Latest Post



Thế là Tết đang đến. Đang là trưa 30 Tết. Nhà toả mùi nhang trầm, bỗng nhớ nhiều về những cái Tết của những ngày xưa cũ. Tết của những năm xưa cứ hiện về, không quên được. Nhớ nhất là bàn thờ, ba tôi luôn chú trọng cái bàn thờ dù trong hoàn cảnh nào. Ngày thường đã chăm chút, ngày Tết lại càng chăm sóc nhiều hơn. Khoảng sau khi đưa ông Táo về trời, tôi và anh trai lớn phải bắt tay vào chùi cho bóng bộ tam sự bằng đồng. Bộ này gồm cặp đèn, bộ lư, bình bông. Tất cả đều có chạm trổ mai lan, hoa điểu nên chùi rất cực. Phải cho thuốc vào các kẽ cho thấm, phơi nắng rồi mới dùng giẻ lau cho bóng ngời lên. Trước đó mấy hôm, tôi phải đi mua cát trắng về thay bát nhang mới. Những chân nhang cũ đem đốt, bỏ cát cũ, thay cát mới trắng ngần. Nhà tôi thờ một bức tranh Quan Thế Âm làm bằng vải nổi, bức tranh tượng rất nghệ thuật mà sau này tôi không còn tìm thấy đâu nữa. Tranh làm bằng vải bóng có hoa văn chìm nên không rửa được, hàng năm chính tay ba tôi lau chùi một cách thận trọng. Không hiểu sao ba tôi rất thích hoa vạn thọ, năm nào ba tôi cũng mua vài chậu để trước sân, trên hồ cá, màu vàng của hoa sáng cả một vùng. Mạ tôi lại chỉ thích hoa huệ trắng và hoa lay dơn đỏ. Một người thì thích loại hoa bình dân quê mùa, người kia lại chuộng loài hoa quý tộc, sang trọng. Hai ý thích trái ngược nhau thế mà vẫn sống với nhau hơn sáu mấy năm và sinh cả đàn con. Thế mới hay.

Chiều 29 Tết, ba ngồi gói bánh chưng. Ba tôi theo Tây học, học Huế rồi ra Vinh, không biết ba học gói bánh ở đâu và lúc nào mà ba gói rất khéo, bánh chặt, vuông vức mà chẳng cần khuôn. Mạ thì lo làm mứt, nhà đông con, món mứt nào cũng làm cả thau lớn. Tôi chỉ chờ món nào xong là xin vét thau, sao mà ngon thế. Đường cháy vàng, miếng mứt sót hơi quá lửa nhưng thật là tuyêt cú mèo. Mạ làm đủ thứ bánh, bánh in bột trắng, bánh đậu xanh khô, ướt nén trong những cái khuôn gỗ, bánh nổi lên những chữ Phúc, cành hoa. Xong lại gói trong giấy kiếng xanh đỏ nhìn rực rỡ sắc màu. Mấy người giúp việc thì lao xao cắt tiết gà vịt. Tôi tránh mấy cảnh này vì thấy thương chúng quá nhưng ăn thịt chúng thì chẳng chê. Dưa món, dưa kiệu xếp đầy trên garde manger. Có mấy hủ thịt dầm nước mắm, thịt đã thấm trong veo miếng mỡ, mai mốt mới được ăn.
Tất bật thế nhưng Mạ vẫn khoan thai với những giọt mồ hôi. Bận rộn thế nhưng Ba lại bao dung không khó khăn la mắng các con như ngày thường. Tết mà.

Trưa 30, pháo nổ đì đẹt khắp nơi. Sân nhà đủ màu của bông hoa, giữa sân thêm chậu mai vàng. Nấu nướng đã xong, tôi không còn chực để vét nồi, bắt đầu chạy đi lượm pháo lẻ nhà hàng xóm. Cứ nghe đâu có tiếng pháo là chạy đến, pháo vừa dứt tiếng là ùa vô lượm mấy viên pháo lép. Ôi những viên pháo lép của ngày xưa, niềm vui ngày Tết của một thời không tìm thấy nữa. Những viên pháo với tiếng nổ, với khói xịt và mùi thuốc súng. Đó là mùi của Tết. Mùi thuốc súng, mùi nhang trầm, mùi thức ăn ngào ngạt tạo ra một mùi thật lạ lùng chỉ có trong những ngày Tết. Ba bận bộ áo the đen, trịnh trọng đốt đèn, lư đồng sáng ngời toả hương trầm, bàn thờ sáng rực ánh nến với ánh đèn chớp nháy quanh khung ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát. Năm nào tôi cũng thấy ba tôi khóc, những giọt nước mắt của người đàn ông thường ngày là kẻ quyền uy nhất trong gia đình. Ba tôi nhớ quê hương, nhớ ông bà, nhớ mồ mả của ông bà nội không biết bao giờ mới được nhìn lại vì lúc đó đất nước chia hai bờ, chiến tranh chẳng biết bao giờ mới chấm dứt. Ba đốt một tràng pháo dài, xác pháo hồng tràn ngập sân, Tết tràn khắp nơi trong căn nhà. Rước ông bà xong là bữa cơm chiều ba mươi của gia đình. Mười mấy đứa con, thêm ba mạ, người làm, bữa ăn như là bữa cúng giỗ. Thức ăn ê hề lắm món, mấy đứa nhỏ loay hoay chẳng biết chọn món nào trước món nào sau, ba rót thêm chén rượu, một bữa ăn đầy những tiếng cười. Vừa bỏ chén xuống là tôi lại chạy đi kiếm pháo lép, để đầy một bọc, cứ ngồi ở sân mà đốt đì đùng. Sao hôm nay chợt nhớ tiếng pháo lạ lùng. Tiếng pháo của thời tuổi nhỏ đã đi qua không ngoái lại.

Đem ba mươi chúng tôi được thức chờ giờ giao thừa. Gió xuân lành lạnh, có năm phải mang áo ấm. Đồng hồ điểm mười hai giờ, pháo nổ khắp nơi. Bàn cúng ở ngoài sân, ba lại mặc áo the dâng hương rồi đốt thêm phong pháo. Tụi tôi ăn mặc chỉnh tề, xúng xính trong bộ quần áo mới, cũng cúi lạy chào xuân mới, rồi xếp hàng chúc Tết, rồi lại ăn khuya. Món chè đậu xanh Mạ nấu ngon thiệt là ngon, sau này mấy đứa con dâu nào cũng học nấu chè đậu xanh ở Mạ. Giờ trong đầu tôi vẫn hiện ra mồn một những dãy chén chè đậu xanh xếp lớp ở trên bàn, những cái chén kiểu trắng ngần vẽ rồng xanh. Những chén chè khoai môn tím rịm. Ôi chao! Nghe như có vị ngọt đang nằm trên đầu lưỡi.

Sáng mồng một, Ba dậy sớm lại đốt thêm phong pháo dài. Mạ diện chiếc áo dài nhung hoặc gấm. Mạ đeo chuỗi ngọc trắng, có khi là chiếc kiềng vàng. Ba bận bộ veston xanh đậm, thắt cà vạt đỏ chở mạ đi chùa, hái lộc. Hoa mai nở vàng sân.
Nhớ tà áo dài của Mạ, nhớ dáng bước của Ba.
Tụi tôi ở nhà, diện đồ đẹp hớn hở đi ra đi vào chờ khách đến lì xì. Ngày thường muốn ăn gì phải xin, có phép mới được ăn. Mấy hôm Tết được ăn thả dàn, đi ra bốc miếng mứt, đi vào lấy miếng bánh, ăn suốt cả ngày. Chiều tối cả nhà ngồi quanh chơi bài Tới. Nào là con Ầm, con Tuyết, Nọc đượng, Mõ... Vui lắm. Những con bài tới là những miếng bìa dài trên vẽ những hình ngoằn nghèo như tranh trừu tượng, như totem của mấy dân tộc da đỏ. Rồi chuyển sang đánh bài các tê. Mạ tôi là bậc sư của mấy món cờ bạc này, mạ chơi chỉ thắng chứ không bao giờ thua, tài thế. Đứa thua mặt méo xẹo, đứa thắng thì hớn hở. Mấy món cờ bạc này kéo dài đến tận mồng năm Tết. Rồi mọi chuyện trở về như cũ. Tết đi qua.

Bây giờ đã vào tuổi già, đã gần đến bảy mươi. Con cháu cũng đã đủ đầy, ngày Tết chẳng còn không khí cũ. Ba Mạ lần lượt khuất bóng, người thân cũng mất dần. Tết bây giờ thiếu pháo nên Tết mất đi một nửa không khí Tết. Thức ăn bây giờ cũng chẳng thiếu nhưng lại thiếu cái hồn Tết của những ngày cũ. Chiều ba mươi đốt nén nhang tưởng nhớ mọi người đã khuất, nhớ những ngày Tết năm xưa, lòng bỗng rưng rưng.
30 Tết
4.2.2019
DODUYNGOC

Chiều đã cũ rồi chiều rất cũ
Vạt nắng cuối ngày màu phôi pha
Ngồi trong sân lắng nghe tiếng lá
Lá về đâu gió lạc về đâu?


Tuổi đã mòn trôi giạt cuối sông
Chẳng còn ai để có chờ mong
Chiều cuối năm già không còn mộng
Lọ cô đơn cắm một bông hồng

Suốt một năm giờ còn một ngày
Ta không uống rượu nên chẳng say
Vẫn cảm đất trời đang nghiêng ngửa
Và đám mây cuồng vẫn tiếp bay

Chiều đã cũ rồi chiều rất cũ
Nắng băn khoăn một lát lùi đi
Chim lười biếng dấu đầu ủ rũ
Ta buồn tênh chẳng biết làm gì

Đốt cối thuốc thấy mình tồn tại
Lòng hoang mang theo khói lượn lờ
Thôi cứ chọn làm người thất bại
Để đêm nằm nuôi lại cơn mơ

Nhìn thiên hạ xôn xao giữa phố
Tết cận rồi ta vẫn dửng dưng
Không có pháo sao nghe tiếng nổ
Cứ râm ran chẳng biết điểm dừng

Chiều đã cũ rồi chiều quá cũ
Đang trôi dần về phía hoàng hôn
Nắng cũng nhạt, phai trên vành mũ
Tiếng chim kêu nghe bỗng hoảng hồn
Sài Gòn.29 Tết
23.01.2020
DODUYNGOC




Món ăn lừng danh thiên hạ gắn liền tên tuổi đô thị cổ
Ngày 27.12, TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) sẽ kỷ niệm 340 năm thành lập Mỹ Tho đại phố, đô thị có tuổi đời cao nhất vùng Nam Bộ, trước cả đô thành Sài Gòn-Gia Định. Theo sử sách, khoảng năm 1623, Mỹ Tho (theo tiếng Khơme có nghĩa là cô gái đẹp) đã có những nhóm lưu dân người Việt đến khai phá, định cư xen kẽ với cư dân người Khơme có mặt từ trước.
Sách Đại Nam nhất thống chí viết, tháng giêng năm Kỷ Mùi thứ 32 (1679) một nhóm người Minh Hương do tướng Dương Ngạn Địch của nhà Minh (Trung Quốc) không đầu phục nhà Thanh, nên đem binh lính và quyến thuộc hơn 3.000 người và hơn 50 chiến thuyền xin quy phục chúa Nguyễn. Lúc bấy giờ, chúa Nguyễn cho Dương Ngạn Địch đưa thuyền vào cửa Tiểu, cửa Đại, đến khai khẩn, định cư ở Mỹ Tho.
Tại đây, nhóm Dương Ngạn Địch nhóm họp với người Việt, người Khơme khai khẩn ruộng đất, trồng trọt, lập thôn ấp. Tận dụng nguồn lợi sản vật dồi dào của địa phương, nguồn nhân lực đã khá đông, lại có vị trí địa lý thuận lợi, nhóm người của Dương Ngạn Địch lập Mỹ Tho đại phố, từ đó tàu thuyền tới lui buôn bán đông đúc.
Mỹ Tho đại phố được xác lập tọa lạc ở làng Mỹ Chánh, H.Kiến Hòa, nằm dọc theo nhánh bên trái của rạch Mỹ Tho, bắt đầu từ bến Tắm Ngựa ở chỗ giao nhau giữa rạch Mỹ Tho với sông Tiền (nay thuộc P.2, TP.Mỹ Tho), chạy dài theo đường Nguyễn Huỳnh Đức hiện nay khoảng 4km (nay thuộc P.2 và P.8, TP.Mỹ Tho) cho đến cầu Vĩ, Gò Cát (nay thuộc xã Mỹ Phong, TP.Mỹ Tho).
Ngày xưa, ghe thuyền, vật lực từ các địa phương khác, kể cả nước ngoài tụ họp về Mỹ Tho đại phố rồi tỏa ra khắp nơi, thông thương với các địa phương khác. Từ thế kỷ 17, Mỹ Tho đại phố đã trở thành một trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ, là thương cảng có quan hệ buôn bán với nhiều thương nhân nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Indonesia, Philippines…
Sau đó rất nhiều làng xã mọc lên xung quanh khu vực Mỹ Tho đại phố như An Hòa (Thạnh Trị), Điều Hòa, Bình Tạo, Phú Hội, Đạo Ngạn, Mỹ Hóa… Đến thế kỷ 17, 18, các chúa Nguyễn đã xác lập và khẳng định chủ quyền vùng đất Mỹ Tho vào bản đồ Đại Việt, từ đó mở mang bờ cõi, nối liền một dải từ bắc sông Tiền tới miền Hà Tiên (Kiên Giang).
Năm 1808, trấn Định Tường được thành lập với Mỹ Tho đại phố là lỵ sở. Đến năm 1826, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở trấn Định Tường sang phía tây sông Bảo Định thuộc 2 thôn Điều Hòa và Bình Tạo của H.Kiến Hưng (nay thuộc các P.1, P.4 và P.7), phủ Kiến An, tỉnh Định Tường và vẫn giữ tên gọi Mỹ Tho.
Năm 1861, người Pháp chiếm thành Định Tường, san bằng thành lũy và cho xây dựng các công sở, chợ, trường học, nhiều công trình khác tại làng Điều Hòa (P.1 và P.7 ngày nay) và khu vực này trở thành trung tâm TP.Mỹ Tho cho đến ngày nay. Năm 1900, Mỹ Tho trở thành tỉnh lỵ Mỹ Tho, có đường xe lửa dài 70km nối với Sài Gòn, do người Pháp xây dựng năm 1881, khánh thành vào tháng 7.1885, là tuyến đường sắt sớm nhất ở Đông Dương.
Tròn 340 năm tuổi, cùng với sự biến thiên của thời gian và tốc độ đô thị hóa, ngày nay dấu tích xưa của Mỹ Tho đại phố hầu như không còn. Có chăng chỉ còn vài di tích tuổi đời chưa đến 200 năm như Trường trung học Mỹ Tho (Collège de Mytho, mở năm 1879), chùa Vĩnh Tràng (xã Mỹ Phong), chùa Bửu Lâm (P.3), chùa Thiên Phước (xã Mỹ Phong), chùa Ông (P.8)…
Nhưng có một món ăn lừng danh mà bất kỳ ai khi đến TP.Mỹ Tho đều phải tìm ăn cho bằng được, đó là hủ tiếu Mỹ Tho. “Hồi nhỏ tôi nghe ông bà xưa hay kể, hủ tiếu và mì, bánh bao là món ăn của người Hoa, nhiều khả năng xuất hiện ở Mỹ Tho từ khi nhóm người Minh Hương của tướng Dương Ngạn Địch thành lập Mỹ Tho đại phố. Vì vậy có thể nói, Mỹ Tho đại phố bao nhiêu tuổi thì món hủ tiếu Mỹ Tho lừng danh cũng có mặt trên vùng đất này từng ấy năm”, ông Phạm Văn Phương, người sành ăn quê gốc ở Mỹ Tho, cho biết.
Theo ông Phương, hiện nay TP.Mỹ Tho có rất nhiều tiệm bán hủ tiếu, nhưng muốn ăn được tô hủ tiếu Mỹ Tho nấu đúng bài bản là chuyện không dễ.
Bí ẩn trong tô hủ tiếu có lịch sử hàng trăm năm tuổi
Ông Phương cho biết món hủ tiếu Mỹ Tho được nhiều người biết đến vào những năm 1950-1960, được bán trong hàng loạt tiệm mì nổi tiếng của người Hoa như Khánh Ký, Tuyền Ký, Vĩnh Ký, Hưng Ký… Nhưng hiện tại, khi đến TP.Mỹ Tho, thực khách khó tìm được tô hủ tiếu được nấu theo kiểu ngày xưa, bởi ngày càng có nhiều cách nấu khác nhau, khiến rất nhiều người ngộ nhận về món ăn này.
Theo ông Phương, tô hủ tiếu Mỹ Tho được đánh giá là “ngon đúng điệu” thì nồi nước lèo phải được hầm bằng xương heo và củ cải trắng, tôm khô, mực khô, củ cải muối để lấy vị ngọt. Nếu dùng đường cát, bột ngọt, bột nêm tạo vị ngọt thì nồi nước lèo xem như… vứt. Ngoài nước dùng (nước lèo) “đặc sản”, tô hủ tiếu Mỹ Tho được trang bị thêm mộ số “phụ tùng” như thịt nạc, thịt bằm, sườn non, tim, gan, phèo heo, tôm bóc vỏ, giá, hẹ, cải xà lách, dấm Tiều, chanh, ớt.
Tuy nhiên, hồn cốt của món ăn trứ danh này không nằm ở các món ăn kèm mà chính là ở sợi hủ tiếu. Ông Phương kể, từ xưa sợi hủ tiếu Mỹ Tho cọng nhỏ, dai, mềm, thơm phức mùi gạo khiến mọi người ưa chuộng do được làm từ những hạt gạo ngon nổi tiếng của xứ Gò Cát thuộc vùng phụ cận của Mỹ Tho đại phố (nay là xã Mỹ Phong, TP.Mỹ Tho).
Sợi hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng đến mức, nhiều năm qua TP.Mỹ Tho đã thành lập hẳn một làng nghề truyền thống chuyên sản xuất sợi hủ tiếu, bánh, bún từ bột gạo ở xã Mỹ Phong. Hiện nay xứ Gò Cát không còn trồng lúa, nên gạo Gò Cát cũng không còn. Các nghệ nhân làng nghề phải sử dụng các loại gạo ngon của những vùng khác để sản xuất sợi hủ tiếu, nhưng chất lượng không thua kém sợi hủ tiếu Gò Cát ngày xưa.
“Mấy năm nay Việt kiều sinh sống ở Mỹ, châu Âu, châu Úc… khi ghé Mỹ Tho đều tìm mua sợi hủ tiếu Mỹ Tho về làm quà, nhưng ít người biết Mỹ Tho không còn gạo Gò Cát. Trong khi đó khách thập phương khi đến Mỹ Tho đều phải tìm ăn cho bằng được 1 tô hủ tiếu nổi tiếng có lịch sử hàng trăm năm.
Nhưng hiện nay tại Mỹ Tho, món hủ tiếu ngày càng có nhiều biến tướng khi chủ quán cho thêm vào cả thịt gà, cá, mực, bò viên, trứng cút, giò heo… khiến người ăn không thể phân biệt như thế nào mới là tô hủ tiếu Mỹ Tho chính hiệu. Theo tôi, hiện tại ở TP.Mỹ Tho những quán nấu được món hủ tiếu đúng điệu, mà nấu ngon nhất chính là những quán do người Hoa làm chủ, chỉ còn đếm trên đầu ngón tay”, ông Phương nói.
Nhắc đến hủ tiếu Mỹ Tho, có chi tiết thú vị mà ít người còn nhớ: năm 2008 khi TP.Long Xuyên (An Giang) đăng cai tổ chức Hội chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao thì tỉnh Tiền Giang cử các nghệ nhân của làng nghề bánh bún, hủ tiếu Mỹ Phong mang món hủ tiếu đặc sản trứ danh đến tham dự.
Lúc bấy giờ, dù TP.Long Xuyên có đủ loại hủ tiếu, kể cả món hủ tiếu Nam Vang và hủ tiếu cá Châu Đốc lừng danh, nhưng mỗi ngày vẫn có hàng trăm lượt người vào hội chợ xếp hàng để được thưởng thức món hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng.
Người ta ăn hủ tiếu Mỹ Tho nhiều đến mức các đầu bếp phải hối thúc người ở nhà tăng cường gửi các loại nguyên liệu, gian hàng phải mở cửa bán suốt ngày trong khi kế hoạch ban đầu chỉ bán vài hôm để… lấy tiếng.
Trong khi đó, theo ông Phương, rất ít món ăn có tên tuổi gắn liền với địa danh hàng trăm năm mà vẫn “nổi tiếng thiên hạ” như hủ tiếu Mỹ Tho, nên dịp kỷ niệm 340 năm khai sinh Mỹ Tho đại phố thì món hủ tiếu Mỹ Tho trứ danh cũng nên được đề cập, quảng bá, tôn vinh xứng tầm.
Thanh Anh

Ta như con thú bị thương
Tìm nguồn nước
Suối hồ ở sát đây mà không tới được
Ta lê thân
Bò như loài bò sát
Chỉ một bước chân chẳng với tới
Ngã sóng soài trên nền nhà
Nằm yên và thở
Nước mắt tràn đầy mặt
Trần nhà như bầu trời
Đổ ập xuống
Không điều khiển được thân thể mình
Ta kêu gào như loài thú
Rừng hoang vu
Và căn nhà lạnh lẽo
Thú đã bỏ rừng đi vì sự ruồng đuổi của loài người
Ta một mình và chẳng còn ai


Nỗi cô đơn là độc dược
Ta hiểu tại sao Kawabata mở lò gaz kết liễu đời mình
Ta hiểu tại sao Van Gogh bắn vào ngực mình bằng khẩu súng lục
Ta hiểu tại sao Hemingway nã vào đầu mình bằng khẩu súng săn
Và vì sao Robin Williams tự sát
Nỗi cô đơn là thủ phạm

Ta bây giờ là con thú bị tù hãm
Không liếm được vết thương
Nằm trong hang giữa sa mạc
Nỗi cô độc chỉ có gió và cát
Và cô đơn sẽ giết chết ta trước khi vết thương kết liễu mạng sống
Ta gào lên không vọng âm
Giáng sinh
Chúa vắng mặt
Chẳng còn ai, không còn ai
Thế giới đã chết
24.12.2019
DODUYNGOC

Trước năm 1975, tui khoái kiểu vẽ bìa nhạc của hoạ sĩ Duy Liêm và Kha Thuỳ Châu. Nhiều bản nhạc tui không thích nhưng vì cái bìa nên tui cũng mua. Hai hoạ sĩ vẽ hai phong cách khác nhau, đặc biệt là hoạ sĩ Duy Liêm, hình vẽ của ông có nhiều hình khối, đường cong, nét gãy rất đặc biệt. Chữ tít bản nhạc ông cũng thường sử dụng những nét gãy không giống ai trước đó tạo thành font chữ của Duy Liêm. Hồi thời sinh viên, tui nhận viết thông báo, vẽ bích chương, biểu ngữ cho Viện Đại học Vạn Hạnh, rồi nhận làm bìa sách, tui cũng thường bắt chước kiểu chữ của ông. Sau năm 1980, tui vẽ rất nhiều bìa sách, cũng học của ông rất nhiều về bố cục, font chữ.


Sau này khi tìm hiểu về hoạ sĩ Duy Liêm mới thấy ông có số lượng sáng tác đồ sộ và phong phú vô cùng. Ông đã từng vẽ tiền từ thời Việt Minh, vẽ áo dài cho bà Ngô Đình Nhu, tranh sơn mài Thành Lễ, Lam Sơn, mẫu thêu, tranh lụa, tranh sơn dầu. Hoạ sĩ Duy Liêm từ năm 1954 đến khi qua đời đã vẽ hàng trăm bìa sách, hàng trâm bản nhạc. Ông là người kín tiếng, không khoe khoang cũng như ít ngao du với văn nghệ sĩ nên ít người biết ông là một hoạ sĩ đa dạng, đa tài và có một số lượng tác phẩm gây sửng sốt cho người tìm hiểu về ông. Các nhạc sĩ miền Nam trước 1975 thường muốn có bìa nhạc của mình do hoạ sĩ Duy Liêm vẽ. Thời đó nổi bật có các nhà xuất bản chuyên in nhạc là Tinh Hoa Miền Nam, Diên Hồng, Sống Mới…đây là các nhà xuất bản rất chuộng nét vẽ của hoạ sĩ Duy Liêm.

Trong cuốn sách “Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại » (in tại Hoa Kỳ năm 2009) của nhà phê bình nghệ thuật Huỳnh Hữu Ủy, phần “Tiến vào nghệ thuật mới”, tác giả xếp họa sĩ Tạ Tỵ và Duy Liêm vào một nhóm. Theo Huỳnh Hữu Ủy, sau 1954 cho đến các năm 70, Duy Liêm đã rất thành công với “Lập thể Duy Liêm” trong đại chúng, xâm nhập mạnh mẽ vào trong cuộc sống hằng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Đặc biệt là các minh họa trên các bìa nhạc của các nhạc sĩ nổi tiếng như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Phạm Đình Chương… và vẽ nhiều mẫu tranh cho hãng Thành Lễ với tư cách là họa sĩ chính. (Phạm Công Luận)
(Trích trong cuốn “Sài Gòn – Chuyện đời của phố” tập 1)

Nhiều người treo trong nhà những bức sơn mài của Thành Lễ trước đây và Lam Sơn sau này nhưng chẳng mấy người biết đó là tác phẩm của hoạ sĩ Duy Liêm. Cho đến giờ, gần 60 đi qua, tui vẫn kính phục ông, vẫn mê những tranh và bìa nhạc của ông.
17.12.2019
DODUYNGOC

HOẠ SĨ DUY LIÊM


Hôm qua mây toả về trời
Một người đứng lại tơi bời ruột gan
Đưa đôi tay gói gian nan
Con trăng lạnh buốt giữa ngàn ngói xiêu


Bên cành lau trắng cuối chiều
Xôn xao đá vỡ với nhiều khói bay
Còn chi đâu ngửa bàn tay
Buồn gieo lên hạt phơi bày cơn đau

Ta chôn đời đến ngàn sau
Rừng khô lá mục chín màu trăm năm
Sóng xô trắng xoá chỗ nằm
Gió xao xác gọi mưa bằm thịt xương

Người đâu hình đọng trong gương
Tiệc tan ly vỡ chiếu giường buồn thiu
Ngóng trời cây lá hắt hiu
Phần đời sót lại chắt chiu một mình

Giữa sân chim đứng làm thinh
Bên hiên nắng dọi in hình gãy ngang
Kỷ niệm xưa đứng xếp hàng
Sầu vừa chín héo sẵn sàng máu khô

Lạnh về lớp lớp sóng xô
Heo may lãng đãng mơ hồ tiếc thu
Đông về tờ lịch sa mù
Tháng mười hai đợi tội tù tiếp theo
4.12.2019


Nhìn những bức ảnh dưới đây, ta trầm trồ vì độ chân thực và thần thái của nó. Ta lại càng thán phục hơn khi biết rằng những tác phẩm này được vẽ bằng bút nguyên tử, loại bút bây giờ gọi là bút bi, học sinh thường sử dụng. Nghệ sĩ tài hoa tạo nên những tác phẩm tuyệt vời này là Enam Bosokah, nghệ sĩ của lục địa đen.

Enam Bosokah là một nghệ sĩ người Ghana sử dụng bút bi để vẽ những bức chân dung tuyệt đẹp, chân thực.

Cách đây vài năm, nghệ sĩ người Ghana, anh Bosokah, đang làm việc trong một nhóm sắp đặt tác phẩm điêu khắc. Do những hạn chế của dự án, anh chán nản và cảm thấy rằng sự sáng tạo của mình đang bị lạm dụng. Và anh ấy bắt đầu vẽ bằng bút bi như một hình thức thể hiện khác. Anh ta đã vẽ chân dung bằng bút bi.từ thời còn đi học trung học, anh đã nhiều lần vẽ lung tung trên giấy bằng cây bút đi học của mình

Kể từ khi trở nên chuyên nghiệp với cây bút ba năm trở lại đây, Bosokah đã tự khẳng định mình là một trong những nghệ sĩ bút bi nổi tiếng nhất Châu Phi. Tác phẩm của ông, một số trong đó là những nhân vật nổi tiếng, có rất nhiều trên internet như là bằng chứng về nghệ thuật của ông. Khi tìm kiếm trực tuyến tên của anh ta sẽ thấy chân dung của Bob Marley, Kwame Nkrumah, Nelson Mandela và các biểu tượng da đen nổi tiếng khác, những người anh coi là mẫu mực.

Cho đến nay, anh đã có ba triển lãm cá nhân và một triển lãm nhóm. Anh tham gia triển lãm nhóm, Văn hóa Canvass, vào tháng 7 năm 2013, tại khách sạn Movenpick tại Accra, trong khi chương trình solo đầu tiên của anh, Triển lãm Ghoe, được tổ chức vào tháng 11 năm 2014 tại Golden Tulip, Kumasi.

Cùng lúc làm việc để triển lãm, Bosokah cũng nhận làm việc theo đơn đặt hàng, với mức phí từ 375 đô la đến 500 đô la một tấm tranh, theo True African Arts. Trong mọi trường hợp, anh kiếm được hàng ngàn trong khoảng một tuần để hoàn thành, anh làm việc chủ yếu vào ban đêm - vì sự yên tĩnh - từ nhà của anh ở Accra.

Quy trình bắt đầu bằng cách chọn một cây bút và tờ giấy, anh nói. Sau đó, tôi tạo một bản phác thảo nhanh hoặc theo dõi hình ảnh tham chiếu của mình và tiến hành bằng cách tạo các lớp nét, sắp xếp lại các nét và các dấu chấm cho đến khi tạo xong hình cơ bản. Dần dần xây dựng các sắc thái và cuối cùng hoàn thiện bằng cách thiết lập các chi tiết. Công việc của tôi như thế là xong và tác phẩm đã sẵn sàng để đóng khung.

Enam Bosokah sinh ngày 17 tháng 3 năm 1987. Anh đến từ vùng Volta của Ghana, nơi anh học tiểu học và trung học. Bosokah xuất thân từ một dòng tộc nghệ sĩ và anh đã cho biết rằng anh vẽ tử thời còn bé, Giáo viên dạy anh đã ghi nhận tài năng của anh và khuyến khích anh nên chọn hội hoạ làm sự nghiệp.
Anh học nghệ thuật tại Đại học Khoa học và Công nghệ Kwame Nkrumah và sau đó hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp.

"Tôi đã chọn cây bút vì nó tiện dụng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ" ông nói về công cụ ưa thích của mình, nhiều nghệ sĩ không thích cây bút này vì tính không thể thay đổi của nó. Nhưng anh ấy đã tìm thấy nó là công cụ dễ sử dụng tốt hơn.

Bosokah vẫn chưa đặt tên cho phong cách vẽ của mình, kết hợp rất nhiều đường nét và dấu chấm. Hiện tại, anh vẫn đang thử nghiệm và tin rằng mình đang trên hành trình khám phá bản thân. Bosokah là một nghệ sĩ đa năng, cũng làm việc với các vật liệu như đất sét, nhựa tổng hợp và sợi thủy tinh. Tuy vậy, anh không muốn sớm phân loại mình là một nghệ sĩ bút bi. Anh xem nghệ thuật của mình như một phần mở rộng của chính mình.

Anh là một nghệ sĩ đang lên và sắp tới vẫn đang thử nghiệm các phương tiện nghệ thuật khác nhau, tôi hy vọng sẽ có những sáng tạo khác tiếp theo trong nghệ thuật châu Phi, anh nói.

Hy vọng, anh sẽ có những thành công không khác Jonathan Kwegyir Aggrey của Ghana, Adebanji Alade của Nigeria và Ashley Oubre của Hoa Kỳ, những nghệ sĩ mà anh ngưỡng mộ.
4.12.2019
DODUYNGOC
https://youtu.be/TqZGideXi1s

XEM ẢNH ENAM BOSOKAH









Lâu lắm rồi sáng nay mới trở lại ăn phở Minh. Quán nằm trong hẻm nhỏ đường Pasteur, ngày xưa phía ngoài là rạp xi nê Casino Sài Gòn. Ngoài phố bao nhiêu đổi thay theo thời gian, rạp xi nê không còn, thay vào đó là cao ốc khách sạn sang trọng, bề thế,. Thế nhưng con đường vào hẻm nhỏ xíu và quán phở Minh vẫn thế. Hẻm nhỏ, những căn nhà bình yên, quán phở vẫn thấy trống trải vì chỉ để chưa đến chục cái bàn, đấy là kể luôn căn đối diện. Quán vẫn có cảm giác xưa xưa, cũ cũ loáng thoáng mùi của quá khứ. Ngồi trong quán, nhìn mặt bàn lên nước và bà chủ khẳng khiu, thấy thời gian như dừng lại, chỉ thiếu bài thơ Phở tìm không thấy. Nghe kể hồi xưa lắc lơ có ông chủ tiệm giày bên Lê Thánh Tôn rất mê ăn phở và cũng mê truyện kiếm hiệp Kim Dung, một thứ truyện một thời dân miền Nam nhiều người nghiện. Ông chủ phở Minh và ông chủ tiệm giày cũng là dân Bắc kỳ và là bằng hữu thân thiết. Tuy là chủ hiệu giày nhưng cũng có máu văn chương nên có tặng ông bạn mình một bài thơ phở với đủ thứ phụ tùng của phở:

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…

Ngày xưa ông chủ phở thuê người viết bài thơ theo kiểu chữ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, lối chữ tương tự bây giờ gọi là thư pháp ấy và treo ở vị trí trang trọng trên vách của quán phở. Giờ không thấy nữa.

Phở Minh bao năm rồi vẫn thế, tô phở nho nhỏ vừa ăn, thịt cũng không nhiều, đủ để còn thèm cho ngày mai. Hương vị nhẹ, không nồng đinh hương, quế, hồi mà chỉ mùi gừng nướng phảng phất quyện chút hương sả mà người tinh ý sành ăn lắm mới nhận ra. Bát phở thanh cảnh, người khách cảm thấy nhẹ nhàng mà ăn, từ từ mà thưởng thức. Hôm nay trở lại, hình như nước lèo hơi thiếu đậm đà và bánh hơi nhão, nhưng thịt thì vẫn thế, đủ tái, nạm, gân, gầu, vè. Ở đây, miếng nạm, miếng gầu vẫn dậy mùi thơm, beo béo, mềm vừa ăn mà không nát. Mang tiếng phở Bắc, nhưng ở đây vẫn có rau, ngò gai, giá trụng, tương đen tương đỏ như quán phở Nam. Có lẽ trải bao năm, quán phở Minh vẫn giữ được hương vị đặc trưng của miếng thịt bò của quán, béo mà không ngậy, mềm đủ để nhai thấm trong từng thớ lưỡi. Quan phở Minh cũng có món xí quách ngon nhưng khó gọi vì phải dặn trước mới còn.

Phở Minh có mặt ở đây từ năm 1942 với chiếc xe đẩy nhỏ, đến năm 1950 thì thành tiệm. Bao nhiêu năm trôi qua, bao biến thiên của thời cuộc, quán phở hầu như không đổi, hương vị cũng chẳng phai theo thời gian.

Biển hiệu “phở Minh” và các vật trang trí vẫn còn được giữ nguyên vẹn mà nổi bật là chiếc đồng hồ Odo gõ kính cong như nhắc nhở dù qua bao năm tháng, phở Minh cũng chẳng có chi đổi khác. Chắc ông chủ ngày xưa đã đi xa rồi, bếp chính hiện nay là bà Sáu, con gái út ông chủ đầu tiên của phở Minh. Bà cũng đã già, với dáng gầy gò, có lẽ mốt mai sẽ đến thế hệ thứ ba tiếp nối.

Quán không đông đúc, xô bồ như những quán phở nổi tiếng ở Sài Gòn. Ngồi trong hẻm nhỏ, trong quán phở đã có mặt ở đất này hơn bảy chục năm, giữa chen chúc, lộn xộn ngoài kia, lại tìm thấy một khoảng lặng rất bình yên với bát phở bốc khói ngào ngạt. Ăn bát phở để nhớ một thời trẻ trai, nhai miếng thịt để nhớ thương một thuở hàn vi, muốn ăn được bát phở ở đây cũng không phải dễ vì nghèo.

Giờ đã tuổi lão, tóc chẳng còn xanh, chân tay đã yếu, râu đã bạc, người thân kẻ còn người mất, ngồi lại quán xưa cũng một thoáng ngậm ngùi
29.11.2019
DODUYNGOC





Đã có tiếng kêu cứu từ Hong Kong. Tình hình càng ngày càng tồi tệ và tuyệt vọng. Bởi chính quyền Trung Quốc cương quyết không lùi bước và quyết định phải dập tắt cuộc đấu tranh với bất cứ giá nào.

Cảnh sát Hồng Kông với chiến dịch tấn công nhắm súng vào đầu người biểu tình, xịt hơi cay và đè một phụ nữ mang thai xuống đất, điên cuồng sử dụng đạn hơi cay, đạn cao su, xua đuổi và bắt bớ nhiều người. Cảnh sát Hồng Kông không chỉ đóng giả làm nhân viên cứu hỏa, mà còn cải trang thành người biểu tình ở khu vực đường Tai Po để vào trong Đại học Trung văn. Nhiều trường đại học đã bị tấn công, nhiều sinh viên đã bị bắn, bị bắt, máu đã loang trong sân trường đại học. Khi cuộc biểu tình ở Hong Kong nổ ra, người ta đã lo sợ một Thiên An Môn thứ hai sẽ được lập lại. Và theo thời gian, quả đúng là như thế, nhưng bây giờ chính quyền Trung Quốc nhiều thủ đoạn hơn, tinh vi hơn và thâm độc hơn. Đã có nhiều xác chết trôi sông, đã có nhiều thanh niên bị bắt, đã có nhiều người mất tích không lý do. Tất cả đều nằm trong âm mưu của giới lãnh đạo. Dù chính quyền Trung Quốc có dùng mọi biện pháp tàn khốc để đàn áp cuộc biểu tình, bởi chúng vốn là vô nhân tính, thì tuổi trẻ Hong Kong, nhân dân Hong Kong vẫn tiếp tục chiến đấu. Bởi họ biết rằng mất tự do là mất tất cả. Họ sẽ trở thành những nạn nhân như người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ. Một trăm năm sống dưới sự lãnh đạo của người Anh, người Hong Kong đã học được dân chủ và tự do. Do vậy họ sẽ chiến đấu để giữ cho được dân chủ và tự do ấy. Trong những ngày tới Trung Quốc lặp lại tội ác dã man tàn bạo giống như thảm trạng Thiên An Môn 30 năm về trước với chính đồng bào họ ở đại lục. Máu sẽ còn đổ, máu cho tự do và quyền được làm người.

Lực lượng Cảnh sát đặc nhiệm HongKong đã tấn công Poly University. Không được ai rời khỏi trường, những sinh viên thoát được ra ngoài đã bị bắt trói và đưa đi. Phần lớn sinh viên đã quyết tâm ở lại để tiếp tục chiến đấu thành luỹ cuối cùng của tự do. Hàng nghìn người HongKong kêu gọi nhau đổ ra đường tuần hành để thu hút bớt lực lượng cảnh sát, giảm áp lực cho Poly University. Những người cảm tử bám lại trong trường đại học có thể rồi đây sẽ đổ máu và cũng có thể chết vì viên đạn hay bị bắt rồi mất tích không lý do, thế nhưng họ không chùn bước, họ không sợ sức mạnh và súng đạn của bọn tà quyền. "Tôi đã sẵn sàng chết trong đêm nay !". Đã có người và nhiều người tuổi trẻ Hong Kong nói như thế. Những cái chết cho tự do. Tự do, dân chủ phải đổi bằng máu xương và cả mạng sống, không thể có một thứ tự do ban phát. Đó là bài học của cuộc đấu tranh này gởi đến các dân tộc chưa có được dân chủ và tự do. Bằng bạo lực, chính quyền Trung Quốc đã tước quyền được sống tự do và được hưởng dân chủ của con người. Lương tri của thế giới sẽ lên tiếng, máu xương đã đổ của thế hệ trẻ Hong Kong để đòi quyền tự do phải được đền đáp.

Chính quyền Trung Quốc bằng những âm mưu để tiêu diệt cuộc đấu tranh đã trở thành lực lượng khủng bố tàn nhẫn của thời đại. Tuổi trẻ HongKong đứng trước chọn lựa Tự do hay là chết vì bị tước quyền làm người.
Một chọn lựa khắc nghiệt đầy máu và nước mắt.
19.11.2019
DODUYNGOC


Đây là bức tranh vẽ bằng bút chì của một cô bé 16 tuổi tên là Shania McDonagh người Ireland. Bức tranh vẽ chân dung của một người phụ nữ đánh cá đẹp đến từng chi tiết và đã dành được giải thưởng cao nhất trong cuộc thi Texaco Children’s Art Competition lần thứ 60 (cuộc thi dành cho thanh thiếu niên được tổ chức hằng năm tại Ireland). Cô gái đã bắt đầu vẽ năm 12 tuổi.

Tui xin cúi đầu khâm phục tài năng của cô gái này.

Xem tại đây


Ta lạc bầy giữa phố bao la
Đôi chân mỏi ngón tay nín thở
Đứng ngơ ngác héo mòn góc chợ
Có còn chi để bán cho người


Ta mang thánh giá trên vai mỏi
Áo tả tơi buồn đau bủa vây
Lá vàng rụng xuống bờ hiu quạnh
Ai khóc dùm cho những đám mây

Ta về sám hối với rừng cây
Hoa rụng hôm qua ủ mộng đầy
Trái tim ta đập nhiều lỗi nhịp
Chiều xuống đời buông ở hướng tây

Ta ngồi lại đêm dài vô tận
Vết thương nào rỉ máu trầy da
Thắp nén nhang nhớ bao bè bạn
Đứa mồ hoang đứa biệt quê nhà

Ta nằm cuộn gối giữa mù sương
Trăng héo âm u một quãng đường
Nửa đêm nghe lạnh đôi tay đói
Môi mặn chân gầy mắt lệ thương

Khi quán khuya thừa một chỗ ngồi
Giữa bộn bề thiếu một đôi môi
Bao nhiêu nhan sắc mờ trong rượu
Đôi mắt nào trôi giữa đỉnh đồi

Chúa nhìn xuống mặt buồn vô hạn
Máu còn vương những chiếc đinh ghim
Ta lạc lõng với bao khổ nạn
Câu kinh xưa còn mãi đi tìm
14.10.2019
DODUYNGOC


Trăng heo hút thôi gắng đùa với gió
Chút tàn phai lưu luyến để lại đời
Có nỗi sầu đau nén lòng không ngỏ
Trăm năm dài sông cạn sóng mù khơi


Ta như chim bay hoài con phố chật
Hót hoang mang không thấy tiếng vọng về
Tháp chuông nhỏ tiếng kinh chiều chủ nhật
Lá rùng mình ta giã biệt cơn mê

Đời phiêu bạt không một lần ngoái lại
Bao tai ương khô héo xác thân gầy
Trong ngôn ngữ đã nẩy mầm độc hại
Lúc khốn cùng sông đành phải chia hai

Khi xuống dốc dưới kia là tuyệt lộ
Thuỷ triều xô còn đâu chỗ quay lui
Ta mải miết bao âm thanh cuồng nộ
Men trần gian phố xá đã bốc mùi

Ngựa mỏi vó sức đã cùn lực kiệt
Đôi bàn tay không chống nổi đau đời
Trăng héo úa chuyển sang màu ly biệt
Giữa con đường dáng người đứng tả tơi

Trong thinh lặng chim bỗng ngừng tiếng hót
Ngẩn ngơ nhìn mưa với nắng qua đi
Ta trở lại lượm mảnh hồn còn sót
Quá nửa đời vẫn biết chẳng còn chi
13.10.2019
DODUYNGOC





Tui là tín đồ của Phở. Mà phải là Phở Bắc kia. Phở Hoà, Phở Lệ, Phở Phú Vương tui chê. Tui chỉ ăn Phở Dậu. Tui chơi Phở Dậu đã gần năm chục năm nay, từ hồi tui xấp xỉ hai mươi cho đến giờ đã gần bảy chục, chỉ gián đoạn mấy năm đi Tây. Cũng là loại tín đồ ngoan đạo đấy chứ. Hồi xưa nó chưa gọi là Dậu. Hồi đó chỉ là một quán phở nhỏ lợp tôn, trên có chừa một khoảng trống lớn, nắng dọi vào làm thành một vệt ánh sáng mà mấy cha nhiếp ảnh rất mê. Luồng sáng dọi xuống trên người hai bà cụ với làn khói xanh từ bếp củi bay lên rất là nhiếp ảnh. Người bán là hai bà cụ già, nên tui gọi là Phở bà cụ. Ngày trước dân văn nghệ thường ăn sáng ở đây. Tui thường gặp hoạ sĩ Đinh Cường, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn....
Thời đó Ông Nguyễn Cao Kỳ đang làm quan to, cũng thường ghé ăn, cũng chẳng tiền hô hậu ủng gì, chỉ đi ăn với vợ là bà Tuyết Mai, có lúc đi với bạn, có khi đi một mình, nên giang hồ gọi là Phở Ông Kỳ. Ở ngoài sân có cây trứng cá, nên lại có người kêu là Phở cây trứng cá. Sau 75, khu này gọi là khu phố bốn nên gọi là Phở Khu phố bốn. Chủ nhân cho dựng bảng đặt tên là Phở Dậu. Hồi đó ở hẻm bên cũng có quán phở gà rất ngon, chủ là một bà sồn sồn người Bắc di cư tên Lan nên gọi là Phở Bà Lan. Gà ngon, nước phở ngọt đằm, khách cũng đông. Nhưng rồi bà mất vì bệnh, quán dẹp tiệm luôn.

Và bây giờ quán phở Dậu có thể gọi là quán phở đắt khách nhất của Sài Gòn. Khách cứ đông nườm nượp, nhất là ngày thứ bảy và chủ nhật. Kiếm chỗ ngồi hơi khó. Đúng là Phở Dậu giờ không còn ngon và có mùi vị như xưa, nhưng khách thì tăng lên bội phần.

Phở Dậu không có rau, chỉ có bát hành tây xắt mỏng. Cũng không có tương đen, chỉ có tương Bắc cay màu đỏ. Phở Dậu ngon nhờ nước. Nước phở ở đây trong và thanh, là nước hầm xương, những khúc xương dài lóc hết thịt được đun từ hôm trước thoang thoáng mùi quế với hồi, nhạt thôi, tinh ý lắm mới ngửi thấy. Có thể cho điểm cao nhờ nước phở. Bánh cũng được, không nát, không dày quá. Thịt thì không ngon như ngày xưa, có lẽ bò bây giờ chất lượng không bằng. Lát nạm xảm không thấy chất thịt, vè vụn và dai. Ăn phở bò thì phải có gầu, nhưng gầu bây giờ trắng nhách, không có màu vàng như hồi xưa, miếng gầu ngày cũ nhai sần sật mà không dai, béo mà không ngậy, nhai miếng gẩu thấy sướng mồm. Giờ nhai gầu như nhai miếng thịt bị cắt ngược sớ, miếng gầu như kẹo cao su, chẳng thấy ngọt mà cứ nhờn nhợt trong miệng, đành phải nhả.

Nghe kể hồi mới di cư ở ngoài Bắc vào, gia đình này ở bên bến tắm ngựa ở Huỳnh Tịnh Của bây giờ, chưa biết làm ăn gì thì được một người quen dạy cho cách nấu phở. Sau đó dọn về xóm chuồng ngựa dưới dốc đường Công Lý gần Yên Đổ, sau mới về đây. Ông chủ bây giờ là đời thứ hai. Nhân viên lo việc hầm xương, cứ bốn giờ sáng ông vào nêm nếm theo bí quyết của mẹ truyền lại. Ông bà chủ này buôn bán thế này mấy chục năm nay, khách khứa như thế, hẳn là giàu. Nhưng ông bà rất giản dị và gần gũi. Ông ra vào kiêm luôn việc điều hành xe cộ của khách. Ông này có trí nhớ rất đặc biệt. Khách đi xe máy chỉ ghé ăn vài lần là ông nhớ số xe. Chẳng sai bao giờ. Do tánh tình bình dân và gắn bó, vui vẻ với khách nên khách nào cũng quý ông. Khách ở xa về ông nhớ mặt, chuyện trò thân mật, khách quen lâu không ghé, ông hỏi thăm. Khách thích ghé quán vì phở ngon nhưng cũng ưa ghé vì cái tình giao hảo ấy.

Mấy chục năm ăn phở mỗi sáng ở đây, tui thành như người nhà. Hồi còn trẻ, khoẻ, ngày nào cũng ăn. Giờ có tuổi, lại bị Gout nên mỗi tuần chỉ ghé một hai lần. Có nhiều khi tui bỏ thuốc lá, nhưng cứ theo thói quen tui chưa ăn xong thì đã có người mang bao thuốc ba số để lên bàn, thế là rút một điếu. Ăn tô phở xong mà chưa có điếu thuốc cũng chưa gọi là hoàn tất bữa ăn. Thế là hút. Hê..hê thành ra mang tiếng bỏ thuốc lá cũng vài chục lần mà không bỏ được. Ăn lâu năm nên cũng quen mặt nhiều khách cũng ăn thường xuyên giống tui. Gặp nhau cười chào mà chẳng biết tên gì. Mà cũng lạ lắm nghe. Khách ăn thường xuyên cũng thường chọn một chỗ thường xuyên, đôi khi chỉ xê xích vài chiếc ghế. Khách ngồi ngoài sân thì luôn luôn ngồi ngoài sân. Khách ngồi gian giữa cũng luôn ngồi gian giữa. Khách ngồi nhà bên thì cũng luôn chọn nhà bên để ngồi. Như một thói quen. Lại biết cách ăn của từng người. Có người mang theo chai giấm tỏi, có người không ăn hành, có người nhiểu bánh, có người ít, có người thêm béo có người nước trong. Lâu ngày tui nhớ hết, gần năm mươi năm còn gì, nửa thế kỷ chứ ít sao.

Ăn lâu một quán đôi khi cũng chán, nên khi nghe ai nói có quán phở nào ngon là đi tìm ăn thử, nhưng rồi cũng châu về hợp phố, làm như đã quen cái mùi cái vị đó rồi, thấy chỗ nào cũng chẳng vừa lòng. Tui có anh bạn chơi Piano nổi tiếng, cũng thuộc loại ghiền phở ở đây, cũng là khách thường xuyên. Đi trình diễn ở nước ngoài, vừa xuống máy bay, hành lý cồng kềnh nhưng bao giờ cũng ráng kêu taxi đến đây chơi một tô trước khi về nhà vì nhớ quá he..he.

Mấy hôm rồi có người giới thiệu một quán phở ở Cao Thắng, anh ta khen ngon nên tui có ý định đến ăn xem thử. Sáng nay rú xe đến đấy. Thứ bảy mà quán vắng hoe. Chỉ có một bàn có khách là một đôi nam nữ còn trẻ. Tui ngồi kế bàn đấy. Phải công nhận quán sạch sẽ, bàn ghế, đũa muỗng ngăn nắp. Bước vào quán có mùi phở, đã xứng cho một sao. Tui quan niệm quán phở phải có mùi phở. Cái mùi ngậy chút của hồi, của quế, của gừng nướng quyện với mùi bò. Đương nhiên là thoang thoảng thôi chứ không nồng nặc như quầy thịt bò ngoài chợ. Nhưng phải có mùi phở, cái mùi nhè nhẹ thoang thoảng ấy đánh thức cái khứu giác của người ăn, gợi cho họ cái cảm giác thèm được thưởng thức. Rau, ớt, chanh được để trong dĩa trắng tinh có lớp nhựa mỏng bọc ngoài. Lại nghe bảo tương ớt tự nhà làm. Tui cho thêm một sao nữa. Ở đây có món đặc biệt là phở đuôi bò. Cũng hay, thay đổi thử xem thế nào? Tui gọi một tô phở đuôi bò. Phở chỉ nên ăn thịt chín, bắp, nạm, gầu, vè. Phở mà ăn thịt tái là sai cách rồi, nhưng nhiều người thích thế.

Đôi nam nữ bàn kế bên vừa nhận hai tô phở đã bắt đầu hành trình trang bị. Cả hai xịt tương đỏ, rồi chơi luôn tương đen. Sau đó là động tác vặt rau, rồi trút cả dĩa giá trụng. Nhìn quanh, anh chị chơi luôn mấy muỗng tỏi ngâm dấm. Xong nhìn quanh xem còn thiếu gì không. À! Nước mắm thêm vài ba giọt rồi vắt vào miếng chanh. Tô phở bây giờ tú hụ, như nồi lẫu thập cẩm nhìn là hết muốn ăn. Cái thanh cảnh của người thưởng thức phở như tui bỗng ngao ngán cho cách ăn của họ. Ăn thế thì còn chi là phở. Tui quan niệm người biết ăn phở là khi tô phở bưng ra, nghi ngút khói, người ăn hít cái mùi thơm của phở, sau đó dùng muỗng múc một muỗng nước phở, húp để đánh gia nước phở ngọt ngon, mặn nhạt thế nào, lúc ấy mới nêm nếm theo ý mình. Cách ăn này cũng dùng cho hủ tíu, mì, bún nước ....chứ ăn mà bỏ đủ thứ vào một tô như nồi cám lợn thế kia thì mất mẹ cái thú thưởng thức thi vị món ăn rồi.

Tô phở đuôi bò của tui được bưng ra, cũng vừa thôi, không lớn lắm, được đựng trong bát sành có vẽ men xanh, nhìn cũng bắt mắt. Có bốn khoanh đuôi bò mỏng. Nước phở cũng tạm, không thể gọi là ngon, nhưng chắc có nêm bột ngọt. Đuôi bò mềm nhưng không nhũn, thịt cũng tạm, có thể cho thêm một sao nữa. Bánh phở dày quá, thiếu cái nuột nà khi cho trôi vào cổ họng.
Nhìn chung là mới ngưỡng trung bình, tô phở chưa có gì xuất sắc. Quẩy làm theo kiểu Bắc kỳ, nho nhỏ và cứng, phải ngâm trong nước lèo một lát mới mềm để ăn. Xin thêm ớt và gọi ly trà đá. Phục vụ nhanh, lễ phép, tui cho thêm nửa sao. Tổng cộng được ba sao rưỡi. Tức là trên trung bình một chút. Điểm đặc biệt ở quán này là trên tường dán một bảng công khai các gia vị sử dụng từ địa chỉ rau sạch, hãng nước mắm sử dụng cho đến chai nước suối và những gia vị với tên nhãn hàng. Người khách vào đây có thể biết rõ mình đang được phục vụ bởi các nhãn hàng nào, đó cũng là điều hay khi các hàng quán bây giờ có nhiều quán toàn sử dụng các loại gia vị và rau, nước chấm rẻ tiền hoặc không tên. Tui cho thêm nửa điểm về sự minh bạch này của chủ quán. Thế nhưng, khi tính tiền, tui lại trừ đi nửa điểm vì tính giá khá cao, không xứng với chất lượng của tô phở. Giá một tồ phở đuôi bò với bốn khoanh mỏng leo lét mà tính 85.000 đồng là chưa hợp lý. Giờ thì tui hiểu nguyên nhân quán vắng. Quán không có khách vì giá cao. Điểm cuối cùng còn lại là ba điểm rưỡi. Chưa ưng ý.

Thế là sẽ vẫn quay về với Phở Dậu. Đi loanh quanh lại về chốn cũ hê..hê
18.8.2018
DODUYNGOC


Nhà thơ Du Tử Lê có viết một bài thơ cho một người con gái tên Huyền Châu. Đây là một trong nhiều mối tình của ông nhưng đây là mối tình khi ông còn là chàng thanh niên đang thụ huấn ở Trường Sĩ quan Thủ Đức. Bài thơ đã được nhạc sĩ Từ Công Phụng phổ nhạc. Điều đặc biệt tui muốn nói ở đây là sau này nhiều người đã sử dụng nhiều hình ảnh, nhiều ý tứ trong bài thơ để sáng tác những bài thơ của mình. Điều đó cho thấy ảnh hưởng khá sâu rộng của thơ Du Tử Lê đối với các thế hệ sau ông


67 KHÚC THÊM CHO HUYỀN CHÂU

hạnh phúc tôi từ những ngày nước lớn
trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng
bầy sẻ cũ hom hem chiều ngói xám
trời xanh xao chân nhỏ cũng không về
cây mộng nở từng ngón tay lá nõn
môi tương tư cỏ ấm thịt da người
tôi hiu hắt từ mắt em ngắt tạnh
môi thâm khô từ thuở định xin hôn
ngày tháng hạ khi không mà trở rét
em khi không mà trở mặt điêu ngoa
tay trông ngóng hương đưa mùi tóc mạ
ngọn me xa theo ký ức rì rào
chiều qua đó chân ai còn ríu rít
lời ai say cho trời đất lại gần

kỷ niệm tôi từ những ngày vỡ tiếng
nhẩn nha gom từng cọng thiết tha rơi
con dế nhỏ lớn lên đằm tiếng hát
khi đêm về ru giọng đớn đau hơn
cây niên thiếu cũng thui mầm trong sáng
lá oan khiên lả tả mái hiên người
tôi èo uột từ những ngày cả gió
con dế buồn tự tử giữa đêm sương
bầy sẻ cũ cũng qua đời lặng lẽ
ngọn me xưa già khọm tiếc thương hờ
em ở đó bờ sông còn ấm cát
con sóng tình vỗ mãi một âm quên

1967
DU TỬ LÊ


Ừ chúng ta vẫn còn nguyên vẹn
Đầu, mắt, mũi, tay chân
Tim, phổi, ruột, gan
Và đi trên lịch sử nát ngấu sau những cuộc chiến tranh

Ừ vẫn còn nguyên vẹn
Cơn đau bụng sôi sùng sục trong ruột
Tháo chạy và vỡ oà
Cờ xí, vòng hoa, diễn văn, chúc tụng
Mồ hôi đầm đìa
Cơn đau như xé ruột
Nhưng vẫn còn nguyên vẹn
Đi như mộng du

Phố xá chen lấn nhau
Xe cộ dẫm đạp nhau
Vẫn còn nguyên vẹn
Có một phát súng nổ ở trong bụng
Vỡ toang hoác
Nước tràn xuống kẻ chân
Hay là máu chảy
Vẫn còn tay, còn mắt, còn mũi để thở
Nguyên vẹn hình hài
Nhưng cũng chẳng là vẹn nguyên

Đất trời vỡ một lỗ thủng
Chim bay mất, cá lặn mất
Những cột điện vút lên trời
Người tháo chạy nháo nhào
Một mình như trụ đá giữa ngã tư
Vẫn còn tim, gan, phèo phổi
Chỉ không còn nước mắt
Mà cũng chẳng biết khóc cho ai
Có còn tin vào nước mắt?
Vẫn nguyên vẹn hình hài

Seattle vẫn bình yên
Portland vẫn an nhiên
Cây đang mùa lá đỏ
Giã từ chốn lặng yên đến kinh hãi
Về nơi chộn rộn
Cơn đau vẫn ầm ì
Súng nổ ở Hong Kong
Quằn quại đi giữa phố đang gầm gừ một cơn mưa
Vẫn còn vẹn nguyên một nhát dao đâm giữa rốn
Loạng quạng băng qua ngã tư
Mở cửa lách tách
Băng hối hả qua sân trơn trợt rêu
Ruột như bom nổ
Vẫn vẹn nguyên trong căn nhà trống
Sợi khói nhang uốn lượn
Mở khoá nước
Lênh láng
Cành hoa sen héo khô cô độc trên bàn
Tất cả còn nguyên vẹn
4.10.2019
DODUYNGOC

MỘT BÀI THƠ VIẾT BẰNG TIẾNG PHÁP CỦA TÔI
Hôm trước tui viết vội một bài thơ "Vẫn còn nguyên vẹn". Bài này tôi viết khi từ Mỹ trở về lại Việt Nam. Bữa nay người không khoẻ, trời lại u ám nên buổi chiều bạn réo mà chẳng đi, buồn tình ngồi viết bài thơ sang tiếng Pháp, đã mấy chục năm không sử dụng Pháp ngữ, quên cũng nhiều rồi nhưng cũng làm liều, ai chê thì lắng nghe, ai ném đá thì lượm vậy. 
Sau khi đăng bản dịch đã được anh Phạm Tiến Dũng, một gs Pháp văn hiệu đính. Cám ơn anh Phạm Tiến Dũng.

ENCORE INTACTS

Oui, nous sommes encore intacts 
Tête, yeux, nez, membres, cœur, poumons, intestins, foie
Et nous traversons l'histoire dévastée après les guerres 
Oui, encore intacts
Douleur abdominale en ébullition  dans les intestins
Nous battons en retraite en cassant les drapeaux, guirlandes, discours, vœux
Transpiration abondante
La douleur nous fend les entrailles
Mais nous sommes toujours intacts 
Nous marchons comme les somnambules 
Les rues sont bondées
Les véhicules s’écrasent les uns sur les autres
Mais nous sommes encore intacts
Une balle explose dans le ventre et crée une blessure béante
L'eau coule jusqu'aux pieds, ou c’est du sang 
Nous avons encore les mains, les yeux, le nez qui respire
Notre corps est toujours intact 
Mais nous ne sommes plus intacts
Le ciel et la terre sont percés 
Les oiseaux se sont envolés, les poissons plongent et disparaissent dans les profondeurs
Les poteaux électriques montent en flèche dans le ciel
Les gens prennent la fuite en se bousculant
Et je suis seul comme un pilier de pierre au milieu d'un carrefour
J’ai encore le coeur, le foie, les intestins et les poumons
Seules les larmes ont tari
Et je ne sais plus pour qui je dois pleurer 
Est-ce que je crois encore aux larmes?
Encore intact 
Seattle et encore paisible et calme Portland 
Les arbres sont en pleine saison des feuilles rouges 
Adieu à cet endroit si silencieux qu’il me fait peur
Retour au lieu animé
Une douleur sourde me ronge encore
Coups de feu à Hong Kong 
Je marche en me tordant dans les rues où gronde une pluie 
Une blessure au couteau est toujours là, en plein nombril 
Je traverse un carrefour en boîtant 
J’ouvre la porte en faisant un petit bruit
Je traverse précipitamment la cour mousseuse et  glissante 
Mes entrailles sont comme une bombe qui va exploser 
Tout reste intact dans la maison vide 
Des chaînes de fumée d’encens montent en se tordant dans l’air
J’ouvre le robinet et l’eau en jaillit abondamment.
Une branche de lotus sèche dans la solitude sur la table 
Tout est encore intact 
4.10.2019 
DODUYNGOC

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget