dù bụng đói meo. Từ nhỏ đã được dạy thế rồi. Thời kỳ đó đói vàng mắt, chỉ mong đến bữa có được chén cơm với muối cũng được, với xì dầu, nước mắm chi cũng được để qua cơn. Nếu lúc đó mà có cái ATM gạo như bây giờ với bộ dạng tui như thế, chắc bấm nút cả buổi gạo cũng không phun một hạt mà còn bị những ánh mắt khinh bỉ của những người chung quanh và sẽ bị báo chí cho là "vô liêm sỉ".

Sau 1975 cũng thế, trước đó đi làm lương cao chất ngất nhưng không biết để dành, chẳng biết dè sẻn. Thế nên khi bộ đội vô đến Sài Gòn, mấy tháng sau là tui đói rã họng. Thời gian đầu còn sách, còn áo, còn quần để bán. Rồi đến lúc chẳng còn chi để bán ra chợ trời ngoài bộ đồ trên người. Không kiếm được việc làm, không còn tiền để sống nhưng ngày vẫn áo bỏ trong quần, giày vẫn có trong chân, tóc vẫn chải gọn ghẽ. Lúc đấy không ai biết tui đói đến xỉu, đói đến độ chẳng có chi để đi cầu, có chăng chỉ ra nước. Suốt ngày mặc đồ ra đường, đi lang thang kiếm miếng ăn, có lúc miếng khoai, có khi khúc sắn. Nhưng chẳng ai biết tui đang quằn quại vì đói đâu. Nếu như bây giờ với bề ngoài như thế mà đi xin gạo ăn chắc cũng bị lên án ngay.

Bây giờ, làm ăn, cày vỡ mật ngày đêm có được chút tiền, đến tuổi già tui lại ít chú ý đến ăn mặc. Sao cũng được, áo nhăn, quần bẩn tui vẫn thấy bình thường. Chẳng quan tâm đến bộ dạng sang hèn. Vì vậy tui lại nghĩ với cách ăn mặc của tui bây giờ mà xếp hàng bấm nút xin gạo, gạo lại sẽ tuôn ra ngay vì ông lão này nhìn luộm thuộm, nghèo hèn quá he..he. Có một lần ở Mỹ, vợ chồng người bạn chở tui đi chơi. Trong lúc anh bạn tui vào làm thủ tục lấy phòng khách sạn. Tui và vợ anh bạn ngồi trong xe, vợ bạn tui mới nói với tui đại khái là nghe nói tui ở bên Việt Nam làm ăn cũng khá mà sao tui ăn mặc áo quần rẻ tiền vậy? Tui giận trong lòng lắm mà chẳng biết trả lời sao. Chỉ cười cho qua chuyện. Đấy, người Việt ta thường thế đấy, cứ căn cứ cái vẻ bề ngoài mà kết luận sang hèn. Thật ra tui thấy mấy người đang làm từ thiện hiện nay thường ghi là giúp cho người đang gặp khó khăn. Sống trên đời, bình thường có thể gọi là tạm đủ nhưng lúc ngặt nghèo thì cũng là người đang gặp khó chứ.

Trong cuộc sống vẫn có những người "Đói cho sạch, rách cho thơm", "giấy rách phải giữ lấy lề" dù khó khăn đến đâu vẫn phải giữ thể diện bằng cách lúc nào cũng phải tươm tất để mọi người không khinh, không coi thường. Đôi khi chính cái giữ cho thơm, giữ lấy lề đó lại bị lên án là bất lương, là cướp cơm của người nghèo. Khốn nạn thế! Cứ mãi căn cứ bề ngoài mà đánh giá nhiều khi lầm chết. Bởi thế rất nhiều người bị chúng lừa vì cái mã ngoài sang trọng, vàng giả, hột soàn giả đầy ngực, đầy tay. Cũng có người vì thấy người khác quần ngắn áo thun cứ nghĩ là nghèo mà khinh khi. Lầm chết thật! Và các chú, các cô nhà báo nữa, càng ngày các người càng dùng từ ngữ loạn xạ để đặt tít bài với cái đầu không não và trái tim hoá đá. Người viết báo quan trọng là phải có nhân cách và lương tâm, đừng vì câu độc giả mà biến mình thành những con thú cầm bút.
Sài Gòn mùa dịch vật
18.4.2020
DODUYNGOC





Tôi hạnh phúc khi tôi vẽ, tôi cũng luôn thích nhảy nhót và ca hát! "- đó là những lời của nghệ sĩ trẻ Blanca Alvarez. Cô ấy yêu màu sắc, biển và những ngôi nhà ở Tây Ban Nha, quê hương cô và cô ấy biết chính xác làm gì để bắt đầu những việc yêu thích của mình và đưa đến thành công.

Blanca Alvarez cho chúng tôi biết niềm đam mê của cô đối với nghệ thuật màu nước: "Thật tuyệt vời, điều đó sẽ cho bạn biết cuộc sống của tôi và những bức tranh tôi đã vẽ. Tôi đến từ thành phố Malaga ở miền nam Tây Ban Nha và từ hồi còn nhỏ tôi đã thích vẽ tranh. Bố mẹ tôi làm việc ở các thành phố khác nhau và thường thì họ không có mặt ở nhà. Tôi thực sự nhớ bố mẹ. Để đánh lạc hướng tôi, họ đưa cho tôi bút màu và thế là tôi vẽ. Năm 16 tuổi tôi bắt đầu học tại Học viện nghệ thuật, học kỹ thuật, và tôi sáng tác. Thầy của tôi đã dạy tôi rất nhiều, cho tôi biết bản phác thảo quan trọng như thế nào. Đối với tôi, bản chất của màu nước có thể chỉ là một bản phác thảo. Bạn có thể có một kỹ thuật màu nước tuyệt vời, nhưng nó sẽ không có tác động gì khi bức tranh thất bại vì không có thần thái và sinh động"


Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là có thể vẽ. Tôi đã thứ sơn dầu, nhưng sau đó yêu màu nước. Từ nhỏ, tôi đã thường bảo rằng khi lớn lên, tôi muốn trở thành một nghệ sĩ. Nhưng rồi đã đi học tiếp Đại học Kinh tế.. Và tôi quyết định rằng tôi sẽ vẽ trong thời gian rảnh rỗi. Tôi tốt nghiệp Đại học và bắt đầu làm việc, nhưng tôi cũng thường vẽ trong nhà và ngoài trời, rồi tham gia các cuộc thi khác nhau. 10 phần trăm thời gian tôi dành cho việc vẽ tranh, và 90 phần còn lại tôi đi tìm kiếm việc làm. Tôi nghĩ là nếu tôi dành nhiều thời gian vẽ và làm việc ít hơn? Thật khó cho tôi để đưa ra quyết định như vậy, nó thật đáng sợ.

Vào thời điểm đó, một phòng trưng bày trong thành phố của chúng tôi đã yêu cầu tôi tổ chức một triển lãm. Tôi đã có một năm để chuẩn bị. Sau đó tôi ngừng làm việc và bắt đầu chỉ vẽ. Khoảnh khắc này trùng hợp với cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Âu và đặc biệt là ở Tây Ban Nha, công việc không dễ tìm và đối với tôi đó là một cơ hội tuyệt vời. Triển lãm rất tốt và tôi quyết định tham gia Hiệp hội nghệ sĩ vẽ màu nước ở Pháp. Và vì vậy năm năm đã trôi qua kể từ lần triển lãm đầu tiên của tôi, và bây giờ tôi ở đây tại Moscow. Đôi khi tôi nói, thật điên rồ khi vẽ bức tranh. Cuộc sống cần có một công việc thực sự, một nghề nghiệp. Nhưng tôi không bao giờ có thể tưởng tượng rằng mình sẽ ngừng vẽ. Bây giờ thì tôi đang "hạnh phúc và không có gì để hối tiếc."
Sài Gòn mùa đại dịch
16.4.2020
DODUYNGOC

Xem Album ảnh tại đây

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget