Latest Post


Sau khi tôi viết bài: "THÁI THANH: TIẾNG HÁT KHÔNG NGƯỜI THAY THẾ." có người hỏi tôi sao không đi sâu vào phân tích giọng ca Thái Thanh để thế hệ sau 1975 hiểu thêm tiếng hát này. Xin thú thật đây là một bài viết theo đặt hàng của một tờ báo, do vậy không thể viết dài vì khuôn khổ cố định của một bài.

Bây giờ viết tiếp đây, có thể nói rất ngắn gọn thế này:

Từ trước đến nay, trong hàng ngũ ca sĩ Việt Nam, Thái Thanh là một trong rất ít ca sĩ hát tròn vành rõ chữ và chuẩn tiếng Việt nhất. Hãy nghe Bà cất tiếng đi, chúng ta sẽ nghe được một giọng chuẩn Việt, chữ nào ra chữ nấy, một giọng Việt rất đẹp. Bây giờ sân khấu Việt lắm ca sĩ nhưng nhiều người hát như người ngoại quốc nói tiếng Việt, kẻ thì gào rú như ma gào quỷ khóc, người thì sướt mướt uốn éo như kẻ biến thái...

Thứ nữa là nghệ thuật luyến láy của Bà, gần với lối luyến láy của Quan họ, Chầu Văn, Chèo của âm nhạc dân gian Bắc Bộ, cũng là tinh hoa, vốn quý của âm nhạc Việt Nam. Hãy nghe thử bài Kỷ vật cho em, chữ "hỏi" trong bài hát đã được Bà diễn tả biết bao tâm trạng, đau xót, dằn vặt, yêu thương, trách móc...chỉ cần giọng hát của bà nói lên hết chỉ trong một từ.

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime,
Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã,
Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa,
Anh trở về trên chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng.

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!

Đã có biết bao người hát bài Tình ca của Phạm Duy, thế nhưng khi Bà cất lên tiếng hát:

"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời.
À à ơi! Tiếng ru muôn đời.

Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui .
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi.
Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!"

Lòng ta nghe xao xuyến, xúc cảm và thấy tự hào, yêu thương về đất nước, về tiếng nói của mình. Đó chính là sức mạnh của âm nhạc, của văn học nghệ thuật. Giọng ca của Bà đã truyền sức sống thêm cho một dân tộc đã phải trải qua nhiều đau khổ, chia ly, tan tác vì chiến tranh.

Khi Bà hát Ngày xưa Hoàng thị, sao nghe mà tình tứ, mà ngọt ngào đến thế! Ở bài này, luyến láy của Bà rất điệu đà, nữ tính dù bài hát nói về một anh chàng si tình đi theo gót chân người đẹp.

Rồi Nửa hồn thương đau, Trả lại em yêu... Bà nức nở, khổ đau bằng giọng hát của mình truyền qua người nghe và thính giả nức nở cùng Bà.

Đến Bà mẹ Gio Linh:
"Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công sới vun cầy cấy
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Con vui ra đi, sớm tối vác súng về
Mẹ già một con yêu nước có kém chi
Đêm nghe xa xa có tiếng súng lắng về
Mẹ nguyện cầu cho con sống rất say mê.
Mẹ già tưới nước trồng rau
Nghe tin xóm làng kêu gào
Quân thù đã bắt được con
Đem ra giữa chợ cắt đầu
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Nghẹn ngào không nói một câu
Mang khăn gói đi lấy đầu
Đường về thôn xóm buồn teo
Xa xa tiếng chuông chùa gieo
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Tay nâng nâng lên, rưng rức nước mắt đầy
Mẹ nhìn đầu con, tóc trắng phất phơ bay
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu cờ
Nụ cười hồn nhiên, đôi mắt ngó trông ta.

Có lẽ không ai diễn tả tâm trạng của bà mẹ "Mang khăn đi lấy đầu" đau xót như giọng ca của Bà. Một bà mẹ mang khăn đi lấy đầu của đứa con trai mình bị giặc chặt đầu phơi thây, môi thắm máu cờ. Nỗi đau của bà mẹ trong đoạn này được ca sĩ Thái Thanh bộc lộ hết tâm trạng nhân vật gây nhiều cảm xúc.

Một bài hát nữa, cũng theo tôi không ai hát hay, diễn tả được như bà là bài Quan Thế Âm, tôi cũng không hiểu sao bài này rất ít người biết dù lời ca tiếng nhạc và ý nghĩa của bài này rất sâu xa, lắng đọng và rất xúc động. Hình ảnh trong bài cũng quá là đẹp và sâu sắc mang tính triết lý Phật giáo:

"Có bà mẹ đi tìm con trên đỉnh đồi lan trắng
Có bà mẹ đi tìm con trong động hang lan vàng
Có bà mẹ đi tìm con bên bờ sông Lam tím
Có bà mẹ đi tìm con trong thung lũng cỏ hoang.
Trên đỉnh mùa Xuân, mẹ ta thương cả rừng hoa lá
Trong mùa Hạ, bên bờ lau, Mẹ yêu tiếng ve rầu rầu
Thu về nằm trong bụi cây, nhớ mây trời xanh ngát
Nuôi một đàn chim mồ côi, khi Đông tuyết lạnh rơi.

Bốn mùa hoa đua nở, bốn mùa Mẹ lang thang
Tìm con, lòa đôi mắt, gọi con, lời đã khan
Khóc con, lệ đã cạn, thương con, lòng vắng hoang
Nhớ con, sầu đã ngất, đợi con, hồn đã tan.
Tay Mẹ đang quờ quạng, như một cành khô khan
Nhớ con tìm khắp chốn, rời rã cả thời gian
Khi còn là thiếu phụ, thơm như nhành ngọc lan
Đến nay, già tóc trắng, tìm con đà mấy trăng.

Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết
Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang.
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi
Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng."

Ca sĩ Thái Thanh khi diễn tả bài này, giọng ca thanh thoát, nhẹ nhàng, đau đớn nhưng không khốn khổ. Nghe như nhạc Thiền, bao nhiêu sân hận như tạm bay đi.

Kết lại, như tôi đã viết, đó là giọng ca khó ai thay thế được. Ca sĩ Ánh Tuyết sau này cũng là giọng ca hay, âm vực cao cũng thường hát những bài Thái Thanh từng đã hát nhưng giọng không đẹp bằng, phát âm cũng chưa rõ bằng và đặc biệt cũng không diễn tả được cái hồn bài hát như giọng ca vượt thời gian Thái Thanh. Dù đã lâu rồi, ca sĩ Thái Thanh vì tuổi già bệnh tật nên không còn cất tiếng hát nữa, nhưng sự ra đi của bà để lại bao nhiêu tiếc nuối. Giọng ca Thái Thanh với những bài ca Bà đã hát là những kỷ niệm khó mà quên được của nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Những kỷ niệm của một thời.
20.3.2020
DODUYNGOC









Vĩnh biệt tiếng hát vượt thời gian Thái Thanh. Bà vừa qua đời vào lúc 11h50 ngày 17/03/2020 tại Orange County, Nam california Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi.
Giọng hát của bà cũng là kỷ niệm của nhiều người yêu nhạc miền Nam Việt Nam. Bà mang đến cho mọi người giọng hát đẹp, giúp cho nhiều người thấy cái đẹp của âm nhạc.

Ca sĩ Thái Thanh tên thật là Phạm Thị Băng Thanh sinh năm 1934 tại làng Bạch Mai, Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn nghệ. Cha của bà là Phạm Đình Phụng, có 2 vợ, vợ trước sinh ra Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm, vợ sau sinh ra Phạm Thị Quang Thái (Thái Hằng), Phạm Đình Chương và con út là Phạm Thị Băng Thanh.
Năm 1946, Băng Thanh tản cư cùng gia đình vào Chợ Đại, Thanh Hóa vùng kháng chiến nơi bà bắt đầu hát lúc 14 tuổi. Cũng năm này Thái Hằng cưới nhạc sĩ Phạm Duy. Năm 1951 thì gia đình Phạm Duy về Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn sống, Thái Thanh cũng đi theo.
Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với tài tử Lê Quỳnh tại Sài Gòn.
Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với nhau ba con gái và hai con trai. Bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì sang Hoa Kỳ định cư.

Trước năm 1975, người miền Nam hầu như ai cũng biết đến giọng ca của Bà. Bà có một giọng hát đặc biệt, chỉ cần cất giọng thì ai cũng nhận ra. Bà sở hữu một giọng hát cũng như lối hát lạ lùng, mang tính chất opera nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của Chầu văn, quan họ, chèo là những bộ môn nghệ thuật được bà tự rèn luyện, học tập từ thuở nhỏ tại quê hương miền Bắc. Giọng hát của Bà thích hợp với các loại nhạc đa dạng của nhạc sĩ Phạm Duy. Bên cạnh đó, bà cũng là ca sĩ hát thành công rất nhiều ca khúc tiền chiến. Người ta khó quên được giọng hát độc đáo của Bà với những bài Tình Ca, Bà mẹ Gio Linh, Ngày xưa Hoàng thị, Nghìn trùng xa cách, Trả lại em yêu, Buồn tàn thu, Hòn vọng phu, Nửa hồn thương đau, Bài Hương ca vô tận....và những bài trường ca của nhạc sĩ Phạm Duy như Mẹ Việt Nam, Con đường cái quan, cho đến những bài Đạo ca, những bài ca phổ từ thơ Phạm Thiên Thư của nhạc sĩ này. Bà cũng hát rất hay bài nhạc nước ngoài Dòng sông xanh. Bài này còn có tên Dòng Danube xanh (tên đầy đủ là Bên dòng sông Danube xanh và đẹp, tiếng Đức là An der schönen blauen Donau) là bản waltz cực kỳ nổi tiếng của ông vua nhạc waltz Johann Strauss II. Ở Việt Nam, không có giọng ca nào thể hiện bài này xuất sắc như ca sĩ Thái Thanh, nhất là ở những đoạn cao trào và luyến láy. Bà được xem như là "Đệ Nhất danh ca"của dòng nhạc tiền chiến cũng như nhạc tình miền Nam giai đoạn 1954 – 1975.

Giọng ca của Bà được người thưởng ngoạn và giới phê bình đánh giá cao.
Georges Étienne Gauthier một nhà phê bình nghệ thuật Pháp đã viết:
"Thái Thanh đã thấu hiểu bằng trực giác cái ý nghĩa sâu xa của nghệ thuật Phạm Duy, do đó các khúc điệu uyển chuyển và cao nhã của Phạm Duy đã hoàn toàn tự nhiên trở thành thứ môi trường lý tưởng cho giọng hát cũng uyển chuyển và cũng cao nhã của bà"

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói trường hợp của Thái Thanh là một "trường hợp hãn hữu", và "Máu lửa, chiến tranh, bom đạn, chia cắt, người sống, người chết, nước mắt, mồ hôi, thấm nhập vào âm nhạc của chúng ta như thế nào, đều được phản ánh qua tiếng hát Thái Thanh."

Nhạc sĩ Phạm Duy phát biểu là : "Giọng hát Thái thanh, một giọng hát diễm tuyệt: tất cả hạnh phúc và khổ đau của kiếp người bị đày đọa trong chiến tranh và hòa bình, trong vinh quang và khổ nhục, trong hy vọng và tuyệt vọng qua những bản nhạc khóc, cười, nổi, trôi theo mệnh nước."

Ca sĩ Lệ Thu thì cho rằng: "Chúng tôi không là những giọng hát vượt thời gian được, nếu nói vượt thời gian chỉ duy nhất dành cho danh ca Thái Thanh mà thôi"

Còn ca si Khánh Ly: "Tôi luôn xem bà là ngọn hải đăng của mình"

Ngay một người tu hành như Thiền sư Nhất Hạnh cũng nhận định: "Tôi thấy được hết những hạch tuyến nơi cổ họng, những tế bào, những bộ phận lớn nhỏ đã phụ họa với nhau để phát ra những âm thanh trong, ấm, thanh tao và diệu kỳ kia. Tôi chưa gặp Thái Thanh lần nào cả, Steve ạ. Hãy nghĩ rằng cô trẻ, đẹp và đằm thắm như giọng hát của cô, và chỉ giữ lại từng đó thôi. Nếu ta nghiêng mình lệch đi một tý, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc năm ngàn năm về sau."

Nhà văn Mai Thảo, từ những năm 70 của thế kỷ trước đã viết:" Tốt tươi và phơi phới, bay bổng và cao vút, tiếng hát Thái Thanh hai mươi năm nay là một hơi thở bình minh, ở đó không có một dấu vết nhỏ của tháng năm và quá khứ đè nặng. Đã là một giòng sông đầy, nó vẫn còn là cái thánh thót, cái trong vắt của một giòng suối, nước reo thủy tinh, sỏi lăn trắng muốt. Như một bông hoa không nở và tàn trong một buổi sáng, mà hoa đã mãn khai, vẻ hàm tiếu vẫn còn. Tiếng hát trẻ trung vĩnh viễn, không tuổi, không quá khứ là vì nó tạo mãi được cho người nghe cái cảm giác mát tươi đầu mùa như vậy. Cái não nùng, cái thê thiết rũ rượi là những cái làm già. Thái Thanh không hát cái chết bao giờ, trong cả những ca khúc nói về cái chết. Tiếng hát không bao giờ là một tiếng khóc, nó là đời sống, tiếng cười, và mặt trời. Những cái đen, những cái tối, gì là vũng lầy, gì là vực thẳm, ở ngoài tiếng hát Thái Thanh. Ở ngoài. Không đột nhập"

Ca sĩ Thái Thanh đã từ giã chốn trần gian đầy lận đận để về một thế giới khác. Thế nhưng, tiếng hát của Bà vẫn còn mãi với những người yêu nhạc Việt. Bà không những có giọng hát độc đáo và kỳ lạ làm xốn xang người nghe, tiếng hát của bà với những bài ca tình tự quê hương khiến cho ta thấy yêu đất nước, quê hương mình hơn. Những ca từ của bài hát qua giọng hát của Bà giúp cho người nghe thấy gắn bó với Tổ quốc, với tiếng Việt mến yêu. Vĩnh biệt Bà nhưng người ta sẽ còn nhớ mãi tên Bà một thời gian dài nữa vì cho đến bây giờ tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh vẫn chưa ai thay thế được.
18.3.2020
DODUYNGOC

Tình ca - Phạm Duy
https://youtu.be/l2jnfRr_Kv0

Ngày xưa Hoàng thị - Phạm Duy
https://youtu.be/vG4qBpCXPdQ

Nghìn trùng xa cách
https://youtu.be/ohUnZj5cllw

Bà mẹ Gio Linh
https://youtu.be/KRClV9HYYL4

Hòn Vọng phu
https://youtu.be/vYGgVCp8gEw

Trả lại em yêu
https://youtu.be/3don8Ph-_Vc

Nửa hồn thương đau
https://youtu.be/XVf-LTHBmTk

Quan Thế Âm
https://youtu.be/Ikwy4hUlWj0



THÁI THANH – NGƯỜI MÀ AI CŨNG MẮC NỢ
Đỗ Tiến Đức
(Trích)
(…)
Người nữ ca sĩ từng được vinh tặng là tiếng hát vượt thời gian và không gian này hiện sống trong một căn phòng của một chung cư dành cho người cao niên.
Căn phòng vừa đủ kê một chiếc giường ngủ, một bàn ăn nhỏ, và nơi tiếp khách cũng chỉ có chỗ cho hai ba người. Chị đã thiết trí căn phòng thật đơn sơ với bộ máy hát nhỏ, bình hoa, những tấm hình kỷ niệm, trên tường là những tranh và tượng Phật, giấy của chùa cấp chứng nhận chị đã qui y. Tôi nhìn tấm thân chị, nay đã còm cõi kiểu mình hạc vóc mai, mái tóc đã bạc phơ, chợt nghe chị nói : "Mình tạo cho căn phòng này thành một nơi chốn để thiền, để nghỉ ngơi, để tu Phật...".

Chị nói: “Thứ bẩy nào các cháu cũng tới chở tôi về nhà hoặc đưa tôi đi chơi nơi này nơi nọ. Còn chủ nhật thì tôi đi chơi với các bạn của tôi...". Tôi để ý thấy chị nói mà vẫn như hát, giọng của chị vẫn trong, vẫn khoẻ, vẫn đầy âm thanh như ngày nào. Dáng của chị khi nói, khi cười, đều mang nét quen thuộc của người anh ruột là Nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Tôi hỏi: Hoài Bắc nổi tiếng với bản nhạc Đôi Mắt Người Sơn Tây phổ thơ của Quang Dũng, vậy gia đình chị có biết Sơn Tây không?
Thái Thanh: Sơn Tây là quê ngoại thôi. Quê nội ở làng Bạch Mai Hà Nội.
- Chị có bao giờ sống ở Sơn Tây không?
- Chỉ có vài dịp nghỉ hè thì về chơi thôi.

Tôi tò mò hỏi tiếp:
- Chị có ba chị em là chị Thái Hằng, anh Hoài Bắc và chị. Cả ba đều nổi tiếng về âm nhạc. Vậy ông cụ hay bà cụ hay cả hai đã "di truyền" dòng máu văn nghệ này?
Thái Thanh: Vâng ba người mà anh vừa nói là cùng mẹ ruột. Ông cụ tôi còn bà trưởng, tức là mẹ trên của chúng tôi, thì có anh Phạm Đình Sỹ và anh Hoài Trung.

Khi bà trên mất rồi thì ông bố tôi mới cưới mẹ tôi. Như thế không thể gọi là bà hai được. Nói đúng ra thì cả bố tôi và mẹ tôi đều chơi đàn cổ như đàn tranh, đàn bầu, nhị, sáo... Cụ ông chơi những thứ đàn đó còn cụ bà thì chơi tỳ bà. Mẹ tôi giỏi về nhạc lắm. Tôi nhớ ngày xưa tôi có được nghe cụ hát ả đào thật tuyệt.
Hát ả đào ngày xưa khác với thời bây giờ nhiều. Thời xưa nó là một thú chơi rất văn học nghệ thuật. Các bạn của bố tôi mỗi khi làm được những bài thơ hay là tới đưa cho cụ hát, rồi mọi người ngồi thưởng thức...

Nguyễn Đắc Điều hỏi: Chị đi hát trong hoàn cảnh nào?
Thái Thanh: Tôi hát trong cái hoàn cảnh anh Phạm Đình Chương chơi đàn với bạn của anh ấy là ông Nguyễn Cao Kỳ. Hồi nhỏ ở Hà Nội, ông Kỳ thường hay đến nhà tôi đánh đàn. Hai ông ấy là bạn học với nhau, chơi thân nhau lắm. Rồi tới một ngày không biết nổi hứng sao đó, anh Chương lôi tôi ra dạy cho tôi hát và hai ông ấy đệm đàn. Lúc đó tôi còn bé lắm, đâu chừng mới mười tuổi.

Nguyễn Đắc Điều: Ai đặt cho chị là Thái Thanh?
Thái Thanh : Tôi nhớ tên của tôi do các cụ đặt cho là Phạm Thị Băng Thanh. Còn chữ Thái là hình như lấy từ tên chị tôi. Chị là Thái Hằng thì em phải là Thái Thanh chứ.
Nguyễn Đắc Điều: Tại sao anh Phạm Đình Chương lại lấy tên là Hoài Bắc?
Thái Thanh: À, hình như lúc ấy chúng tôi ở Sài Gòn rồi, chúng tôi lập ban văn nghệ đi trình diễn nên các anh lấy tên là Hoài Bắc, Hoài Trung, ý nói là nhớ miền Bắc, nhớ miền Trung thôi.
Tôi hỏi xen vào: Hình như trước khi vào Sài gòn, chị có trình diễn văn nghệ cùng với Phạm Duy ở những vùng thuộc quyền Việt Minh kiểm soát?

Thái Thanh: Có. Tôi đi hát là cũng do các anh ấy lôi đi. Bây giờ tôi già rồi, không còn nhớ nhiều. Anh đọc hồi ký của Phạm Duy là thấy đó. Hồi đó đến giờ, Phạm Duy vừa làm việc vừa ghi chép lại nên chuyện anh ấy viết là đúng đấy.

Hỏi: Nhưng sự kiện quan trọng này thì chắc chị còn nhớ, là lần đầu chị lên sân khấu, chị bao nhiêu tuổi ?
Thái Thanh: Độ 12 tuổi.

Hỏi: 12 tuổi đã hát trước công chúng, thế chị có run sợ không?
Thái Thanh: Cái lần đầu tôi lên sân khấu không phải tôi lên một mình mà lên hát chung với các anh các chị tôi. Chúng tôi trình bầy một bản đồng ca. Như thế tôi cũng bớt sợ phần nào. Chứ nếu mà mình lên sân khấu một mình, lúc mình nhỏ bé như thế chắc là mình sợ lắm chứ nhỉ. Điều tôi còn nhớ rõ, khá rõ là cái xúc cảm khi hát, anh ạ. Có lẽ là "gene" âm nhạc của mẹ tôi trong người nên tôi lúc đó tuy còn nhỏ xíu nhưng tôi đã biết xúc động từ lời ca cho tới dòng nhạc. Cái cảm xúc đó nó còn trong tôi cho tới bây giờ đấy. Khi đứng trước khán giả hát, mà quí vị thấy tôi hát hay, đó là vì tâm hồn tôi nhập vào bài hát rồi. Tôi yêu âm nhạc. Tôi yêu âm nhạc ghê gớm lắm.

Hỏi: Lần đầu chị hát là hát ở đâu?
Thái Thanh: Ngoài vùng kháng chiến.
Hỏi: Hát ngoài trời?
Thái Thanh: Vâng. Hát ở ngoài trời. Sân khấu được dựng lên để hát cho dân làng nghe ấy mà.
Nguyễn Đắc Điều: Tôi có một người bạn quê ở Thái Bình bây giờ còn nhớ là hồi đó ban văn nghệ của chị có về hát quê của anh ấy.
Thái Thanh: Thế hả... Bây giờ tôi không còn nhớ nữa.
Nguyễn Đắc Điều: Năm nào thì chị bỏ vùng Việt Minh về Hà Nội?
Thái Thanh: Tôi không nhớ rõ. Nhưng chúng tôi chỉ ở Hà Nội một thời gian ngắn rồi vào Sài gòn.
Nguyễn Đắc Điều: Có phải vì sợ Việt Minh trả thù nên các anh chị phải bỏ Hà Nội vào Sài gòn?
Thái Thanh: Tôi không biết vì lúc đó còn nhỏ quá, với lại lâu quá rồi. Tôi chỉ nhớ là lúc ấy vào Sài gòn là để hát cho đài phát thanh Pháp Á. Đài này mời ông Phạm Duy. Ông ấy sáng tác bản Về Miền Trung, hát trên đài Pháp Á, được thính giả thích quá. Ông ấy vào rồi kéo tụi này đi luôn.

Nguyễn Đắc Điều: Ban Thăng Long ra đời vào lúc này?
Thái Thanh: Đúng rồi. Vì sống ở Sài gòn nên nhớ Hà Nội, tức Thăng Long ấy mà.
Nguyễn Đắc Điều: Bản nhạc mà chị hát đầu tiên trên đài Pháp Á tên là gì?
Thái Thanh: Có lẽ là bài Về Miền Trung đấy.
Tôi hỏi: Chị sống ở Sài gòn từ thuở thanh xuân như thế thì chị gặp anh Lê Quỳnh ở đâu?
Thái Thanh: Chúng tôi gặp nhau ở Sài Gòn. Tôi gặp bố các cháu vào lúc ông ấy đi đóng cuốn phim "Chúng Tôi Muốn Sống". Lúc đó tôi đã là ca sĩ khá nổi tiếng rồi. Khi mà ông ấy cho người tới mai mối thì gia đình tôi mới trả lời tôi rằng, ông ấy là tài tử xi nê nổi tiếng, còn con thì hát nổi tiếng, bố mẹ cho con lấy đấy.
Tôi hỏi tiếp: Chị còn nhớ những kỷ niệm thuở ban đầu với anh Lê Quỳnh không?

Thái Thanh: Tôi nhớ đã gặp bố các cháu lần đầu vào dịp trình diễn văn nghệ vào dịp tết ở những rạp trước giờ chiếu phim. Gọi là phụ diễn nhưng có khí kéo cả giờ đấy. Anh Lê Quỳnh ở trong ban văn nghệ. Ông ấy hát hay lắm. Hát hay lắm. Chỉ có điều là ông ấy không đi hát thôi. Ông ấy lại đóng phim giỏi. Ông ấy đóng kịch thì tuyệt vời. Đó là trời sinh ra ông ấy để ông ấy đứng trên sân khấu chứ không phải ở dưới này đâu. Thì trong một buổi diễn chung như vậy, chúng tôi gặp nhau. Và chúng tôi mê nhau.

Hỏi: Chị nói là "chúng tôi mê nhau", như vậy thì ai tỏ tình trước?
Thái Thanh: Việt Nam mình thì cứ coi là đàn ông tỏ tình trước đi. Đàn bà có muốn lắm cũng để trong lòng thôi.
Hỏi: Bao lâu sao thì anh chị thành hôn?
Thái Thanh: Có lẽ vài năm. Sau đám hỏi mới tới đám cưới...
Hỏi: Khi lấy chồng là một tài tử điện ảnh, chị có ý nghĩ muốn trở thành diễn viên điện ảnh không ?
Thái Thanh: Sao cái điều đó tôi lại chưa bao giờ nghĩ đến đấy. Mà anh Lê Quỳnh cũng không bao giờ hỏi là tôi có muốn đóng phim không nữa.

Tôi (Đỗ Tiến Đức) với anh Lê Quỳnh là bạn từ khi tôi về trông coi Nha Điện Ảnh ở đường Thi Sách Sài gòn. Lê Quỳnh là đại úy quân đội được biệt phái sang đây vì anh đã nổi tiếng trong giới điện ảnh từ khi anh đóng cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống. Trong buổi tiếp xúc đầu tiên với anh, tôi hỏi anh đang phụ trách công việc gì thi anh buồn bã trả lời, anh được cử trông coi Nhân Dân Tự Vệ trong cơ quan. Không ai mời anh đóng phim, dù là phim tuyên truyền. Anh nói với tôi, anh ao ước được trở thành đạo diễn điện ảnh. Tôi hứa sẽ cho anh cơ hội để thử thách nếu anh kiếm được một truyện phim nào đặc sắc. Lê Quỳnh tỏ vẻ rất vui mừng. Vài tuần sau, anh trình tôi bản truyện phim "Giã Từ Bóng Tối". Đọc xong, tôi cấp cho Lê Quỳnh sự vụ lệnh lên Đà Lạt, ở tại Hotel Palace hai tuần lễ để viết phân cảnh kỹ thuật. Đây là cuốn phim 35 ly trắng đen dài một tiếng rưỡi đồng hồ, do Nha Điện Ảnh sản xuất và phát hành.

Vào năm 1968, khi xẩy ra biến cố Tết Mậu Thân, Lê Quỳnh đã được ông Nguyễn Văn Liêm, chủ hãng Liêm Film mời đạo diễn cuốn phim màu, ngắn độ dưới nửa giờ, tên là "Hậu Quả Của Sự Thành Công". Phim do nữ tài tử Xuân Dung đóng vai chánh, quay tại Sài gòn lúc vừa im tiếng súng nhưng những cảnh đổ nát, chết chóc vẫn còn nguyên. Cuốn phim này được gửi sang Đài Loan in rửa, nhưng không hiểu vì lẽ gì sau này không thấy chiếu. Tôi có hỏi Lê Quỳnh điều này nhưng Lê Quỳnh cũng không biết. Còn ông Nguyễn Văn Liêm đã chết ở Sài gòn ít năm sau 1975.

Tôi nghe tiếng Nguyễn Đắc Điều hỏi Thái Thanh:
- Chị và anh Quỳnh ở với nhau bao nhiêu năm?
Thái Thanh: Mười mấy năm. Hình như lúc Ý Lan được 8 tuổi thì chúng tôi thôi nhau.
Hỏi: Anh chị được mấy cháu tất cả ?
Thái Thanh: 5. Gần như năm một. Có khi ba năm hai. Ý Lan là con đầu. Tới Lê Xuân Việt, con trai. Rồi Lê Thị Quỳnh Giao tức là Quỳnh Hương, vì trùng tên với ca sĩ Quỳnh Dao nên đi hát cháu lấy tên là Quỳnh Hương. Thứ tư là Lê Thị Thanh Loan. Út là cháu Lê Đại.

Nguyễn Đắc Điều: Chị đã sống một đời với nghiệp cầm ca, không làm nghề gì khác, vậy thì cuộc sống của chị có khá không?

Thái Thanh: Về vật chất ấy à? Anh hỏi cái ấy đúng đấy. Khi mà mình được người thưởng thức yêu mến mình thì đương nhiên là mình phải kiếm được nhiều tiền rồi. Nhưng mà, tôi có năm con nhỏ phải nuôi vì anh Lê Quỳnh đã có vợ có con phải nuôi, nên số tiền anh Lê Quỳnh gửi cho tôi để phụ nuôi các cháu cũng hạn chế thôi. Anh Lê Quỳnh có với Thái Thanh năm cháu, với cô Trúc bốn cháu, tổng cộng là chín.

Nguyễn Đắc Điều: Những ca sĩ, kịch sĩ thường ngại mang bầu vì trở ngại cho việc trình diễn. Sao chị lại đông con vậy?
Thái Thanh nở nụ cười duyên dáng, ánh mắt ngước lên rồi nhìn vào mấy tấm hình của chị treo trên tường, trong đó có tấm hình bán thân của chị thời còn thật trẻ, một tấm hình người mẹ quây quần với năm đứa con, mà tôi không thể nhận ra người mẹ đó là Thái Thanh. Giọng nói của chị như gió thoảng:
- Thời xưa, chả là người mình ai cũng thích sinh nhiều con. Nhiều con là phúc là đức mà. Cho nên các ông bà nội, ông bà ngoại đều khuyến khích mình để các cụ có nhiều cháu bồng bế... Mình vừa thích có nhiều con, vừa chìu các cụ, thế là mình đẻ liên tiếp thôi. Mỗi lần mang bầu, mình phải sinh con đàng hoàng rồi mới lên sân khấu trở lại.

Tôi hỏi Thái Thanh: "Chị có để người làm bế con tới hậu trường khi chị đi hát không?" thì Thái Thanh lắc đầu ngay:
- Không. Mình nuôi con cẩn thận lắm. Mình không cho người làm cho các cháu uống thuốc bao giờ đâu. Có những đêm đi hát, một hai giờ sáng mới về tới nhà, người mình đã mệt lắm rồi, buồn ngủ đến mắt mở không ra nữa, thế nhưng mà mình phải vào phòng các cháu xem các cháu ngủ ra làm sao. Đứa nào đau thì mình lấy thuốc, dỗ cho con uống, rồi ôm con, rồi hun hít, nựng nó, bù đắp tình thương cho nó, với lại mình cũng thèm khát hơi hướm của các con lúc phải xa chúng nó chứ. Có lần, đang ngồi chờ trình diễn, mình nhớ con đang đau ở nhà, thế là nước mắt mình tuôn ra. Các bạn hỏi thăm, mình nói là tại các ông hút thuốc nhiều quá, khói làm cay mắt...

Nguyễn Đắc Điều: Chị với Lê Quỳnh là một cặp vợ chồng nghệ sĩ xứng đôi vừa lứa quá, vậy mà nguyên nhân vào khiến phải chia tay nhau?
Thái Thanh: Tôi cho là cái cuộc sống của một cặp vợ chồng nói chung là nó có vui có buồn, có cái nọ có cái kia, có cái hạp có cái không hạp. Người ta vẫn sống với nhau vì là có con với nhau. Các cụ ngày xưa dạy dỗ con cháu là có con thì không được bỏ nhau nữa đấy nhé. Thế nhưng, đến một lúc nào... Tôi là người đạo Phật nên tôi hiểu được một điều là cái duyên nợ một khi đã hết thì dù vẫn còn thương yêu nhau, vẫn biết xa nhau là các con nó khổ, thế nhưng mà ông Trời đã sinh ra con người chỉ có duyên, có nợ nhau bấy nhiêu thôi là hết. Khi mà cái duyên cái nợ đã hết thì tự nhiên cái không hạp nhiều hơn cái hạp. Điều mà tôi rất mừng để nói với các anh là khi chúng tôi không còn ở với nhau nữa, nhưng cả hai vẫn chăm nom con cái cho đến khi anh Lê Quỳnh có cô Trúc và có con.

Nguyễn Đắc Điều: Chị có giao thiệp với vợ chồng anh Lê Quỳnh chứ?

Thái Thanh: Vâng. Chúng tôi gặp gỡ nhau thường chứ. Chúng tôi rất thân nhau. Cô Trúc và anh Quỳnh khi các cháu còn nhỏ vẫn mang gửi tôi trông nom hộ đấy. Gọi là gửi "Me già". "Me già cho tụi tôi đi xi nê vài tiếng rồi tụi tôi quay lại lãnh cháu về".

Nguyễn Đắc Điều: Vậy thì chị Trúc dễ thương quá.

Thái Thanh: Rất là dễ thương. Trúc trước làm chiêu đãi viên hàng không Việt Nam nên bặt thiệp, khôn khéo lắm. Mấy năm gần đây bố các cháu bị bệnh, may có cô ấy chăm sóc thay thế chúng tôi. Có lần anh Lê Quỳnh nói với tôi là "Mẹ có biết người nào trên thế gian này mê tiếng hát của Mẹ nhất không?". Tôi trả lời: "Mẹ biết là có nhiều khán giả mê mẹ hát lắm, nhưng đâu biết ai mê nhất ai mê nhì". Thì Lê Quỳnh nói với giọng hãnh diện: "Cô Trúc mê mẹ nhất". Sau này chính cô Trúc cũng nói là mê tiếng hát Thái Thanh từ hồi còn nhỏ. Cô ấy kém tôi khá nhiều tuổi. Cho đến giờ, hễ cô ấy có món gì ngon là cũng đem cho tôi. Cái đó tôi thấy là phải là người hiểu biết, phải là người có lòng lắm mới làm được, nhỉ?

Không khí trong căn phòng buổi sáng chủ nhật thật im lặng. Tôi nhìn Thái Thanh, mái tóc bạc, thân thể còm cõi, quần áo giản dị, trong một khung cảnh giản dị. Thật không thể ngờ có ngày tôi được nhìn một nữ nghệ sĩ lớn khi họ chưa trang điểm xong và chưa ra khỏi nhà. Trước đây, mỗi lần đi quay phim ở xa Sài gòn, các nữ nghệ sĩ tên tuổi thường đòi có phòng riêng, hoặc thuê khách sạn chứ không ở chung với đoàn. Các cô sẽ không gặp ai, dù là đạo diễn, khi mà mặt không còn phấn, môi không còn son, mắt không còn những nét chì màu và lông nheo giả.

Tiếng anh Nguyễn Đắc Điều hỏi tiếp chị Thái Thanh: Sau khi chính thức ly dị với anh Lê Quỳnh rồi, cuộc sống tình cảm của chị ra sao?

Thái Thanh: Khi mà tôi với anh Lê Quỳnh chia tay thì tôi còn trẻ lắm. Như thế các anh hiểu là có nhiều người đàn ông theo đuổi tôi...

Nguyễn Đắc Điều: Vậy chị chấm ai?

Thái Thanh: Đôi ba người... Gọi là bạn... Bạn trai... Nhà ai nấy ở mà. Đi chơi với nhau thì có chứ lấy làm chồng thì không.

- Tôi có nghe dư luận về chị và nhà văn Mai Thảo.

- Vâng. Tôi với anh Mai Thảo thân lắm.

- Hai người có liên hệ tình cảm gì không?

Thái Thanh: Có liên hệ tình cảm. Nhưng khi mà tôi còn ở với chồng... và dù bỏ chồng rồi thì... anh Mai Thảo anh ấy rất quý tôi đến cái độ tôi muốn thế nào anh ấy chiều như thế. Nhưng mà tôi, tôi cổ lỗ sĩ lắm, các ông ạ. Hễ không có cưới là không có ăn ở với nhau. Cho nên tôi và anh Mai Thảo không có ăn ở với nhau.

- Cuốn tiểu thuyết Mười Đêm Ngà Ngọc của Mai Thảo, có phải anh ấy muốn nói về chị?

Thái Thanh: Tôi không biết, hay là anh ấy viết...

Hỏi: Chị có đọc cuốn sách ấy không?

Thái Thanh: Tôi là người đọc sách đọc báo nhiều nhưng giờ tôi không nhớ cuốn sách ấy câu chuyện nó như thế nào...

Hỏi: Chị nghĩ thế nào về anh Mai Thảo?

Thái Thanh: Vâng, tôi quý lắm. Tôi có cái đặc biệt là, ở với chồng, rồi không ở với chồng, tôi rất quý chồng. Chơi với bạn, như với anh Mai Thảo và vài người bạn dù sau này không chơi nữa, cũng vẫn quý nhau. Có lẽ những người đáng quý tôi đều được gặp.

Tôi chuyển đề tài để ra khỏi những ngày tháng mà chị muốn giữ riêng cho chị. Tôi hỏi chị sau khi đất nước hết chiến tranh, chị có đi hát không thì chị trả lời rất nhanh: "Không. Chắc chắn là không".

Hỏi: Chị có buôn bán làm ăn gì để kiếm sống không?
Thái Thanh: Anh hỏi về "Kinh tế" đó hả? Thì tôi đã có trời thương. Ngày xưa, đi hát có tiền, mình hay sắm xoàn đeo. Nên tháng này hết tiền ăn thì mình "ra" một cái nhẫn. Mà cứ mỗi lần "ra" một cái nhẫn mình cứ tưởng rằng ăn được lâu lắm mới phải bán cái nhẫn khác. Sự thực không phải như thế đâu... Rất là nhanh. Lại phải bán cái nhẫn nữa... Rồi thì các đồ dùng trong nhà như ti vi. Cứ bán đồ mà ăn cho đến lúc cháu trai đầu lòng là Lê Xuân Việt, di tản với bố hồi 1975, cháu đi làm lấy tiền gửi về cho mẹ.

Tôi chợt nghe tiếng Nguyễn Đắc Điều say mê hỏi chuyện Thái Thanh: "Thưa chị, Phạm Duy có ảnh hưởng như thế nào với tiếng hát của chị?". Ánh mắt Thái Thanh như bừng sáng lên, giọng chị reo vui những âm thanh như tiếng của những hòn bi rơi trên sân gạch bát tràng thời thơ ấu: "Có những lần anh Phạm Duy mới sáng tác được hai ba câu của một bài ca đã gọi tôi: "Em, em Thanh, hát thử cho anh nghe cái câu này". Thế thì có nghĩa là bài của ông Phạm Duy chưa xong, Thái Thanh đã hát rồi.

Nguyễn Đắc Điều: Như vậy là...

Thái Thanh: Vâng tôi hiểu ý các anh. Tôi không nghĩ là anh Phạm Duy sửa đổi nhạc của anh ấy vì tiếng hát của tôi đâu. Tôi chỉ nghĩ là có nhạc Phạm Duy thì có tiếng hát Thái Thanh như thế này và có tiếng hát Thái Thanh như thế này thì nhạc Phạm Duy mới...

Nguyễn Đắc Điều đỡ lời:... mới bay lên cao hơn.

Tôi hỏi: Chị có nhớ ai là người đặt ra câu "Tiếng hát Thái Thanh vượt thời gian"?

Thái Thanh: Một nhà sản xuất băng nhạc ở Sài gòn thời trước, anh ạ. Họ thâu tiếng hát của tôi nguyên một cái tape rồi họ nói với tôi: "Chị Thái Thanh, tôi muốn quảng cáo cuốn tape này với câu Thái Thanh, tiếng hát vượt thời gian, có được không, thì tôi trả lời tùy ý ông bà.

- Thì đúng là tiếng hát Thái Thanh vượt thời gian thật.

Thái Thanh: Thưa anh là thế này, tôi hát từ năm 16 tuổi, bây giờ tôi gần bẩy mươi mà vẫn hát, nghĩa là hát cả cuộc đời rồi. Nếu tôi cứ hát mà ai nghe thì nghe, không nghe thì thôi thì không có tiếng hát vượt thời gian đâu. Nhưng tôi biết khán giả yêu mến tiếng hát của tôi. Tôi được yêu như vậy, được yêu từ thập niên 1950, rồi 1960, tới nay cũng vẫn được yêu, phải không anh?

Hỏi: Chị có nhớ đã thâu băng thâu dĩa bao nhiều bài nhạc không?

Thái Thanh: Không thể nào nhớ được. Chỉ biết là nhiều lắm. Nói chung là bao nhiêu bài của Phạm Duy, của Phạm Đình Chương, hai ông anh có bao nhiêu bài thì cô em này hát hết.

Hỏi: Chị có thể cho biết chị thích loại nhạc nào nhất?

Thái Thanh: Mười bài "Đạo Ca" của Phạm Duy.

- Phạm Duy còn mười bài "Tục Ca".

- Không, tôi không hát mười bài này.

- Chị nghĩ thế nào về Tục Ca?

Thái Thanh nhún vai cười: Tôi có nghe anh Phạm Duy hát cho nghe vài lần nhưng mà tôi không hát. Tục là không có hát.

- Còn Tâm Ca, Dân Ca... nữa. Chị thấy Phạm Duy thành công ở loại nhạc nào?

Thái Thanh: Mấy loại nhạc ấy, cả Tình Ca nữa, Phạm Duy đều thành công cả. Nhạc của ông ấy loại nào ra loại ấy mới tài chứ. Nhưng giờ thì tôi thích nhất là Đạo Ca.

Thái Thanh bước tới chiếc máy, bật lên. Băng Đạo Ca đã có sẵn, bung ra gian phòng êm ả những nốt nhạc thanh thoát. Giọng Thái Thanh vút lên như tiếng chuông ngân từ một ngôi chùa cổ nơi rừng núi, rồi bay theo gió, quyện vào những làn khói trong buổi chiều tà...Thái Thanh ngồi nghe giọng mình hát mà cũng như say như đắm. Tôi hiểu rằng những âm thanh của giọng ca Thái Thanh với mười bài Đạo Ca này đã ru chị ngủ trong những đêm đơn côi chợt nhớ ánh đèn sân khấu, và trong những lúc ngồi một mình trong căn phòng hẹp này mà nhớ những bước viễn du rộn rã những tràng pháo tay khen ngợi.

Hết một bài ca, chị tắt máy, trở lại bàn ngồi bên chúng tôi.

Tôi hỏi chị: "Đời ca hát đã để lại cho chị nhiều kỷ niệm lắm nhỉ ?". Chị gật đầu: Vâng, tất nhiên rồi. Nửa thế kỷ mà qua đi nhanh chóng quá, phải không các anh. Tôi còn nhớ ngày nào, hồi ở hậu phương, mới mười mấy tuổi đầu, được các anh các chị cho lên sân khấu trong một buổi trình diễn ngoài trời. Nay thì chị Thái Hằng mất rồi. Anh Hoài Bắc mất rồi. Anh Hoài Trung cũng mất rồi... Anh em chúng tôi đi trình diễn chung với nhau, vui lắm anh. Chỉ buồn là đêm hát nào mà gặp trời mưa lớn, khán giả không tới đông...

Nguyễn Đắc Điều: Tôi được biết chị lần đầu tiên ở Hà Nội khi đi xem Đoàn Gió Nam của chị từ Sài Gòn ra hát. Đoàn Gió Nam hát ba buổi, tôi tuy còn bé nhưng cũng đi xem cả ba buổi...

Thái Thanh: Anh làm tôi nhớ lại hồi đó. Ngoài Ban Hợp ca Thăng Long, đoàn còn có nhiều anh em nghệ sĩ khác như anh Trần Văn Trạch. Anh Trạch trình diễn hài hước, làm trò được khán giả ái mộ lắm. Sau này chúng tôi làm gì thì anh ấy cũng hợp tác cả. Thành ra khi nghe tin anh ấy mất, chúng tôi xúc động lắm... Chắc các anh còn nhớ báo chí lúc đó có viết là trước khi anh Trạch nhắm mắt, anh ấy có tiết lộ là anh ấy thương tôi lắm, nhưng anh ấy giữ kín trong lòng...

Nguyễn Đắc Điều: Nhưng chị có biết là anh ấy thương chị không?

Thái Thanh: Dạ... anh ấy không nói với tôi chuyện ấy. Đến lúc anh ấy mất thì báo chí mới loan tin là anh ấy nói như thế. Anh ấy là một người kín đáo. Nên bây giờ các anh hỏi tôi vào cái thời chúng tôi làm việc chung, tôi có biết anh Trạch thương tôi không thì tôi phải trả lời là tôi không biết. Con người đó thật là kín đáo và tự trọng. Anh ấy không có nói thẳng ra...

Nguyễn Đắc Điều: Thế sau khi nghe được tâm sự của anh Trạch, chị nghĩ thế nào?

Thái Thanh: Tôi rớt nước mắt chứ. Là vì ngoài chuyện biết người ấy thương mình, anh ấy còn là bạn thân, một đồng nghiệp nữa... Tôi rất quí trọng anh ấy. Khi trình diễn những màn diễu tôi nghĩ đâu có người nào bằng anh Trạch. Anh ấy đã đi nhiều nước trình diễn, nói được nhiều thứ tiếng. Anh ấy có kiến thức và có tài lắm... nên khán giả rất là thích.

Tôi hỏi chị Thái Thanh: "Trong cuộc đời ca hát của chị, chị từng hát trên sân khấu, trong phòng thu âm, trong phòng thu hình, nơi nào khiến chị cảm hứng nhất ?"

Thái Thanh trả lời không suy nghĩ: Mỗi nơi cái cảm hứng nó đều như nhau hết, anh ạ. Hát ở trong phòng thu thì khán giả của tôi không nhìn thấy tôi, chỉ nghe thấy tiếng hát của tôi, nhưng tôi cũng có cảm tưởng tôi nhìn thấy khán giả đang vui vẻ hay đang trầm lặng theo bài hát của tôi. Vì thế tôi cũng hát như đang đứng trên sân khấu vậy. Chỉ khác là khi hát trong phòng thu, tôi thường nhắm mắt mà hát cho thật tập trung, kiểu thần giao cách cảm. Còn khi hát ở sân khấu, mình nhìn thấy khán giả mà, nên mình diễn tả bằng tay, bằng cử điệu và bằng mắt bằng miệng nữa... Nhưng cảm giác thì mạnh như nhau.

Nguyễn Đắc Điều hỏi: Anh Phạm Duy có giúp gì cho giọng hát của chị không ?

Thái Thanh: Người luyện tôi hát là anh Hoài Bắc. Anh ấy mua sách báo âm nhạc của Pháp bầy bán ở Sài gòn hoặc đặt mua từ Paris, nói với tôi: "Em ạ, em muốn hát hay thì em phải đọc sách này, và anh sẽ chỉ dạy cho em. Nếu em hát có phương pháp như trong sách thì em còn hát hay hơn thế nữa chứ không phải chỉ thế này thôi đâu. Anh tôi dạy tôi từ nốt nhạc đồ rê mi fa sol la si đô.. Vừa học vừa hát. Sau đó anh tôi lại nói : "Em hát được thì em phải viết được. Tôi hỏi : Thế anh nói em hát được thì viết được là như thế nào ? Anh ấy bảo, ví như bài Do majeur thế thì em hát "Phố núi cao..." nhé thì em hát đồ, mi, mi đồ, đồ mi sol sol đồ đồ đồ mi sol, sol fa fa fa fa sol đồ... Em phải tập như thế. Cái đó nó luyện luôn giọng và nó làm cho mình học được luôn... Thành ra từ đó, tôi hát cái gì là tôi viết ra... Vì vậy bây giờ tôi mới dậy hát mười mấy năm nay. Mình phải có trình độ của mình thế nào chứ.

Hỏi: Chị dậy hát đã nhiều năm nhưng có đào tạo được ca sĩ nào không?
Thái Thanh: Khi tôi quyết định mở lớp dạy hát, ban đầu tôi chỉ nghĩ là chỉ có những học trò nhỏ tuổi. Nhưng sự thực không phải vậy. Lớp học của tôi người lớn nhiều hơn, và có cả những người già nữa đấy. Người già nhiều lắm. Bác sĩ và bà bác sĩ, luật sư và bà luật sư... Thành ra học hát không phải để trở thành ca sĩ chuyên nghiệp đâu mà để tạo một thú chơi tao nhã, lành mạnh với nhau. Những người này gặp nhau rồi mở ra cái gọi là "chiêu hiền quán" đông tới mấy chục người, vui lắm. Họ mở ra những cuộc thi hát nữa...

Câu chuyện dạy ca hát cho những người bạn khiến Thái Thanh luôn luôn cười thật sảng khoái. Tôi khen bàn tay chị đẹp, chị giơ bàn tay ra trước mặt, xoay qua xoay lại như tự tán thưởng làn da trắng mát và săn cứng như miếng thạch. Chị nói: "Nhiều người khen bàn tay tôi đẹp". Tôi hỏi: "Ban nãy chị nói chị đã bẩy chục?" Thái Thanh gật đầu: "Vâng. Tôi sinh năm 1934 tức tuổi Tuất mà".

Hỏi: Chị sanh ban ngày hay ban đêm?

Thái Thanh: Buổi sáng anh ạ.

Hỏi: Chị có tin tử vi không?

Thái Thanh: Rất tin tử vi. Nhưng phải gặp được ông thầy giỏi mới trúng.

Nguyễn Đắc Điều: Chị thấy tử vi trúng với cuộc đời chị?

Thái Thanh: Trúng nhiều lắm.

- Chị có tính về quê hương không?
Thái Thanh ngậm ngùi:
- Quê hương, nơi mình sinh ra, rồi là nơi chứng kiến từng bước đi đầu đời của mình thì ai chẳng muốn về. Nhưng sau năm 1975, tôi dù ở Sài gòn cũng chưa một lần về miền Bắc, và nay, ở Mỹ, tôi chưa bao giờ tính chuyện về Việt Nam. Gia đình của tôi đã ở đây hết. Ông bà, bố mẹ thì mất cả rồi. Ở Việt Nam mình không còn ai để phải về cả...

Câu nói của chị Thái Thanh ám ảnh chúng tôi trên đoạn đường về. Tôi biết khi chúng tôi từ biệt thì người nữ ca sĩ ở tuổi xế chiều này sẽ ngồi một mình trước pho tượng Phật. Có thể chị sẽ mở cuốn băng Mười Bài Đạo Ca. Và cầu nguyện.

Ban nãy chị tâm sự rằng chị luôn luôn cầu nguyện cho mọi người trước khi cầu nguyện cho bản thân chị. Ôi cao cả thay tấm lòng của người nghệ sĩ tài hoa ấy.

Đời tôi đã mang nợ chị quá nhiều, vì tiếng hát của chị đã ảnh hưởng vào tâm tư tình cảm tôi khi tôi đang bước trên đường tình cũng như lúc tôi ngồi bó gối trong chiếc xe tù chuyển trại, chợt nghe đâu đó giọng hát ngọt ngào của chị. Món nợ ấy chưa trả nay lại chồng thêm một món nợ mới mà tôi vừa phát giác, đó là lời cầu nguyện của chị cho mọi người trong đó có tôi, được sống thanh bình, hạnh phúc.

Hoạ sĩ JUNG HUN SUNG ( Hàn Quốc) lớn lên ở Yeosu và hiện sống tại Goyang. Sở trường vẽ màu nước và đã sáng tác nhiều tác phẩm tuyệt đẹp. Để thành công với chất liệu màu nước là điều không dễ dàng. Với sơn dầu, nếu không thích, ta có thể chồng màu khoả lấp cái cũ để vẽ cái mới. Với màu nước thì không thể, một nhát cọ đã buông xuống thì không sửa được hoặc rất khó để sửa. Do vậy, vẽ màu nước cần có tay nghề thành thục và kinh nghiệm lâu dài với chất liệu này. Tui giới thiệu một trong rất nhiều tác phẩm của Jung Hun Sung cho mọi người cùng thưởng lãm. Cứ tưởng tượng ta đang đi vào phòng trưng bày tranh và lần lượt thưởng thức.
23.2.2020
DODUYNGOC

Xem ảnh Full


Tôi đếm mười con cừu, trăm con cừu,ngàn con cừu
Tất cả đứng chênh vênh trên núi đá
Một vài con len lỏi ở trong khe
Vẫn không ngủ được
Đêm vô tận


Tôi đếm hàng triệu con ruồi trong bãi rác
Lúc nhúc như loài người ở địa cầu
Chúng kêu bằng một âm thanh kỳ lạ
Tiếng kêu từ đôi cánh chăng?
Những con mắt lồi trừng trừng nhìn tôi
Tôi vẫn thức
Và đêm vẫn dài

Tôi đếm những giấc mơ tôi đã mơ suốt một đời
Chúng bay cùng mây trên trời
Để lại những đắng cay
Và tiếc nuối
Giấc mơ không có âm thanh
Chúng nói bằng ngôn ngữ của tịch liêu
Tôi vẫn nhìn trần nhà
Đêm đông đặc lại

Tôi đếm những mặt nạ tôi đã gặp
Chúng nhiều như bướm
Mặt đỏ, mặt xanh, mặt vàng, mặt trắng
Toàn gian trá và lừa lọc
Tôi muốn đọc một câu trong kinh thánh
Chưa nhớ thì đã quên
Đêm tuyệt vọng
Tôi cũng chẳng còn hi vọng
Đôi mắt mở to giữa bề bộn chiếu giường

Tôi đọc vạn lời kinh từ khi tiếng chuông đồng hồ đổ
Chữ nghĩa bay phất phơ
Chuông mõ trốn biệt
Kinh cầu xẹt qua bóng tối
Tôi nhìn đêm
Đêm đứng ngoài cửa sổ

Tôi nguyền rủa đời mình bằng những tiếng lắp bắp
Những giọt mồ hôi giữa khuya vắng
Cơn dục tình không động đậy
Tôi nằm im nghe tiếng chó sủa trăng
Giấc ngủ chẳng về
Đêm trượt dài vết xước

Tôi đếm những người phụ nữ đã đi qua
Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười mười một
Không thiếu dối lừa và tệ bạc
Cũng thừa thãi đắm say
Những người phụ nữ đâm vào tôi rồi mất hút
Như bóng đêm
Cả một nửa thế giới ngủ rồi
Tôi còn thức

Sáng nay tôi như kẻ mộng du
Và buổi chiều một cơn choáng đến đột ngột
Khi đang ngồi với một ông tu sĩ
Điếu thuốc rời khỏi tay và những tờ tiền xanh bay lả tả
Quay mòng mòng như say sóng
Đêm đã bào mòn tôi
Và đời tôi đang mỏng dần đi
Một cái ngáp giữa hoàng hôn
Đêm nay lại thức
21.2.2020
DODUYNGOC



Thế là Tết đang đến. Đang là trưa 30 Tết. Nhà toả mùi nhang trầm, bỗng nhớ nhiều về những cái Tết của những ngày xưa cũ. Tết của những năm xưa cứ hiện về, không quên được. Nhớ nhất là bàn thờ, ba tôi luôn chú trọng cái bàn thờ dù trong hoàn cảnh nào. Ngày thường đã chăm chút, ngày Tết lại càng chăm sóc nhiều hơn. Khoảng sau khi đưa ông Táo về trời, tôi và anh trai lớn phải bắt tay vào chùi cho bóng bộ tam sự bằng đồng. Bộ này gồm cặp đèn, bộ lư, bình bông. Tất cả đều có chạm trổ mai lan, hoa điểu nên chùi rất cực. Phải cho thuốc vào các kẽ cho thấm, phơi nắng rồi mới dùng giẻ lau cho bóng ngời lên. Trước đó mấy hôm, tôi phải đi mua cát trắng về thay bát nhang mới. Những chân nhang cũ đem đốt, bỏ cát cũ, thay cát mới trắng ngần. Nhà tôi thờ một bức tranh Quan Thế Âm làm bằng vải nổi, bức tranh tượng rất nghệ thuật mà sau này tôi không còn tìm thấy đâu nữa. Tranh làm bằng vải bóng có hoa văn chìm nên không rửa được, hàng năm chính tay ba tôi lau chùi một cách thận trọng. Không hiểu sao ba tôi rất thích hoa vạn thọ, năm nào ba tôi cũng mua vài chậu để trước sân, trên hồ cá, màu vàng của hoa sáng cả một vùng. Mạ tôi lại chỉ thích hoa huệ trắng và hoa lay dơn đỏ. Một người thì thích loại hoa bình dân quê mùa, người kia lại chuộng loài hoa quý tộc, sang trọng. Hai ý thích trái ngược nhau thế mà vẫn sống với nhau hơn sáu mấy năm và sinh cả đàn con. Thế mới hay.

Chiều 29 Tết, ba ngồi gói bánh chưng. Ba tôi theo Tây học, học Huế rồi ra Vinh, không biết ba học gói bánh ở đâu và lúc nào mà ba gói rất khéo, bánh chặt, vuông vức mà chẳng cần khuôn. Mạ thì lo làm mứt, nhà đông con, món mứt nào cũng làm cả thau lớn. Tôi chỉ chờ món nào xong là xin vét thau, sao mà ngon thế. Đường cháy vàng, miếng mứt sót hơi quá lửa nhưng thật là tuyêt cú mèo. Mạ làm đủ thứ bánh, bánh in bột trắng, bánh đậu xanh khô, ướt nén trong những cái khuôn gỗ, bánh nổi lên những chữ Phúc, cành hoa. Xong lại gói trong giấy kiếng xanh đỏ nhìn rực rỡ sắc màu. Mấy người giúp việc thì lao xao cắt tiết gà vịt. Tôi tránh mấy cảnh này vì thấy thương chúng quá nhưng ăn thịt chúng thì chẳng chê. Dưa món, dưa kiệu xếp đầy trên garde manger. Có mấy hủ thịt dầm nước mắm, thịt đã thấm trong veo miếng mỡ, mai mốt mới được ăn.
Tất bật thế nhưng Mạ vẫn khoan thai với những giọt mồ hôi. Bận rộn thế nhưng Ba lại bao dung không khó khăn la mắng các con như ngày thường. Tết mà.

Trưa 30, pháo nổ đì đẹt khắp nơi. Sân nhà đủ màu của bông hoa, giữa sân thêm chậu mai vàng. Nấu nướng đã xong, tôi không còn chực để vét nồi, bắt đầu chạy đi lượm pháo lẻ nhà hàng xóm. Cứ nghe đâu có tiếng pháo là chạy đến, pháo vừa dứt tiếng là ùa vô lượm mấy viên pháo lép. Ôi những viên pháo lép của ngày xưa, niềm vui ngày Tết của một thời không tìm thấy nữa. Những viên pháo với tiếng nổ, với khói xịt và mùi thuốc súng. Đó là mùi của Tết. Mùi thuốc súng, mùi nhang trầm, mùi thức ăn ngào ngạt tạo ra một mùi thật lạ lùng chỉ có trong những ngày Tết. Ba bận bộ áo the đen, trịnh trọng đốt đèn, lư đồng sáng ngời toả hương trầm, bàn thờ sáng rực ánh nến với ánh đèn chớp nháy quanh khung ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát. Năm nào tôi cũng thấy ba tôi khóc, những giọt nước mắt của người đàn ông thường ngày là kẻ quyền uy nhất trong gia đình. Ba tôi nhớ quê hương, nhớ ông bà, nhớ mồ mả của ông bà nội không biết bao giờ mới được nhìn lại vì lúc đó đất nước chia hai bờ, chiến tranh chẳng biết bao giờ mới chấm dứt. Ba đốt một tràng pháo dài, xác pháo hồng tràn ngập sân, Tết tràn khắp nơi trong căn nhà. Rước ông bà xong là bữa cơm chiều ba mươi của gia đình. Mười mấy đứa con, thêm ba mạ, người làm, bữa ăn như là bữa cúng giỗ. Thức ăn ê hề lắm món, mấy đứa nhỏ loay hoay chẳng biết chọn món nào trước món nào sau, ba rót thêm chén rượu, một bữa ăn đầy những tiếng cười. Vừa bỏ chén xuống là tôi lại chạy đi kiếm pháo lép, để đầy một bọc, cứ ngồi ở sân mà đốt đì đùng. Sao hôm nay chợt nhớ tiếng pháo lạ lùng. Tiếng pháo của thời tuổi nhỏ đã đi qua không ngoái lại.

Đem ba mươi chúng tôi được thức chờ giờ giao thừa. Gió xuân lành lạnh, có năm phải mang áo ấm. Đồng hồ điểm mười hai giờ, pháo nổ khắp nơi. Bàn cúng ở ngoài sân, ba lại mặc áo the dâng hương rồi đốt thêm phong pháo. Tụi tôi ăn mặc chỉnh tề, xúng xính trong bộ quần áo mới, cũng cúi lạy chào xuân mới, rồi xếp hàng chúc Tết, rồi lại ăn khuya. Món chè đậu xanh Mạ nấu ngon thiệt là ngon, sau này mấy đứa con dâu nào cũng học nấu chè đậu xanh ở Mạ. Giờ trong đầu tôi vẫn hiện ra mồn một những dãy chén chè đậu xanh xếp lớp ở trên bàn, những cái chén kiểu trắng ngần vẽ rồng xanh. Những chén chè khoai môn tím rịm. Ôi chao! Nghe như có vị ngọt đang nằm trên đầu lưỡi.

Sáng mồng một, Ba dậy sớm lại đốt thêm phong pháo dài. Mạ diện chiếc áo dài nhung hoặc gấm. Mạ đeo chuỗi ngọc trắng, có khi là chiếc kiềng vàng. Ba bận bộ veston xanh đậm, thắt cà vạt đỏ chở mạ đi chùa, hái lộc. Hoa mai nở vàng sân.
Nhớ tà áo dài của Mạ, nhớ dáng bước của Ba.
Tụi tôi ở nhà, diện đồ đẹp hớn hở đi ra đi vào chờ khách đến lì xì. Ngày thường muốn ăn gì phải xin, có phép mới được ăn. Mấy hôm Tết được ăn thả dàn, đi ra bốc miếng mứt, đi vào lấy miếng bánh, ăn suốt cả ngày. Chiều tối cả nhà ngồi quanh chơi bài Tới. Nào là con Ầm, con Tuyết, Nọc đượng, Mõ... Vui lắm. Những con bài tới là những miếng bìa dài trên vẽ những hình ngoằn nghèo như tranh trừu tượng, như totem của mấy dân tộc da đỏ. Rồi chuyển sang đánh bài các tê. Mạ tôi là bậc sư của mấy món cờ bạc này, mạ chơi chỉ thắng chứ không bao giờ thua, tài thế. Đứa thua mặt méo xẹo, đứa thắng thì hớn hở. Mấy món cờ bạc này kéo dài đến tận mồng năm Tết. Rồi mọi chuyện trở về như cũ. Tết đi qua.

Bây giờ đã vào tuổi già, đã gần đến bảy mươi. Con cháu cũng đã đủ đầy, ngày Tết chẳng còn không khí cũ. Ba Mạ lần lượt khuất bóng, người thân cũng mất dần. Tết bây giờ thiếu pháo nên Tết mất đi một nửa không khí Tết. Thức ăn bây giờ cũng chẳng thiếu nhưng lại thiếu cái hồn Tết của những ngày cũ. Chiều ba mươi đốt nén nhang tưởng nhớ mọi người đã khuất, nhớ những ngày Tết năm xưa, lòng bỗng rưng rưng.
30 Tết
4.2.2019
DODUYNGOC

Chiều đã cũ rồi chiều rất cũ
Vạt nắng cuối ngày màu phôi pha
Ngồi trong sân lắng nghe tiếng lá
Lá về đâu gió lạc về đâu?


Tuổi đã mòn trôi giạt cuối sông
Chẳng còn ai để có chờ mong
Chiều cuối năm già không còn mộng
Lọ cô đơn cắm một bông hồng

Suốt một năm giờ còn một ngày
Ta không uống rượu nên chẳng say
Vẫn cảm đất trời đang nghiêng ngửa
Và đám mây cuồng vẫn tiếp bay

Chiều đã cũ rồi chiều rất cũ
Nắng băn khoăn một lát lùi đi
Chim lười biếng dấu đầu ủ rũ
Ta buồn tênh chẳng biết làm gì

Đốt cối thuốc thấy mình tồn tại
Lòng hoang mang theo khói lượn lờ
Thôi cứ chọn làm người thất bại
Để đêm nằm nuôi lại cơn mơ

Nhìn thiên hạ xôn xao giữa phố
Tết cận rồi ta vẫn dửng dưng
Không có pháo sao nghe tiếng nổ
Cứ râm ran chẳng biết điểm dừng

Chiều đã cũ rồi chiều quá cũ
Đang trôi dần về phía hoàng hôn
Nắng cũng nhạt, phai trên vành mũ
Tiếng chim kêu nghe bỗng hoảng hồn
Sài Gòn.29 Tết
23.01.2020
DODUYNGOC




Món ăn lừng danh thiên hạ gắn liền tên tuổi đô thị cổ
Ngày 27.12, TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) sẽ kỷ niệm 340 năm thành lập Mỹ Tho đại phố, đô thị có tuổi đời cao nhất vùng Nam Bộ, trước cả đô thành Sài Gòn-Gia Định. Theo sử sách, khoảng năm 1623, Mỹ Tho (theo tiếng Khơme có nghĩa là cô gái đẹp) đã có những nhóm lưu dân người Việt đến khai phá, định cư xen kẽ với cư dân người Khơme có mặt từ trước.
Sách Đại Nam nhất thống chí viết, tháng giêng năm Kỷ Mùi thứ 32 (1679) một nhóm người Minh Hương do tướng Dương Ngạn Địch của nhà Minh (Trung Quốc) không đầu phục nhà Thanh, nên đem binh lính và quyến thuộc hơn 3.000 người và hơn 50 chiến thuyền xin quy phục chúa Nguyễn. Lúc bấy giờ, chúa Nguyễn cho Dương Ngạn Địch đưa thuyền vào cửa Tiểu, cửa Đại, đến khai khẩn, định cư ở Mỹ Tho.
Tại đây, nhóm Dương Ngạn Địch nhóm họp với người Việt, người Khơme khai khẩn ruộng đất, trồng trọt, lập thôn ấp. Tận dụng nguồn lợi sản vật dồi dào của địa phương, nguồn nhân lực đã khá đông, lại có vị trí địa lý thuận lợi, nhóm người của Dương Ngạn Địch lập Mỹ Tho đại phố, từ đó tàu thuyền tới lui buôn bán đông đúc.
Mỹ Tho đại phố được xác lập tọa lạc ở làng Mỹ Chánh, H.Kiến Hòa, nằm dọc theo nhánh bên trái của rạch Mỹ Tho, bắt đầu từ bến Tắm Ngựa ở chỗ giao nhau giữa rạch Mỹ Tho với sông Tiền (nay thuộc P.2, TP.Mỹ Tho), chạy dài theo đường Nguyễn Huỳnh Đức hiện nay khoảng 4km (nay thuộc P.2 và P.8, TP.Mỹ Tho) cho đến cầu Vĩ, Gò Cát (nay thuộc xã Mỹ Phong, TP.Mỹ Tho).
Ngày xưa, ghe thuyền, vật lực từ các địa phương khác, kể cả nước ngoài tụ họp về Mỹ Tho đại phố rồi tỏa ra khắp nơi, thông thương với các địa phương khác. Từ thế kỷ 17, Mỹ Tho đại phố đã trở thành một trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ, là thương cảng có quan hệ buôn bán với nhiều thương nhân nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Philippines…
Sau đó rất nhiều làng xã mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho đại phố như An Hòa (Thạnh Trị), Điều Hòa, Bình Tạo, Phú Hội, Đạo Ngạn, Mỹ Hóa… Đến thế kỷ 17, 18, các chúa Nguyễn đã xác lập và khẳng định chủ quyền vùng đất Mỹ Tho vào bản đồ Đại Việt, từ đó mở mang bờ cõi, nối liền một dải từ bắc sông Tiền tới miền Hà Tiên (Kiên Giang).
Năm 1808, trấn Định Tường được thành lập với Mỹ Tho đại phố là lỵ sở. Đến năm 1826, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở trấn Định Tường sang phía tây sông Bảo Định thuộc 2 thôn Điều Hòa và Bình Tạo của H.Kiến Hưng (nay thuộc các P.1, P.4 và P.7), phủ Kiến An, tỉnh Định Tường và vẫn giữ tên gọi Mỹ Tho.
Năm 1861, người Pháp chiếm thành Định Tường, san bằng thành lũy và cho xây dựng các công sở, chợ, trường học, nhiều công trình khác tại làng Điều Hòa (P.1 và P.7 ngày nay) và khu vực này trở thành trung tâm TP.Mỹ Tho cho đến ngày nay. Năm 1900, Mỹ Tho trở thành tỉnh lỵ Mỹ Tho, có đường xe lửa dài 70km nối với Sài Gòn, do người Pháp xây dựng năm 1881, khánh thành vào tháng 7.1885, là tuyến đường sắt sớm nhất ở Đông Dương.
Tròn 340 năm tuổi, cùng với sự biến thiên của thời gian và tốc độ đô thị hóa, ngày nay dấu tích xưa của Mỹ Tho đại phố hầu như không còn. Có chăng chỉ còn vài di tích tuổi đời chưa đến 200 năm như Trường trung học Mỹ Tho (Collège de Mytho, mở năm 1879), chùa Vĩnh Tràng (xã Mỹ Phong), chùa Bửu Lâm (P.3), chùa Thiên Phước (xã Mỹ Phong), chùa Ông (P.8)…
Nhưng có một món ăn lừng danh mà bất kỳ ai khi đến TP.Mỹ Tho đều phải tìm ăn cho bằng được, đó là hủ tiếu Mỹ Tho. “Hồi nhỏ tôi nghe ông bà xưa hay kể, hủ tiếu và mì, bánh bao là món ăn của người Hoa, nhiều khả năng xuất hiện ở Mỹ Tho từ khi nhóm người Minh Hương của tướng Dương Ngạn Địch thành lập Mỹ Tho đại phố. Vì vậy có thể nói, Mỹ Tho đại phố bao nhiêu tuổi thì món hủ tiếu Mỹ Tho lừng danh cũng có mặt trên vùng đất này từng ấy năm”, ông Phạm Văn Phương, người sành ăn quê gốc ở Mỹ Tho, cho biết.
Theo ông Phương, hiện nay TP.Mỹ Tho có rất nhiều tiệm bán hủ tiếu, nhưng muốn ăn được tô hủ tiếu Mỹ Tho nấu đúng bài bản là chuyện không dễ.
Bí ẩn trong tô hủ tiếu có lịch sử hàng trăm năm tuổi
Ông Phương cho biết món hủ tiếu Mỹ Tho được nhiều người biết đến vào những năm 1950-1960, được bán trong hàng loạt tiệm mì nổi tiếng của người Hoa như Khánh Ký, Tuyền Ký, Vĩnh Ký, Hưng Ký… Nhưng hiện tại, khi đến TP.Mỹ Tho, thực khách khó tìm được tô hủ tiếu được nấu theo kiểu ngày xưa, bởi ngày càng có nhiều cách nấu khác nhau, khiến rất nhiều người ngộ nhận về món ăn này.
Theo ông Phương, tô hủ tiếu Mỹ Tho được đánh giá là “ngon đúng điệu” thì nồi nước lèo phải được hầm bằng xương heo và củ cải trắng, tôm khô, mực khô, củ cải muối để lấy vị ngọt. Nếu dùng đường cát, bột ngọt, bột nêm tạo vị ngọt thì nồi nước lèo xem như… vứt. Ngoài nước dùng (nước lèo) “đặc sản”, tô hủ tiếu Mỹ Tho được trang bị thêm mộ số “phụ tùng” như thịt nạc, thịt bằm, sườn non, tim, gan, phèo heo, tôm bóc vỏ, giá, hẹ, cải xà lách, dấm Tiều, chanh, ớt.
Tuy nhiên, hồn cốt của món ăn trứ danh này không nằm ở các món ăn kèm mà chính là ở sợi hủ tiếu. Ông Phương kể, từ xưa sợi hủ tiếu Mỹ Tho cọng nhỏ, dai, mềm, thơm phức mùi gạo khiến mọi người ưa chuộng do được làm từ những hạt gạo ngon nổi tiếng của xứ Gò Cát thuộc vùng phụ cận của Mỹ Tho đại phố (nay là xã Mỹ Phong, TP.Mỹ Tho).
Sợi hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng đến mức, nhiều năm qua TP.Mỹ Tho đã thành lập hẳn một làng nghề truyền thống chuyên sản xuất sợi hủ tiếu, bánh, bún từ bột gạo ở xã Mỹ Phong. Hiện nay xứ Gò Cát không còn trồng lúa, nên gạo Gò Cát cũng không còn. Các nghệ nhân làng nghề phải sử dụng các loại gạo ngon của những vùng khác để sản xuất sợi hủ tiếu, nhưng chất lượng không thua kém sợi hủ tiếu Gò Cát ngày xưa.
“Mấy năm nay Việt kiều sinh sống ở Mỹ, châu Âu, châu Úc… khi ghé Mỹ Tho đều tìm mua sợi hủ tiếu Mỹ Tho về làm quà, nhưng ít người biết Mỹ Tho không còn gạo Gò Cát. Trong khi đó khách thập phương khi đến Mỹ Tho đều phải tìm ăn cho bằng được 1 tô hủ tiếu nổi tiếng có lịch sử hàng trăm năm.
Nhưng hiện nay tại Mỹ Tho, món hủ tiếu ngày càng có nhiều biến tướng khi chủ quán cho thêm vào cả thịt gà, cá, mực, bò viên, trứng cút, giò heo… khiến người ăn không thể phân biệt như thế nào mới là tô hủ tiếu Mỹ Tho chính hiệu. Theo tôi, hiện tại ở TP.Mỹ Tho những quán nấu được món hủ tiếu đúng điệu, mà nấu ngon nhất chính là những quán do người Hoa làm chủ, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay”, ông Phương nói.
Nhắc đến hủ tiếu Mỹ Tho, có chi tiết thú vị mà ít người còn nhớ: năm 2008 khi TP.Long Xuyên (An Giang) đăng cai tổ chức Hội chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao thì tỉnh Tiền Giang cử các nghệ nhân của làng nghề bánh bún, hủ tiếu Mỹ Phong mang món hủ tiếu đặc sản trứ danh đến tham dự.
Lúc bấy giờ, dù TP.Long Xuyên có đủ loại hủ tiếu, kể cả món hủ tiếu Nam Vang và hủ tiếu cá Châu Đốc lừng danh, nhưng mỗi ngày vẫn có hàng trăm lượt người vào hội chợ xếp hàng để được thưởng thức món hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng.
Người ta ăn hủ tiếu Mỹ Tho nhiều đến mức các đầu bếp phải hối thúc người ở nhà tăng cường gửi các loại nguyên liệu, gian hàng phải mở cửa bán suốt ngày trong khi kế hoạch ban đầu chỉ bán vài hôm để… lấy tiếng.
Trong khi đó, theo ông Phương, rất ít món ăn có tên tuổi gắn liền với địa danh hàng trăm năm mà vẫn “nổi tiếng thiên hạ” như hủ tiếu Mỹ Tho, nên dịp kỷ niệm 340 năm khai sinh Mỹ Tho đại phố thì món hủ tiếu Mỹ Tho trứ danh cũng nên được đề cập, quảng bá, tôn vinh xứng tầm.
Thanh Anh

Ta như con thú bị thương
Tìm nguồn nước
Suối hồ ở sát đây mà không tới được
Ta lê thân
Bò như loài bò sát
Chỉ một bước chân chẳng với tới
Ngã sóng soài trên nền nhà
Nằm yên và thở
Nước mắt tràn đầy mặt
Trần nhà như bầu trời
Đổ ập xuống
Không điều khiển được thân thể mình
Ta kêu gào như loài thú
Rừng hoang vu
Và căn nhà lạnh lẽo
Thú đã bỏ rừng đi vì sự ruồng đuổi của loài người
Ta một mình và chẳng còn ai


Nỗi cô đơn là độc dược
Ta hiểu tại sao Kawabata mở lò gaz kết liễu đời mình
Ta hiểu tại sao Van Gogh bắn vào ngực mình bằng khẩu súng lục
Ta hiểu tại sao Hemingway nã vào đầu mình bằng khẩu súng săn
Và vì sao Robin Williams tự sát
Nỗi cô đơn là thủ phạm

Ta bây giờ là con thú bị tù hãm
Không liếm được vết thương
Nằm trong hang giữa sa mạc
Nỗi cô độc chỉ có gió và cát
Và cô đơn sẽ giết chết ta trước khi vết thương kết liễu mạng sống
Ta gào lên không vọng âm
Giáng sinh
Chúa vắng mặt
Chẳng còn ai, không còn ai
Thế giới đã chết
24.12.2019
DODUYNGOC

Trước năm 1975, tui khoái kiểu vẽ bìa nhạc của hoạ sĩ Duy Liêm và Kha Thuỳ Châu. Nhiều bản nhạc tui không thích nhưng vì cái bìa nên tui cũng mua. Hai hoạ sĩ vẽ hai phong cách khác nhau, đặc biệt là hoạ sĩ Duy Liêm, hình vẽ của ông có nhiều hình khối, đường cong, nét gãy rất đặc biệt. Chữ tít bản nhạc ông cũng thường sử dụng những nét gãy không giống ai trước đó tạo thành font chữ của Duy Liêm. Hồi thời sinh viên, tui nhận viết thông báo, vẽ bích chương, biểu ngữ cho Viện Đại học Vạn Hạnh, rồi nhận làm bìa sách, tui cũng thường bắt chước kiểu chữ của ông. Sau năm 1980, tui vẽ rất nhiều bìa sách, cũng học của ông rất nhiều về bố cục, font chữ.


Sau này khi tìm hiểu về hoạ sĩ Duy Liêm mới thấy ông có số lượng sáng tác đồ sộ và phong phú vô cùng. Ông đã từng vẽ tiền từ thời Việt Minh, vẽ áo dài cho bà Ngô Đình Nhu, tranh sơn mài Thành Lễ, Lam Sơn, mẫu thêu, tranh lụa, tranh sơn dầu. Hoạ sĩ Duy Liêm từ năm 1954 đến khi qua đời đã vẽ hàng trăm bìa sách, hàng trâm bản nhạc. Ông là người kín tiếng, không khoe khoang cũng như ít ngao du với văn nghệ sĩ nên ít người biết ông là một hoạ sĩ đa dạng, đa tài và có một số lượng tác phẩm gây sửng sốt cho người tìm hiểu về ông. Các nhạc sĩ miền Nam trước 1975 thường muốn có bìa nhạc của mình do hoạ sĩ Duy Liêm vẽ. Thời đó nổi bật có các nhà xuất bản chuyên in nhạc là Tinh Hoa Miền Nam, Diên Hồng, Sống Mới…đây là các nhà xuất bản rất chuộng nét vẽ của hoạ sĩ Duy Liêm.

Trong cuốn sách “Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại » (in tại Hoa Kỳ năm 2009) của nhà phê bình nghệ thuật Huỳnh Hữu Ủy, phần “Tiến vào nghệ thuật mới”, tác giả xếp họa sĩ Tạ Tỵ và Duy Liêm vào một nhóm. Theo Huỳnh Hữu Ủy, sau 1954 cho đến các năm 70, Duy Liêm đã rất thành công với “Lập thể Duy Liêm” trong đại chúng, xâm nhập mạnh mẽ vào trong cuộc sống hằng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là các minh họa trên các bìa nhạc của các nhạc sĩ nổi tiếng như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Phạm Đình Chương… và vẽ nhiều mẫu tranh cho hãng Thành Lễ với tư cách là họa sĩ chính. (Phạm Công Luận)
(Trích trong cuốn “Sài Gòn – Chuyện đời của phố” tập 1)

Nhiều người treo trong nhà những bức sơn mài của Thành Lễ trước đây và Lam Sơn sau này nhưng chẳng mấy người biết đó là tác phẩm của hoạ sĩ Duy Liêm. Cho đến giờ, gần 60 đi qua, tui vẫn kính phục ông, vẫn mê những tranh và bìa nhạc của ông.
17.12.2019
DODUYNGOC

HOẠ SĨ DUY LIÊM


Hôm qua mây toả về trời
Một người đứng lại tơi bời ruột gan
Đưa đôi tay gói gian nan
Con trăng lạnh buốt giữa ngàn ngói xiêu


Bên cành lau trắng cuối chiều
Xôn xao đá vỡ với nhiều khói bay
Còn chi đâu ngửa bàn tay
Buồn gieo lên hạt phơi bày cơn đau

Ta chôn đời đến ngàn sau
Rừng khô lá mục chín màu trăm năm
Sóng xô trắng xoá chỗ nằm
Gió xao xác gọi mưa bằm thịt xương

Người đâu hình đọng trong gương
Tiệc tan ly vỡ chiếu giường buồn thiu
Ngóng trời cây lá hắt hiu
Phần đời sót lại chắt chiu một mình

Giữa sân chim đứng làm thinh
Bên hiên nắng dọi in hình gãy ngang
Kỷ niệm xưa đứng xếp hàng
Sầu vừa chín héo sẵn sàng máu khô

Lạnh về lớp lớp sóng xô
Heo may lãng đãng mơ hồ tiếc thu
Đông về tờ lịch sa mù
Tháng mười hai đợi tội tù tiếp theo
4.12.2019


Nhìn những bức ảnh dưới đây, ta trầm trồ vì độ chân thực và thần thái của nó. Ta lại càng thán phục hơn khi biết rằng những tác phẩm này được vẽ bằng bút nguyên tử, loại bút bây giờ gọi là bút bi, học sinh thường sử dụng. Nghệ sĩ tài hoa tạo nên những tác phẩm tuyệt vời này là Enam Bosokah, nghệ sĩ của lục địa đen.

Enam Bosokah là một nghệ sĩ người Ghana sử dụng bút bi để vẽ những bức chân dung tuyệt đẹp, chân thực.

Cách đây vài năm, nghệ sĩ người Ghana, anh Bosokah, đang làm việc trong một nhóm sắp đặt tác phẩm điêu khắc. Do những hạn chế của dự án, anh chán nản và cảm thấy rằng sự sáng tạo của mình đang bị lạm dụng. Và anh ấy bắt đầu vẽ bằng bút bi như một hình thức thể hiện khác. Anh ta đã vẽ chân dung bằng bút bi.từ thời còn đi học trung học, anh đã nhiều lần vẽ lung tung trên giấy bằng cây bút đi học của mình

Kể từ khi trở nên chuyên nghiệp với cây bút ba năm trở lại đây, Bosokah đã tự khẳng định mình là một trong những nghệ sĩ bút bi nổi tiếng nhất Châu Phi. Tác phẩm của ông, một số trong đó là những nhân vật nổi tiếng, có rất nhiều trên internet như là bằng chứng về nghệ thuật của ông. Khi tìm kiếm trực tuyến tên của anh ta sẽ thấy chân dung của Bob Marley, Kwame Nkrumah, Nelson Mandela và các biểu tượng da đen nổi tiếng khác, những người anh coi là mẫu mực.

Cho đến nay, anh đã có ba triển lãm cá nhân và một triển lãm nhóm. Anh tham gia triển lãm nhóm, Văn hóa Canvass, vào tháng 7 năm 2013, tại khách sạn Movenpick tại Accra, trong khi chương trình solo đầu tiên của anh, Triển lãm Ghoe, được tổ chức vào tháng 11 năm 2014 tại Golden Tulip, Kumasi.

Cùng lúc làm việc để triển lãm, Bosokah cũng nhận làm việc theo đơn đặt hàng, với mức phí từ 375 đô la đến 500 đô la một tấm tranh, theo True African Arts. Trong mọi trường hợp, anh kiếm được hàng ngàn trong khoảng một tuần để hoàn thành, anh làm việc chủ yếu vào ban đêm - vì sự yên tĩnh - từ nhà của anh ở Accra.

Quy trình bắt đầu bằng cách chọn một cây bút và tờ giấy, anh nói. Sau đó, tôi tạo một bản phác thảo nhanh hoặc theo dõi hình ảnh tham chiếu của mình và tiến hành bằng cách tạo các lớp nét, sắp xếp lại các nét và các dấu chấm cho đến khi tạo xong hình cơ bản. Dần dần xây dựng các sắc thái và cuối cùng hoàn thiện bằng cách thiết lập các chi tiết. Công việc của tôi như thế là xong và tác phẩm đã sẵn sàng để đóng khung.

Enam Bosokah sinh ngày 17 tháng 3 năm 1987. Anh đến từ vùng Volta của Ghana, nơi anh học tiểu học và trung học. Bosokah xuất thân từ một dòng tộc nghệ sĩ và anh đã cho biết rằng anh vẽ tử thời còn bé, Giáo viên dạy anh đã ghi nhận tài năng của anh và khuyến khích anh nên chọn hội hoạ làm sự nghiệp.
Anh học nghệ thuật tại Đại học Khoa học và Công nghệ Kwame Nkrumah và sau đó hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp.

"Tôi đã chọn cây bút vì nó tiện dụng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ" ông nói về công cụ ưa thích của mình, nhiều nghệ sĩ không thích cây bút này vì tính không thể thay đổi của nó. Nhưng anh ấy đã tìm thấy nó là công cụ dễ sử dụng tốt hơn.

Bosokah vẫn chưa đặt tên cho phong cách vẽ của mình, kết hợp rất nhiều đường nét và dấu chấm. Hiện tại, anh vẫn đang thử nghiệm và tin rằng mình đang trên hành trình khám phá bản thân. Bosokah là một nghệ sĩ đa năng, cũng làm việc với các vật liệu như đất sét, nhựa tổng hợp và sợi thủy tinh. Tuy vậy, anh không muốn sớm phân loại mình là một nghệ sĩ bút bi. Anh xem nghệ thuật của mình như một phần mở rộng của chính mình.

Anh là một nghệ sĩ đang lên và sắp tới vẫn đang thử nghiệm các phương tiện nghệ thuật khác nhau, tôi hy vọng sẽ có những sáng tạo khác tiếp theo trong nghệ thuật châu Phi, anh nói.

Hy vọng, anh sẽ có những thành công không khác Jonathan Kwegyir Aggrey của Ghana, Adebanji Alade của Nigeria và Ashley Oubre của Hoa Kỳ, những nghệ sĩ mà anh ngưỡng mộ.
4.12.2019
DODUYNGOC
https://youtu.be/TqZGideXi1s

XEM ẢNH ENAM BOSOKAH









Lâu lắm rồi sáng nay mới trở lại ăn phở Minh. Quán nằm trong hẻm nhỏ đường Pasteur, ngày xưa phía ngoài là rạp xi nê Casino Sài Gòn. Ngoài phố bao nhiêu đổi thay theo thời gian, rạp xi nê không còn, thay vào đó là cao ốc khách sạn sang trọng, bề thế,. Thế nhưng con đường vào hẻm nhỏ xíu và quán phở Minh vẫn thế. Hẻm nhỏ, những căn nhà bình yên, quán phở vẫn thấy trống trải vì chỉ để chưa đến chục cái bàn, đấy là kể luôn căn đối diện. Quán vẫn có cảm giác xưa xưa, cũ cũ loáng thoáng mùi của quá khứ. Ngồi trong quán, nhìn mặt bàn lên nước và bà chủ khẳng khiu, thấy thời gian như dừng lại, chỉ thiếu bài thơ Phở tìm không thấy. Nghe kể hồi xưa lắc lơ có ông chủ tiệm giày bên Lê Thánh Tôn rất mê ăn phở và cũng mê truyện kiếm hiệp Kim Dung, một thứ truyện một thời dân miền Nam nhiều người nghiện. Ông chủ phở Minh và ông chủ tiệm giày cũng là dân Bắc kỳ và là bằng hữu thân thiết. Tuy là chủ hiệu giày nhưng cũng có máu văn chương nên có tặng ông bạn mình một bài thơ phở với đủ thứ phụ tùng của phở:

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…

Ngày xưa ông chủ phở thuê người viết bài thơ theo kiểu chữ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, lối chữ tương tự bây giờ gọi là thư pháp ấy và treo ở vị trí trang trọng trên vách của quán phở. Giờ không thấy nữa.

Phở Minh bao năm rồi vẫn thế, tô phở nho nhỏ vừa ăn, thịt cũng không nhiều, đủ để còn thèm cho ngày mai. Hương vị nhẹ, không nồng đinh hương, quế, hồi mà chỉ mùi gừng nướng phảng phất quyện chút hương sả mà người tinh ý sành ăn lắm mới nhận ra. Bát phở thanh cảnh, người khách cảm thấy nhẹ nhàng mà ăn, từ từ mà thưởng thức. Hôm nay trở lại, hình như nước lèo hơi thiếu đậm đà và bánh hơi nhão, nhưng thịt thì vẫn thế, đủ tái, nạm, gân, gầu, vè. Ở đây, miếng nạm, miếng gầu vẫn dậy mùi thơm, beo béo, mềm vừa ăn mà không nát. Mang tiếng phở Bắc, nhưng ở đây vẫn có rau, ngò gai, giá trụng, tương đen tương đỏ như quán phở Nam. Có lẽ trải bao năm, quán phở Minh vẫn giữ được hương vị đặc trưng của miếng thịt bò của quán, béo mà không ngậy, mềm đủ để nhai thấm trong từng thớ lưỡi. Quan phở Minh cũng có món xí quách ngon nhưng khó gọi vì phải dặn trước mới còn.

Phở Minh có mặt ở đây từ năm 1942 với chiếc xe đẩy nhỏ, đến năm 1950 thì thành tiệm. Bao nhiêu năm trôi qua, bao biến thiên của thời cuộc, quán phở hầu như không đổi, hương vị cũng chẳng phai theo thời gian.

Biển hiệu “phở Minh” và các vật trang trí vẫn còn được giữ nguyên vẹn mà nổi bật là chiếc đồng hồ Odo gõ kính cong như nhắc nhở dù qua bao năm tháng, phở Minh cũng chẳng có chi đổi khác. Chắc ông chủ ngày xưa đã đi xa rồi, bếp chính hiện nay là bà Sáu, con gái út ông chủ đầu tiên của phở Minh. Bà cũng đã già, với dáng gầy gò, có lẽ mốt mai sẽ đến thế hệ thứ ba tiếp nối.

Quán không đông đúc, xô bồ như những quán phở nổi tiếng ở Sài Gòn. Ngồi trong hẻm nhỏ, trong quán phở đã có mặt ở đất này hơn bảy chục năm, giữa chen chúc, lộn xộn ngoài kia, lại tìm thấy một khoảng lặng rất bình yên với bát phở bốc khói ngào ngạt. Ăn bát phở để nhớ một thời trẻ trai, nhai miếng thịt để nhớ thương một thuở hàn vi, muốn ăn được bát phở ở đây cũng không phải dễ vì nghèo.

Giờ đã tuổi lão, tóc chẳng còn xanh, chân tay đã yếu, râu đã bạc, người thân kẻ còn người mất, ngồi lại quán xưa cũng một thoáng ngậm ngùi
29.11.2019
DODUYNGOC





Đã có tiếng kêu cứu từ Hong Kong. Tình hình càng ngày càng tồi tệ và tuyệt vọng. Bởi chính quyền Trung Quốc cương quyết không lùi bước và quyết định phải dập tắt cuộc đấu tranh với bất cứ giá nào.

Cảnh sát Hồng Kông với chiến dịch tấn công nhắm súng vào đầu người biểu tình, xịt hơi cay và đè một phụ nữ mang thai xuống đất, điên cuồng sử dụng đạn hơi cay, đạn cao su, xua đuổi và bắt bớ nhiều người. Cảnh sát Hồng Kông không chỉ đóng giả làm nhân viên cứu hỏa, mà còn cải trang thành người biểu tình ở khu vực đường Tai Po để vào trong Đại học Trung văn. Nhiều trường đại học đã bị tấn công, nhiều sinh viên đã bị bắn, bị bắt, máu đã loang trong sân trường đại học. Khi cuộc biểu tình ở Hong Kong nổ ra, người ta đã lo sợ một Thiên An Môn thứ hai sẽ được lập lại. Và theo thời gian, quả đúng là như thế, nhưng bây giờ chính quyền Trung Quốc nhiều thủ đoạn hơn, tinh vi hơn và thâm độc hơn. Đã có nhiều xác chết trôi sông, đã có nhiều thanh niên bị bắt, đã có nhiều người mất tích không lý do. Tất cả đều nằm trong âm mưu của giới lãnh đạo. Dù chính quyền Trung Quốc có dùng mọi biện pháp tàn khốc để đàn áp cuộc biểu tình, bởi chúng vốn là vô nhân tính, thì tuổi trẻ Hong Kong, nhân dân Hong Kong vẫn tiếp tục chiến đấu. Bởi họ biết rằng mất tự do là mất tất cả. Họ sẽ trở thành những nạn nhân như người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ. Một trăm năm sống dưới sự lãnh đạo của người Anh, người Hong Kong đã học được dân chủ và tự do. Do vậy họ sẽ chiến đấu để giữ cho được dân chủ và tự do ấy. Trong những ngày tới Trung Quốc lặp lại tội ác dã man tàn bạo giống như thảm trạng Thiên An Môn 30 năm về trước với chính đồng bào họ ở đại lục. Máu sẽ còn đổ, máu cho tự do và quyền được làm người.

Lực lượng Cảnh sát đặc nhiệm HongKong đã tấn công Poly University. Không được ai rời khỏi trường, những sinh viên thoát được ra ngoài đã bị bắt trói và đưa đi. Phần lớn sinh viên đã quyết tâm ở lại để tiếp tục chiến đấu thành luỹ cuối cùng của tự do. Hàng nghìn người HongKong kêu gọi nhau đổ ra đường tuần hành để thu hút bớt lực lượng cảnh sát, giảm áp lực cho Poly University. Những người cảm tử bám lại trong trường đại học có thể rồi đây sẽ đổ máu và cũng có thể chết vì viên đạn hay bị bắt rồi mất tích không lý do, thế nhưng họ không chùn bước, họ không sợ sức mạnh và súng đạn của bọn tà quyền. "Tôi đã sẵn sàng chết trong đêm nay !". Đã có người và nhiều người tuổi trẻ Hong Kong nói như thế. Những cái chết cho tự do. Tự do, dân chủ phải đổi bằng máu xương và cả mạng sống, không thể có một thứ tự do ban phát. Đó là bài học của cuộc đấu tranh này gởi đến các dân tộc chưa có được dân chủ và tự do. Bằng bạo lực, chính quyền Trung Quốc đã tước quyền được sống tự do và được hưởng dân chủ của con người. Lương tri của thế giới sẽ lên tiếng, máu xương đã đổ của thế hệ trẻ Hong Kong để đòi quyền tự do phải được đền đáp.

Chính quyền Trung Quốc bằng những âm mưu để tiêu diệt cuộc đấu tranh đã trở thành lực lượng khủng bố tàn nhẫn của thời đại. Tuổi trẻ HongKong đứng trước chọn lựa Tự do hay là chết vì bị tước quyền làm người.
Một chọn lựa khắc nghiệt đầy máu và nước mắt.
19.11.2019
DODUYNGOC


Đây là bức tranh vẽ bằng bút chì của một cô bé 16 tuổi tên là Shania McDonagh người Ireland. Bức tranh vẽ chân dung của một người phụ nữ đánh cá đẹp đến từng chi tiết và đã dành được giải thưởng cao nhất trong cuộc thi Texaco Children’s Art Competition lần thứ 60 (cuộc thi dành cho thanh thiếu niên được tổ chức hằng năm tại Ireland). Cô gái đã bắt đầu vẽ năm 12 tuổi.

Tui xin cúi đầu khâm phục tài năng của cô gái này.

Xem tại đây

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget