Latest Post


Giọt sương nào rụng trên vai
Buốt trong tâm thức đau ngoài ruột gan
Máu về đỏ giữa không gian
Muộn phiền lũ lượt đời càng mong manh

Lá buồn rũ ở trên cành
Người xưa tro bụi còn hành hạ nhau
Đêm trần gian rớt mưa mau
Quấn trong chăn mỏng nát nhàu mốt mai

Đường còn xa mộng còn dài
Hai tay héo hắt ngực hoài vọng âm
Suối sông chết giữa lặng thầm
Hoang vu số phận nẩy mầm nửa khuya
14.4.2020
DODUYNGOC


Trở về vẽ một khoanh tròn
Chân đi bao bước đã mòn thời gian
Tuổi già ngồi ngắm gian nan
Nghe trong lá mục xếp hàng rong rêu

Chiều trôi không một tiếng kêu
Chân trời mây trắng rất nhiều rụng rơi
Gió đâu về giữa tơi bời
Thân tàn ôm ngực khóc thời nhiễu nhương.
13.4.2020
DODUYNGOC











Hồi còn nhỏ tôi thường thấy Mạ tôi mua nước mắm về ăn đựng trong cái tĩn. Tĩn có hình dáng như cái lu nhỏ, dung tích khoảng 3,5 lít. Tĩn được làm bằng đất, bụng phình, quét vôi màu trắng, miệng đóng bằng một cái nắp hình như chiếc dĩa nhỏ gắn vào tĩn bằng xi măng, trên đó có dãn nhãn in màu loè loẹt hãng sản xuất. Chiếc tĩn nhìn thô có khi được quấn bằng một đoạn dây mây hoặc dây xơ dừa để mang xách đi cho tiện. Tĩn thường được các hãng nước mắm ở Phan Thiết hay dùng. Sau đó có nước mắm Phú Quốc cũng dùng tĩn để chứa nước mắm phân phối cho người tiêu dùng nhưng tĩn Phú Quốc trong gọn hơn, bụng cũng không phình lớn bằng. Hồi đó, tức khoảng thập niên 50, 60 của thế kỷ trước, nước mắm Phan Thiết được bán nhiều ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Tĩn nước mắm được chất đầy ghe, thuyền đi khắp các tỉnh. Ở miền Bắc thì có nước mắm Vạn Vân. Trong dân gian có câu: : “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần - Nước mắm Vạn Vân, cá rô Ðầm Sét”. Ông chủ của hãng nước mắm Vạn Vân là ông Đoàn Đức Ban, bố của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Nghe đồn là hồi năm 1939, nước mắm Vạn Vân đã được xuất sang Pháp. Chắc một điều là nước mắm miền Bắc không chứa trong chiếc tĩn như nước mắm miền Nam. Ở miền Bắc thường chứa trong lu lớn làm bằng đất nung. Khi phân phối bán lẻ thì chiết ra chai hoặc thùng. Cũng vào thời đó, người ta đã chứa nước mắm trong những thùng thiếc 20 lít. Có thể chiếc thùng này trước đó dùng để đựng dầu lửa của hãng dầu con sò Shell, hồi đấy ở miền Nam dùng nhiều dầu lửa để nấu nướng, chạy máy, thắp đèn...nên có nhiều thùng. Tôi còn nhớ hoài hình ảnh ông, bà bán nước mắm dùng cái thụt dầu cũng bằng tôn bỏ vào thùng, dùng tay thụt tạo áp suất cho nước mắm chảy ra khi bán hàng. Cũng không quên mấy ông Tàu bán chạp phô dùng cái gáo nhỏ làm bằng ống tre múc từng gáo nước mắm bán lẻ. Nhà trung lưu, khá giả thì mua nước mắm tĩn để dùng, dân lao động nghèo khó cần mới cầm cái chén, cái chai ra tiệm tạp hoá ăn đến đâu mua đến đấy. Nước mắm Phan Thiết chủ yếu được làm từ cá cơm và nhiều loài các khác tùy vào mỗi lần tàu về và muối hạt. Có nhiều loại cá cơm như cá cơm sọc tiêu, cơm than, cơm đỏ, sọc phấn, phấn chì, cơm lép... nhưng ngon nhất là cá cơm than và sọc tiêu. Cá cơm, xuất hiện từ tháng tư cho đến tháng tám âm lịch, là loại cá nhỏ, con to chỉ bằng ngón tay út hay bằng chiếc đũa, nhưng phân rã thành mắm nhanh, nên thời gian thành nước mắm cũng ngắn. Tuy nhiên, nhiều nhà làm nước mắm lâu năm cho biết chất lượng còn phụ thuộc vào thời gian đánh bắt cá, nhất là cá tháng tám, con nào cũng đều béo mập thì nước mắm mới ngon và đạt độ đạm cao nhất. Khác biệt chung nhất, dễ nhận thấy nhất của nước mắm Phan Thiết so với nước mắm Phú Quốc và các vùng khác là màu vàng rơm (nếu nguyên liệu là cá cơm) hay màu nâu nhạt (cá nục), trong sánh, có mùi thơm nồng và vị ngọt đậm do đạm cao. Khác biệt đó của nước mắm Phan Thiết được giải thích vì quá trình ủ chượp dưới trời nắng và gió, nhiệt độ trung bình cao, độ ẩm thấp tác động tích cực đến cơ chế lên men, điều mà khó có địa phương nào được ưu đãi như vùng cực Nam Trung bộ. Ngày nay, trong làng nghề nước mắm ở Phan Thiết, cũng có 3 khu vực sản xuất nước mắm ít nhiều khác nhau: Khu vực phường Thanh Hải: Chủ yếu là các hàm hộ (nhà làm nước mắm) nhỏ, sản phẩm nước mắm vừa mặn, có màu cánh gián đẹp (nhưng để lâu dễ bị xuống màu), độ đạm trung bình. Tại đây còn sản xuất ra các sản phẩm gốc mắm như: mắm nêm, mắm tôm, mắm ruốc... Khu chế biến nước mắm Phú Hài: Đây là khu vực sản xuất quy mô tương đối lớn, sản phẩm nước mắm có độ mặn truyền thống. Khu vực phường Hàm Tiến-Mũi Né: nước mắm tại khu vực này có thể nói là tốt nhất vì nguyên liệu làm từ cá cơm và không có phụ gia. Tuy nhiên, sản phẩm sản xuất ra rất hạn chế. Nước mắm Phú Quốc là tên gọi chung cho các loại nước mắm được sản xuất tại Phú Quốc, một đảo lớn ở phía tây nam của Việt Nam, thuộc tỉnh Kiên Giang. Nó là một trong các loại nước mắm không những nổi tiếng ở Việt Nam mà còn được biết ở nhiều nước trên khắp thế giới. Vùng biển xung quanh đảo Phú Quốc có nhiều rong biển và phù du làm thức ăn cho các loài cá cơm, cho nên có nguồn lợi cá cơm rất lớn. Việc sử dụng nguồn lợi này để làm nước mắm ở Phú Quốc đã có lịch sử trên 200 năm. Cuối thế kỷ 19, người dân trên đảo Phú Quốc đã bán nước mắm sang Campuchia, Thái Lan. Tuy nhiên, nước mắm Phú Quốc chỉ nổi tiếng từ những năm 1950, đạt cực thịnh vào những năm 1965-1975. Trước năm 1945, ở Phú Quốc đã có gần 100 nhà thùng làm nước mắm, chủ yếu tập trung ở Dương Ðông và Cửa Cạn. Trong thời gian chiến tranh, các nhà thùng ở Cửa Cạn bị tàn phá, nên các nhà thùng dần chuyển qua Dương Ðông và An Thới như hiện nay. Sự khác biệt chính yếu của nước mắm Phú Quốc là màu cánh gián đặc trưng, hoàn toàn tự nhiên chứ không bằng cách pha màu như những nơi khác. Màu cánh gián này có được nhờ cách ướp tươi còn máu trong thân cá và thời gian ủ trong thùng gỗ tới 12 tháng. (Wikipedia) Tĩn nước mắm có dung tích 3.5 lít xuất phát từ Phan Thiết, bắt đầu từ hãng nước mắm Liên Thành thành lập năm 1906. Mesnard Rose một chuyên gia dinh dưỡng người Pháp ghi chép hồi năm 1918 có ghi tĩn là một loại bao bì an toàn hơn chứa trong thùng thiếc. Nước mắm chứa trong tĩn sẽ giữ được chất của nước mắm, lâu ngày nước mắm cô lại ngon hơn nước mắm mới chiết ra khỏi thùng gỗ. Đến thập niên 70, người ta không còn thấy tĩn xuất hiện, thay vào đó nước mắm được đóng chai dung tích 1 hay nửa lít để bán lẻ. Còn bán buôn người ta đóng vào thùng nhựa và đôi khi vẫn sử dụng thùng thiếc. Cái tĩn đã làm xong phận sự lịch sử của nó và vắng bóng, để lại trong lòng những người tiêu dùng hình ảnh của một thời. Cái tĩn nước mắm thô thô, vụng vụng, nhìn rất bình dân với quảng đại quần chúng trở thành ký ức của nhiều người. Trong hàng trăm món ăn thường ngày của người Việt, phần nhiều, rất nhiều món có dùng nước mắm. Nước mắm là gia vị chính yếu của các món ăn cũng như người Hoa dùng nước tương vậy. Theo Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối thuộc Bộ Nông nghiệp cho biết sản lượng tiêu thụ nước mắm hằng năm của cả nước khoảng 215 triệu lít. Như vậy mỗi người chỉ xài có hơn 2 lít. Trong khi đó cũng theo Mesnard Rose, năm 1920 lúc đó dân số Việt Nam khảng 14 triệu người, tính theo đầu người mỗi năm dùng 20 lít nước mắm, cao hơn bây giờ. Ngoại trừ vùng Cát Hải, Hải Phòng ở miền Bắc, ở miền Trung và miền Nam các hãng sản xuất nước mắm trải dài từ Phan Thiết đến Phú Quốc hàng trăm hãng, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là hai hãng lớn là Liên Thành ở Phan Thiết và nước mắm cá cơm ở Phú Quốc. Hồi mới xuất hiện, giá nước mắm chỉ từ 3 đến 20 xu tùy loại ngon dở, đặc biệt giá 40 xu một lít là loại ngon hảo hạng. Nước mắm ngon là nước mắm nhỉ, là nước đầu của thùng mắm, còn gọi là nước nhất. Những người đi biển hay thợ lặn ngày trước thường uống một chén nhỏ nước mắm nhỉ khi lặn biển. Chất đạm trong nước mắm sẽ không làm người ở dưới biển sâu bị lạnh. Sau đó, từ xác mắm, pha thêm muối và nước vào xác mắm, để thêm một thời gian lọc tiếp, thành nước mắm loại hai, loại ba bán cho người nghèo. Người dân miền Tây phong phú cá tôm, do vậy người ta dùng con cá linh, cá phèn làm nước mắm đồng. Mắm đồng không ngon bằng nước mắm làm từ con cá cơm sọc tiêu đánh bắt từ biển. Nước mắm Phú Quốc nổi tiếng nhờ con cá cơm này. Và dân miền Tây cũng bớt mắm đồng, xoay qua dùng nước mắm cá cơm. Theo đà phát triển người ta dùng ít nước mắm hơn, nhưng nó vẫn là thứ không thể thiếu trên mâm cơm của người Việt. Nước mắm truyền thống bắt đầu bị lép vế trước con sóng ào ạt của loại nước chấm Chinsu, Nam Ngư. Thực chất đó chỉ là loại nước chấm chứ không phải nước mắm, được hình thành từ hương liệu, xác mắm và hoá chất. Thế nhưng nó đánh bạt nước mắm truyền thống nhờ giá rẻ, bao bì đẹp và các chiến dịch quảng cáo rầm rộ, phủ sóng tràn ngập trên các phương tiện truyền thông. Để tồn tại và phát triển, nước mắm truyền thống phải tìm con đường, lối thoát. Và một trong nhiều cách để đến với người tiêu dùng, thương hiệu NƯỚC MĂM TĨN đã ra đời. Nước mắm tĩn ngày nay được tiếp tục làm theo công thức 300 năm của Làng Chài xưa, là nước mắm nguyên chất sánh đặc thịt con cá (mắm nhỉ nước nhất) với đạm nguyên chất từ con cá cơm than to, béo, tươi rói được ủ chượp với muối tinh khiết. Sau hơn 12 tháng, nước mắm được rút từ thùng gỗ xưa vào cái tĩn thời nay. Tĩn bây giờ không còn làm từ đất sét thô vụng nữa mà được làm bằng gốm tráng men rất mỹ thuật. Tĩn bây giờ là một tác phẩm nghệ thuật, cũng được quấn bằng dây xơ dừa đầy tính trang trí vừa thực dụng để di chuyển. Những người năm xưa gắn bó với cái tĩn ngày tháng cũ sẽ tìm thấy trong cái tĩn mới một phần ký ức, nhưng tĩn bây giờ sang trọng hơn, thanh lịch hơn và nước mắm bây giờ cũng ngon không khác gì nước mắm hảo hạng của ngày xưa. Đồng thời, những người có lòng với nước mắm truyền thống đã chung tay thành lập Bảo tàng nước mắm Làng Chài xưa. Ở đó người ta lưu giữ những dấu tích, lịch sử của nước mắm hơn 300 năm trước trên mảnh đất Phan Thiết khi người Việt tiếp cận cách làm nước mắm của người Chăm. Từ "Ủ, Chượp" để làm nước mắm cũng xuất phát từ tiếng Chăm. Ở Bảo tàng, ta thấy những lều gỗ ủ chượp nước mắm, hình ảnh của những chiếc ghe bầu chuyên chở những tĩn nước mắm đi khắp nơi trên mọi miền từ những năm 1693. Cũng ở đó, ta sẽ nhìn lại cái tĩn của một thời. Với hơn 2000 năm từ khi xuất hiện trên thế giới và 300 năm tồn tại ở Việt Nam, nước mắm đã trở thành quốc hồn, quốc tuý của dân tộc Việt. Nước mắm xứng đáng được bảo tồn và ngành sản xuất nước mắm truyền thống cần được giữ gìn và trân trọng. Sài Gòn 12.4.2020 DODUYNGOC

Kei Mieno là họa sĩ Nhật Bản đến từ Hiroshima. Anh là họa sĩ chuyên nghiệp đã 10 năm nay. Anh thường sử dụng sơn dầu để tạo nên những bức tranh đẹp đến nỗi khó có thể phân biệt được đây là tranh vẽ hay là ảnh chụp. Đến những tiểu tiết nhỏ nhất như tóc, làn da... cũng được họa sĩ mô phỏng vô cùng chính xác.



















Cấp bản quyền chỉ là công nhận cái công trình tào lao đó của mấy anh thôi chứ không phải xác định giá trị của nó. Nhớ lấy điều đó để đừng đem cái chứng nhận bản quyền đó ra hù thiên hạ. Thực tế nó chỉ là Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, giấy này cấp để tránh chuyện có người tranh dành công trình này thôi, hoàn toàn không phải là giấy chứng nhận về mặt học thuật. Mấy anh sáng chế, sáng tạo cái gì cũng được, đó là quyền của mỗi người, nhưng đừng nghĩ là người ta sẽ sử dụng nó. Người ta cấp cái bằng này cũng như cấp bằng sáng chế ra cái chổi lông vịt thay vì bằng lông gà hay sáng chế cái ống xịt tưới nước thay vì tưới bằng bình thế thôi, nó chẳng có giá trị nào cả. Hàng năm ở Việt Nam hàng trăm bằng Tiến sĩ được cấp, chẳng có bao nhiêu đề tài trong các luận văn đấy giúp ích cho đời. Cái công trình của các anh cũng giống vậy thôi. Báo chí làm rùm beng chuyện này chứng tỏ những người viết báo chẳng có chút kiến thức vỡ lòng nào về chữ quốc ngữ.

Chẳng có ai ngu si, dốt nát đến độ đem chuyện bôi bẩn, làm xấu tiếng Việt để thay thế chữ Việt trong sáng, đẹp đẽ như đã có mặt trong đời sống của người dân Việt suốt cả một thời gian dài. Người Việt hôm nay yêu tiếng nước mình, chữ viết của nước mình từ khi bập bẹ và lúc bắt đầu cầm bút viết những con chữ đầu đời. Chắc chắn không ai có thể chấp nhận lối viết quái dị, xấu xí của mấy anh. Và như thế, các anh đừng có mơ tưởng hão huyền cái loại chữ không dấu như con chó cụt đuôi này được đưa vào giảng dạy cho học sinh. Ngay từ mới hình thành, những người sáng tạo ra chữ quốc ngữ đã dựa vào tiếng nói của người Việt để tạo nên chữ viết. Chính cái âm điệu trầm bổng của tiếng Việt mà nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ của thế giới đã cho rằng tiếng Việt nói như hát. Và âm điệu đó đã sinh ra các dấu trong chữ quốc ngữ.

Tiếng Việt khác với các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ở nhiều đặc điểm, trong đó đặc điểm rõ nhất là tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Theo quan điểm ngữ âm học hiện đại về thanh điệu, thanh điệu tiếng Việt trong chức năng khu biệt nghĩa, là sự khác biệt về cao độ (pitch) và chất giọng (voice quality), khi phát âm âm tiết. Về cao độ (khái niệm về cảm thụ, tương ứng với khái niệm tần số thanh cơ bản (F0), về vật lí), các thanh điệu có thể phân biệt về 1- đường nét (contour) – đó là diễn tiến (sự biến đổi) F0 trong thời gian phát âm âm tiết; 2- âm vực (pitch level) – đó là vùng cao độ mà ở đó một thanh điệu được thể hiện (tính từ điểm thấp nhất đến điểm cao nhất về cao độ). Chất giọng là khái niệm về mặt cảm thụ, tương ứng với khái niệm kiểu tạo thanh (Phonation type), xét về mặt sinh lí tạo sản lời nói. Kiểu tạo thanh là kiểu thức rung dây thanh, tạo nên sự khác biệt về trạng thái thanh môn và lượng dòng khí đi qua thanh môn, khi phát âm âm tiết.

Khi các giáo sĩ châu Ấu mới tiếp xúc với tiếng Việt, việc phát âm đúng thanh điệu tiếng Việt là khó khăn lớn nhất đối với họ. Linh mục C. Borri đến Đàng trong năm 1618 thú nhận rằng, muốn hiểu và nói được tiếng Việt hoàn toàn phải dành ra 4 năm để học. Marini cho rằng, “dường như dân Việt bẩm sinh đã có một cơ thể rất chính xác, được điều chỉnh thật đúng và hoà hợp hoàn toàn với trí óc cùng buồng phổi; phải nói là, theo tự nhiên, người Việt là nhạc sư, vì họ có tài phát âm một cách nhẹ nhàng và chỉ hơi biến thanh là đã khác nghĩa”. Tháng 12 năm 1624, Linh mục Alexandre de Rhode từ Áo Môn đi tầu buôn Bồ Đào Nha vào Cửa Hàn đến Thanh Chiêm tức thủ phủ Quang Nam Dinh và học tiếng Việt tại đó. Về tiếng Việt ông viết: “Riêng tôi xin thú nhận rằng khi vừa tới đàng trong nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như mình nghe chim hót và tôi đâm thất vọng vì nghĩ rằng không bao giờ có thể học được tiếng Việt”. ( Alexandre de Rhodes, 1653 tr. 72 ; dân theo 2 : tr. 12).

Trong “Báo cáo vắn tắt về tiếng An nam hay Đông kinh”, Alexandre De Rhodes khẳng định hệ thống thanh điệu được phản ánh trong chữ Quốc ngữ là hệ thống thanh điệu Bắc Bộ (Tonkin- Đông Kinh). Tác giả đã miêu tả rất ấn tượng các “giọng” (thanh điệu) và đặt tên cho từng giọng (thanh điệu). “Thứ nhất, giọng bằng là giọng phát âm không uốn tiếng chút nào. Thứ hai, giọng sắc là giọng phát âm bằng cách nhấn tiếng và đẩy tiếng ra giống như người biểu lộ cơn giận. Thứ ba là giọng trầm và phát âm bằng cách hạ thấp tiếng. Thứ tư là giọng uốn cong, được diễn tả bằng cách uốn cong tiếng phát ra từ đáy ngực, và sau đó được nâng lên một cách cao vang. Thứ năm là giọng được gọi là nặng trĩu hay cực nhọc, bởi vì giọng này được diễn tả bằng việc phát âm từ đáy ngực với sự nặng trĩu hay cực nhọc nào đó, và nó được ghi bằng dấu chấm dưới. Sau hết, giọng thứ sáu là giọng nhẹ, bởi vì nó được phát ra với việc uốn cong tiếng cách nhẹ nhàng, như khi chúng ta có thói quen hỏi , itane (phải vậy không)? và những tiếng giống như vậy, và bởi vậy, dấu hiệu này được ghi bằng dấu hỏi“.

Việc các nhà truyền giáo sử dụng các dấu ghi thanh điệu cũng có lí do. 4 trong 5 dấu thanh có nguồn gốc Hi Lạp gồm dấu Huyền, Sắc, Ngã, Nặng, dấu Hỏi có nguồn gốc La Tinh. Việc lựa chọn dấu (hình dáng đồ họa, vị trí đặt dấu) để ghi mỗi thanh điệu được căn cứ vào cách phát âm của thanh đó. (NGUYỄN VĂN LỢI - Đăng lại từ báo cáo “Sự hình thành cách ghi thanh điệu chữ Quốc ngữ”)

Đoạn văn được trích trên cho thấy các dấu trong chữ Việt phát xuất từ cái hồn của tiếng Việt. Nay các anh bỏ mất dấu đi, hỏi tiếng Việt còn gì trong chữ viết mới của các anh. Chính các anh, bằng cái sáng chế công trình quái dị đó đã tước mất cái hồn vía, cái bản sắc đặc biệt trong chữ Việt mà các giáo sĩ Francisco de Pina, Joao Roiz; Gaspar Luis; Antonio Barbosa, Cristoforo Borri; Alexandre de Rhodes và Gaspar d’Amaral mất một thời gian rất dài mới tạo ra được.

Bằng công trình chữ Việt không dấu gọi là "Chữ VN song song 4.0" của hai tác giả Kiều Trường Lâm và Trần Tư Bình đã làm xấu đi chữ Việt, tạo ra một lối viết què quặt khó coi. Nhìn lối viết chữ này, người ta sẽ không còn thấy chữ Việt mà cứ nghĩ là lối chữ viết của một nhóm thổ dân nào đó. Chuyện cấp chứng nhận đăng ký quyền tác giả là chuyện bình thường, có gì đâu mà phải ầm ĩ thế!

Với tư cách là một con dân đất Việt, nói tiếng Việt và sử dụng chữ Việt suốt gần cả đời người, đồng thời là một thầy giáo dạy chữ Việt mấy chục năm, tôi phủ nhận công trình này.
2.4.2020
DODUYNGOC

Bổ sung: Đây là một đoạn văn được viết theo lối chữ mới đăng trong face của tác giả. Nói thiệt, đọc và hiểu được, chết liền! Xin hỏi có ai hiểu chi không?

BILQ

Ahp kogy xugx lal bilq xahp*Nhugo ahp mulb em-lal bok cat tragx*Bok cat zail fagv lagh *Soi ahj nagx fa ley*Bok depr des cat vagl*Thojp thojz hagl thogy dugx *Nhuo lagh les moo magl*Sudb wanl namo beny sogj *Ahp xin laml bilq bisb *Hony mais cat vagl em *Hony thatf kes thatf emy *Hony emy demd mais mais *Das hony roid hony lair *Cho denb mais muly doik *Denb tan caz datb troik *Ahp moix thoiy zaol zatr Cugs coj ki aol atr*Nhuo wilb nat bok em *Lal luc triwd iwy menb*Wapf benb cuaz wayl demy *Ahp kogy xugx lal bilq xahp *Nhugo cugs xin laml bilq bisb *Deq hat mais beny gahl*Motf tihl chugp kogy hetb*Deq nhugw ki botr tugp tragx xoaj*Val joj ved bay toaz noio noio *Nhuo hony mais wanl namo kogy thoaz*Boiv iwy bok lamx lamx em oio.
-----------------
CVNSS 4.0, Chuj Wylg Bihl zikr trogp bail thoo "Bilq" cuaz Xaly Ziwf

kenh14.vn-Tiếng Việt không dấu chính thức được cấp bản quyền, tác giả hy vọng chữ mới có thể được đưa vào giảng dạy cho học sinh














ĐĂNG BÀI VIẾT CỦA MỘT NGƯỜI SINH RA VÀ LỚN LÊN Ở MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, CÓ ÔNG VÀ CHA LÀ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI MIỀN BẮC. ĐÂY LÀ MỘT CÁI NHÌN KHÁ KHÁCH QUAN VÀ TRUNG THỰC, HI VỌNG CÁC DLV KHÔNG NHẢY VÀO CHỬI BỚI VÔ VĂN HOÁ Ở ĐÂY.

BÀI VIẾT KHÔNG BIẾT ĐẶT NHAN ĐỀ LÀ GÌ.

Thảo Dân.

Những ngày cuối tháng Tư năm 1975, lớp lớp đoàn quân giải phóng ào ạt tiến về Saigon trong niềm vui còn sống tới ngày thống nhất, trong niềm hạnh phúc vô biên vì lý tưởng chiến đấu họ đã hoàn thành. “Ta đi trong muốn ánh sao vàng, rừng cờ tung bay rộn ràng bao mê say những bước chân dồn về đây. Sài Gòn ơi! Vững tin đã bao năm rồi một ngày vui giải phóng” (Đất nước trọn niềm vui- Hoàng Hà).
Đoàn quân giải phóng đã thắng 2 tên thực dân đế quốc lớn nhất thời đại, chỉ vừa bước chân về tới Saigon, sau men say chiến thắng là bộc lộ những hạn chế, những lạc hậu, đồng thời choáng ngợp về một thế giới sang giàu phồn vinh thật chứ không phải “giả tạo”. Những người lính Bắc Việt trẻ măng hớn hở rạng rỡ lần đầu được ngồi lên chiếc xe gắn máy, hoặc sự ngạc nhiên tột độ khi ngồi xuống một gian hàng bán đủ thứ mặt hàng vô cùng phong phú dọc hè phố Saigon, một phóng viên chiến trường phe cách mạng hào hứng, cầm chiếc máy ảnh được sản xuất từ phương Tây và tò mò bấm thử, một anh cán bộ đầu đội mũ cối, chân đi dép râu, mặc bộ quân phục ka ki Nam Định xanh lá rộng thùng thình phải thắt tới nút cuối cùng của chiếc xanh tuya, hãnh diện đeo chiếc kính mát đen sì và chiếc đồng hồ mới thửa trên cổ tay gầy rộc, vai đeo một chiếc radio mua vội. Rất nhiều tấm hình lưu trữ khoảnh khắc lịch sử này có thể dễ dàng tìm trên mạng.
Họ mau chóng thể hiện những hồn nhiên đến ấu trĩ, những ngơ ngác đến tội nghiệp, lâm vào bao tình huống dở khóc dở cười, trở thành nhân vật trong những câu chuyện hài hước mỉa mai của quân dân cán chính miền Nam. Vô số hài thoại qua những tập ngữ mới lạ, trở thành “ký hiệu” thể hiện sự coi thường, khinh bỉ đi sâu vào trí não người miền Nam. Trên sách báo và câu chuyện đời thường của người miền Nam từng sống thời hậu chiến, nó vẫn được, bị nhắc lại một cách đầy thành kiến, mà hậu sinh nếu không được giải thích thì sẽ không hiểu người ta nói gì.
-Cái nồi ngồi trên cái cốc => Chỉ ly cà phê phin (một vật dụng có từ thời Pháp ở cả 3 miền Nam, Trung và Bắc kỳ chứ không hề xa lạ).
-Cái lọc cà phê => Chiếc áo ngực của phụ nữ miền Nam.
-Đồng hồ không người lái 12 cửa sổ (đồng hồ Seiko thời đó chạy tự động, không lên giây như đồng hồ của Nga, ở mỗi vị trí ghi giờ, thay vì các con số thì đính một viên nhựa khối vuông giả hột xoàn, óng ánh như cửa sổ sáng đèn).
-Tivi, tủ lạnh chạy đầy đường.
-Kem ăn không hết phải đem phơi.
Món hàng khi đó bộ đội yêu thích, hay mua để đem ra Bắc được gói vào 3 từ “Đạp- Đồng- Đài” (Xe đạp- đồng hồ- radio).

Mỗi lần đọc thấy một hài thoại như vậy, tôi có buồn không?
Có. Rất buồn. Và xót xa.
Vì trong đoàn quân Bắc Việt đó, có ông ngoại tôi, một giảng viên chính trị của Học viện Quân sự, sau này đóng ở Đà Lạt, người đã từ chối những ưu đãi dành cho cán bộ Việt cộng lấy từ tài sản của quân dân chế độ Saigon, tới khi về hưu vẫn ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Món quà tôi nhớ nhất mỗi lần ông về phép là chiếc mũ nhựa có thể gấp lại cho trong túi đi học, ngoài ra, không có gì cả. Tất cả những gì mà gia đình có được, là do sự đảm đang, tháo vát và cả sự nghiệt ngã với con cái của bà ngoại tôi mà có. (Cần lưu ý, nếu các bạn trẻ tìm hiểu về Học viện quân sự Đà Lạt trên Wikipedia, rất dễ nhầm tưởng rằng Học viện này là của chế độ cọng sản lập ra, vì người viết không rõ là do kiến tức kém hay cố ý nhập nhèm, nhưng trên thực tế, nó được tiếp quản từ chế độ VNCH, nơi này vốn là trường võ bị Quốc gia Đà Lạt, một cơ sở cao cấp đào tạo sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại 25 năm, từ 1950- 1975, nơi xuất thân của rất nhiều tướng lĩnh tài ba). Ông ngoại cũng chính là người khi nói nói tới gia đình họ Ngô bao giờ cũng bằng một thái độ kính trọng, gọi là Cụ Diệm. Những ngày ông về hưu (ông đã cùng các cậu tôi rời quê sau khi cụ tôi mất), tôi may mắn được sống gần ông, được lục lọi tủ sách lúc nào mở ra cũng sực nức mùi băng phiến. Sách nước ngoài hầu như toàn văn học Xô viết, nhà văn Việt Nam ông yêu thích là Hữu Mai. Ông cho tôi đọc cả những cuốn sách phát hành rồi bị thu hồi như: Nhãn đầu mùa (tôi đã quên tác giả), Ly Thân (Trần Mạnh Hảo), Những Thiên Đường Mù (Dương Thu Hương), khác hẳn với ông bố giáo điều và cả tin của tôi, luôn kiểm soát tất cả những gì tôi đọc và nghĩ, nên Truyện Kiều cũng thuộc vào danh mục sách cấm, tới mức tôi phải láu cá lột bìa cuốn Bất Khuất của Nguyễn Đức Thuận để bọc vào tất cả mọi quyển, mỗi khi bố tôi lảng vảng tới gần, tôi chỉ cần giả vờ lơ đãng gấp sách lại, để hiện lên cái bìa sách Bất Khuất to đùng tôi tỉ mẩn tô vẽ là che mắt được mắt bố. Bố tôi cả tin đến nỗi mỗi khi tôi bướng bỉnh, lại mắng, Mày đọc Bất Khuất cho lắm vào.
Trong đoàn quân đó có bố tôi, một anh bộ đội Trường Sơn suốt từ 1964 đến năm 1976 mới xuất ngũ. Tài sản mang về là mấy bộ kim châm cứu (kỷ vật của cô người yêu cũ ở chiến trường) và bệnh sốt rét kinh niên. Để chữa khỏi bệnh cho bố, gia sản nghèo nàn của nhà tôi sạch bách. Mẹ tôi phải bán đi cả chiếc kiềng bạc của em tôi, bán đi chiếc nón lá Hà Đông được tặng, chưa dám đội lần nào và vô vàn sáng trưa chiều tối lọ mọ đạp xe, đi bộ khắp hang cùng ngõ hẻm của huyện để tìm thuốc và về hì hụi ninh, sắc cho bố uống.
Có chú họ tôi, mà mỗi lần nhắc chú, mẹ tôi đều kể lại câu chuyện đêm trước chú đi B, được về nhà, đã ra ngó từng gốc cây trong vườn, đã chạy khắp các đường làng rồi chạy vào bế tôi, đứa cháu nội đầu tiên của chi (một nhánh trong nội tộc), khi đó mới vài tháng tuổi rồi lại hối hả chạy bộ lên chỗ tập trung. Câu nói của chú tới giờ mẹ tôi vẫn nhắc, Em nhớ nhà, nhớ làng, nhớ cháu lắm chị ơi, nhớ từ nồi nước giải giở đi. (Quê tôi hồi đó thường để một cái nồi đất to ở góc vườn, đi giải vào đó để pha ra tưới rau).
Có một đồng hương của tôi, sau khi giải ngũ về làng, lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, xa lánh mọi người, ai nói gì cũng chỉ khe khẽ cười nhạt, đêm đêm trùm chăn nghe đài BBC, người vợ trẻ đang tuổi khao khát hạnh phúc lứa đôi cặp bồ với hết người này người khác, ông cũng chỉ khe khẽ cười đau khổ. Hễ ai bất bình hộ mà bâng quơ nhắc nhở xa gần, thì ông thở dài, Cả làng, cả nước này bị lừa chứ nói gì một người đàn bà. Kệ người ta.

Bởi thế, tôi trân trọng và thương xót người lính Bắc Việt bằng một cảm xúc máu thịt chân thành. Đằng sau cái ngô nghê ấu trĩ đó, là sự thật đói nghèo của miền Bắc lúc bấy giờ. Những tiện nghi quá đỗi bình thường với dân miền Nam như quẹt gaz, máy casesstte, quạt máy, đồ chơi điện tử…tới những vật dụng của gia đình trung lưu như máy hát đĩa, ti vi, tủ lạnh, xe máy, ô tô…là một thế giới trong mơ, không có thực ở miền Bắc. Sự hợm hĩnh dốt nát của họ là để che đậy mặc cảm tự ti của kẻ chiến thắng biết mình chiến bại, bại vì thua sút đối thủ cả vật chất lẫn tinh thần. Những người có học hành, hiểu biết thì sớm giật mình, bàng hoàng nhận ra mình đã nhầm. Thế nên mới có một Dương Thu Hương ngồi sụp xuống khóc nức nở giữa đường phố Saigon, để bắt đầu giai đoạn nhận thức phản tỉnh triệt để. Có một người lính trong bài thơ Phan Huy: “Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”/ Tôi đã vào một xứ sở thần tiên/ Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền/ Cơm áo no lành con người hạnh phúc…Trước mắt tôi một miền Nam sinh động/ Đất nước con người dân chủ tự do/ Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô…”.
Câu hỏi đặt ra, Nếu bất kỳ ai trong số dân miền Nam mà sống trong lòng miền Bắc, được giáo dục như bao thế hệ người miền Bắc từ 1954 trở về sau này, liệu có khá hơn, hoặc khác hơn họ không? Tôi không dám chắc.

Nói về đói khổ ở miền Bắc những năm tháng đó, thì có lẽ chỉ cần lấy 2 ví dụ. Người phụ nữ tới kỳ kinh nguyệt, nếu không dùng giẻ rách từ quần áo cũ để thấm máu, thì sẽ dùng tro bếp gói vào trong miếng vải cũng từ đồ cũ, đóng làm khố cho qua những ngày khổ sở. Lương thực cũng thiếu đến nỗi, để ghìm khẩu vị lại, có nơi, người dân phải hấp vào nồi cơm một loại lá đắng, đắng không thể ăn thêm bát thứ 2. Câu chuyện thứ nhất, bà tôi kể. câu chuyện thứ 2 từ hồi ức của Lê Minh Hà trong tập Những triền xưa ai đi. Cuộc sống bần hàn như vậy, dễ hiểu rằng, những tiện nghi tối thiểu mang dấu ấn hiện đại không xuất hiện ở xã hội miền Bắc, trong hầu hết gia đình. Ai rất giàu mới có chiếc đài Orionton, mà mấy bác hàng xóm nhà tôi đọc là Ô ri ông tông. Xe đạp thì phải gắn biển số. Đó gần như là những thứ vật chất giá trị nhất. Huống hồ những thứ “xa xỉ” mang tính tiểu tư sản như phin pha cà phê hay áo ngực, quần lót cho phụ nữ.
Về văn hóa giáo dục thì sao?

“ Nhìn qua phương Tây, bên ấy có xu hướng đặc tả lớp trẻ nhỏ và thanh thiếu niên là nạn nhân, những khổ đau mà các em phải nhận lãnh trong chính trị và xung đột quân sự là oan uổng vì trẻ thơ tượng trưng cho những gì thuần khiết và trong trắng. Thế nhưng những diễn ngôn bên phe xã hội chủ nghĩa thời Chiến tranh Lạnh thường biến hình ảnh thanh thiếu niên và thiếu nhi, cũng như nhi đồng “trở thành những chiến binh cách mạng gắn liền với lập trường chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp ” (“Making Two Vietnams” by Olga Dror. ‘Việt Nam Nước Chia Hai Đàng’ trang 15 - Le Tung Chau dịch).
Nhận xét đó là xác đáng, với thiếu nhi của tất cả các nước XHCN nói chung và thiếu nhi Bắc Việt nói riêng. Ở đây, xin nhắc riêng về thiếu nhi và người dân Bắc Việt.

Trẻ em từ 6-9 tuổi nằm trong Đội Nhi đồng. Từ 9-15 tuổi trong Đội thiếu niên. Không phải đứa trẻ nào cũng dễ dàng được vào Đội Thiếu niên. Vì thế, bọn trẻ bằng mọi cách phải cố gắng hết sức của mình để được đeo khăn quàng đỏ, dấu hiệu nhận biết những cá nhân có tinh thần phấn đấu triệt để. Là một tổ chức nằm trong hệ thống chính trị nên Đội được giám sát bởi Đoàn Thanh niên (Ban đầu là Đoàn Thanh niên Lao Động, sau đổi thành Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM), và Đoàn lại được sự kiểm soát, dẫn dắt sát sao của tổ chức đảng (Ban đầu cũng là đảng Lao động, sau đổi thành Đảng Cộng sản đúng với bản chất). Một người từ ấu thơ đến trưởng thành, một mặt bị giám sát bởi tầng tầng lớp lớp tổ chức, bị chính trị hóa, mặt khác lại phấn đấu trở thành thành viên của nó, coi đó là tiêu chí chứng minh mình ưu tú hơn thành phần còn lại. Đó là cả một hành trình gian khổ, khắc kỷ, loại bỏ tối đa những yếu tố cá nhân, để chỉ còn là một sản phẩm hoàn hảo của định hướng, nghĩ chung một dòng, nói chung một giọng. Cuộc đời trở thành những cuộc thi đua không có điểm dừng. Thi đua “Làng sạch đồng xanh”, thi đua làm “Kế hoạch nhỏ”, “Ngàn việc tốt”, thi đua chào mừng sinh nhật bác "Em yêu bác Hồ Chí Minh", sinh nhật đảng "Ngàn hoa việc tốt dâng Đảng quang vinh", thể hiện tình đoàn kết với miền Nam: "Em sẽ về thăm miền Nam Tổ quốc thành đồng yêu dấu", hoặc bày tỏ tình cảm với các lực lượng vũ trang: "Em yêu anh bộ đội". Bao quát tất cả là phong trào thi đua ‘Thực hiện 5 điều bác Hồ dạy”. Danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ là “chứng chỉ” sát hạch phẩm chất chính trị của các công dân tí hon. Và như thế, khái niệm ngoan, đồng nghĩa với sự vâng lời, tuân phục và sùng tín. Ở các lứa tuổi trưởng thành, vẫn là phong trào thi đua. Thanh niên “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, phụ nữ “Ba đảm đang”, “Giỏi việc nước đảm việc nhà”, Trí thức “Ba quyết tâm”, Quân đội “Ba Nhất” “Thi đua Quyết thắng”, Giáo dục “Hai tốt”, Nông nghiệp: “Gió Duyên Hải”, Tiểu thủ công nghiệp: “Gió Đại Phong”… Thi đua trở thành một thứ tiêu chí để đánh giá thứ hạng công dân, buộc họ phải vắt kiệt sức phấn đấu để thể hiện lòng trung thành và nhiệt tình cách mạng.

Chương trình giáo dục các môn xã hội gần như trùng khớp với quan điểm xuất bản văn hóa. Các ấn phẩm thơ ca nhạc họa dành cho thiếu nhi nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung, cùng nhằm tới những mục tiêu: Giáo dục lòng yêu chế độ đồng nghĩa lòng yêu nước, lòng căm thù giặc Mỹ và tay sai, tinh thần đấu tranh giai cấp và cách mạng triệt để, lòng sùng bái lãnh tụ… Để đạt mục tiêu giáo dục, thậm chí, người ta không ngần ngại ngụy tạo những nhân vật anh hùng như Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Bé, cô du kích Nguyễn Thị Kim Lai… Mọi công dân không có khái niệm bi quan nản lòng và mơ hồ dao động, hoặc ít nhất, không được tỏ ra như vậy, nếu không muốn gặp rắc rối, bị bêu riếu, xa lánh, kỳ thị, bị triệt đường học hành, làm ăn, sinh sống, bị dồn vào đường cùng. Trên thực tế, số người bi quan, dao động rất ít, thuộc về những người có học hành, hiểu biết hơn số đông còn lại.
Để đến với người đọc, tất cả sách báo đều được kiểm duyệt qua rất nhiều khâu từ bản thảo tới in ấn, xuất bản. Đường lối và phương châm giáo dục này hằn sâu trong trí não từ trẻ thơ tới khi trưởng thành, định hình nếp tư duy một chiều, định hướng, triệt tiêu phản biện, tin tưởng tuyệt đối vào những gì đã được giáo dục, dạy dỗ, tin vào số đông, bất kỳ ai sống khác, nghĩ khác là bị liệt vào thành phần bất hảo, cần phải giáo dục lại.

Từ đời sống thường nhật tới thông tin, văn hóa đều bị bưng bít. Đồng nghĩa với việc người miền Bắc nói chung và người lính Bắc Việt nói riêng, trở nên tức cười trong mắt những người anh em bên kia vĩ tuyến, những người nếu không phải đều được thụ hưởng cuộc sống văn minh Tây phương, cả về vật chất lẫn tinh thần, thì cũng không tới nỗi xa lạ với nó.

Người miền Bắc thành thực tin rằng đồng bào miền Nam đói khổ ngày đêm bị rên xiết dưới gót giày Mỹ ngụy, thành thực tin rằng, bằng máu xương của mình, sẽ giải phóng đồng bào, những người cùng dòng máu Lạc Hồng khỏi kẻ ngoại bang, sẽ xây dựng một đất nước Việt Nam thống nhất, độc lập tự do.

Vì thế, bao nhiêu lá đơn tình nguyện nhập ngũ viết bằng máu. Bao nhiêu chàng trai còi cọc chưa trổ ria mép đã thủ trong túi quần mấy kg gạch đá vào túi quần để đủ cân nặng ra chiến trường.
Vì thế, bao nhiêu cô gái buộc gọn mái tóc dài, xung phong tới nơi bom đạn, để lại những Rừng Cười con gái đầy ám ảnh, để ngày trở về, trễ muộn, nhan sắc tàn phai, chỉ tuổi tác là dày thêm mãi, tuổi già cô độc không chồng, không con, trên mình mang đủ loại tật bệnh. Bao nhiêu máu xương trải dọc Trường Sơn? Bao nhiêu trai gái độ tuổi yêu đương nằm xuống khi chưa từng có một nụ hôn, chưa từng cầm tay người khác giới?
Vì thế, giấy báo tử bay đầy mái rạ, mẹ vẫn tiễn chồng rồi tới con đi. Có ai mong làm Mẹ Việt Nam anh hùng.

Ngược lại, ở miền Nam, với không khí học thuật cởi mở, đề cao dân tộc tính, đề cao tinh thần dân tộc, giáo dục lòng tự hào về dòng dõi con Lạc cháu Hồng, tình yêu quê hương bản quán, thông qua những bài dạy luân lý nhẹ nhàng, kết hợp hài hòa các nội dung văn hóa dân tộc, văn minh Tây phương và luân lý Khổng Nho, không giáo dục lòng căm thù, không có thần tượng chính trị, được gia đình, nhà trường và xã hội bảo bọc, che chắn “dựng một chốn trú ngụ an toàn giữa hai lằn đạn” để sống hồn nhiên, phát huy tối đa những phẩm chất ưu tú, cống hiến cho Quốc gia và thành nhân, thành danh ở vào khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ thành nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, thành sĩ quan, thành lính trận, thành những nhà quản trị quốc gia, đồng thời họ có thể lặn ngụp trong phong trào hippie với triết học hiện sinh thời thượng từ nước Mỹ xâm nhập để đi tìm bản ngã. Đó là nền văn hóa giáo dục Dân tộc- Nhân bản- Khai phóng. Bên cạnh khơi gợi lòng tự hào về bản thân, quê hương, dân tộc, họ còn được thực hành đức tính khiêm nhu, lễ độ. Điều đó càng khiến cho miền Nam nhìn người bộ đội từ rừng tràn xuống như những kẻ đói khổ, quê mùa, dốt nát và hợm hĩnh, và hố sâu ý thức hệ càng lúc càng sâu rộng mãi thêm ra khi “cách mạng” tiếp quản miền Nam, và giam cầm quân dân cán chính VNCH trong những trại cải tạo...

So sánh về văn hóa- giáo dục giữa hai miền như thế, để lý giải phần nào nguyên nhân sự hồn nhiên, ngô nghê và cả tâm thế phức hợp, đan xen giữa thái độ ngạo mạn của bên thắng cuộc lẫn mặc cảm thua kém về văn hóa và vật chất trước kẻ chiến bại.

Tôi không dám hi vọng thế hệ từng đổ máu trong chiến tranh, những người bị ly tán gia đình, mất thân nhân sau 1975, những người phải rời bỏ quê hương xứ sở để tìm đường sống có thể quên đi thù hận. Tôi không dám hi vọng lớp người đi trước có cái nhìn thay đổi về đối phương, cho dù, tôi chứng kiến một số tình bạn đẹp khác chiến tuyến. Nhưng, tôi ao ước rằng, thế hệ tôi, thế hệ con cháu tôi hãy hiểu và nhìn nhau bằng cái nhìn nhân ái. Cả từ hai phía. Dù là con em bên này hay bên kia, thì cùng sống trên dải đất này, từ khi thống nhất, chúng ta đều cùng chung một nền giáo dục, chung một vòm trời. Chúng ta, vô tình hay hữu ý, vẫn được giáo dục để nuôi nấng lòng căm thù. Nhưng lòng căm thù có giúp quốc thái dân an không? Không. Có thay đổi được xã hội không? Không. Lịch sử không thể nào thay đổi, nhưng tương lai có thể thay đổi. Chỉ có thể viết một chương mới bằng tấm lòng nhân văn, nhân ái, nếu không, sẽ mãi là “Một nỗi buồn mênh mông sâu thẳm cho phận dân mệnh nước mình”, như lời một người bạn tôi.

(Bài viết có tham khảo tư liệu trong cuốn “Making Two Vietnams” by Olga Dror. Việt Nam Nước Chia Hai Đàng - Le Tung Chau dịch).
Hình chôm từ Internet


Đúng là bây giờ ra đường ớn chè đậu quá. Nhiều người ủ bệnh, người đã phát hiện bệnh vẫn vô tư trốn cách ly, vô tư đi ăn, đi chơi, tiếp xúc bao người. Con virus nhỏ hơn hạt bụi, lửng lơ, lượn lờ không ai thấy. Biết đâu mà tránh. Hên xui. Xã hội lắm kẻ thiếu ý thức, lắm người ích kỷ chỉ biết cho mình mà quên mất những người chung quanh. Họ gieo rắc tai hoạ cho biết bao người. Thôi thì sáng ráng ăn miếng khoai lang hay cái bánh ngọt, trưa nấu gói mì chờ tối con về nấu cho miếng cơm ăn. Chấm dứt lang thang lê la hàng quán, chấm dứt tà tà đi dưới mấy hàng cây mà ngẫm nghĩ sự đời, chấm dứt lượn lờ nhà sách kiếm ba con chữ, chấm dứt qua mấy cây cầu đứng ngó mây bay, chấm dứt những bữa lùng sục mấy món đồ ưa thích đem về chất đầy nhà, chấm dứt buổi sáng ngồi ăn điểm tâm với món ưa thích mở đầu cho một ngày vui, chấm dứt gặp bạn, chấm dứt kết bè, thôi đành vậy.

Giờ như con cá ươn sình, suốt ngày đi lên đi xuống, đi ra đi vào. Hết nghe nhạc lại xem phim. Hết đọc sách lại vọc ipad. Già rồi, đọc nhiều lại lồi con mắt. Xong lại nằm ườn ra mỏi cả người. Nằm ngửa, nằm nghiêng, nằm sấp, xương cốt mềm nhũn ra. Leo lên xe tập đạp được vài chục vòng lại mỏi. Phẩy tay vài trăm cái cũng không hết giờ. Ra balcon nhìn xuống, đường cũng vắng người đi. Cho hơn chục chiếc xe nổ máy, sân toàn mùi xăng khó ngửi, tưới mấy chậu hoa, mấy giò lan ướt sũng. Chọc mấy con chó sủa, nhìn mấy con cá lội trong hồ, lên giây mấy cái đồng hồ đau cả tay, cũng chẳng thấy hết bao nhiêu thời gian. Buồn miệng thì đốt thuốc, thuốc lá có hại cho sức khoẻ kkk. Suốt một ngày không biết nói chuyện với ai, chẳng lẽ độc thoại như người điên. Đúng là rồi chẳng biết làm chi cho hết một ngày. Thèm một bát phở nóng buổi sáng, thèm được xách va li làm một chuyến đi, thèm được đưa máy lên chụp cỏ cây, hoa lá, biển trời, thèm được ngồi tụm năm tụm ba nói cười sảng khoái, thèm được bắt tay nhau, mồi cối thuốc nhìn khói bay trong quán vắng với tiếng nhạc nhè nhẹ, thèm rú ga chạy dưới gió trên những con phố Sài Gòn...Thèm đủ thứ mà một ngày bình thường thấy chỉ là chuyện bình thường. Nhiều người bảo nhân dịp này nên sống chậm lại. He..he tui sống chậm mấy năm rồi, cần chi phải tập sống chậm. Nợ mấy chục cái bìa sách, nợ người mấy bức tranh mà không làm được. Đúng là có thời gian rảnh rỗi nhưng lòng bất an thì cũng chẳng hứng thú để làm được việc gì. Con virus bé tí tì ti mà làm cuộc sống đảo lộn cả. Cả thế giới lộn tùng phèo chứ có phải mình ta đâu!
27.3.2020
DODUYNGOC




Cuối tuần lại không đi đâu được, nằm nhà nghe dĩa nhạc của ca sĩ Thái Thanh. Dĩa này được thực hiện năm 1985, khi Bà vừa mới định cư ở Mỹ và đã hơn 50 tuổi. Hoà âm, phối khí khác hơn thời trước 1975. Vẫn là chất giọng của Thái Thanh của thời cũ, không thay đổi.


Sau khi tôi viết bài: "THÁI THANH: TIẾNG HÁT KHÔNG NGƯỜI THAY THẾ." có người hỏi tôi sao không đi sâu vào phân tích giọng ca Thái Thanh để thế hệ sau 1975 hiểu thêm tiếng hát này. Xin thú thật đây là một bài viết theo đặt hàng của một tờ báo, do vậy không thể viết dài vì khuôn khổ cố định của một bài.

Bây giờ viết tiếp đây, có thể nói rất ngắn gọn thế này:

Từ trước đến nay, trong hàng ngũ ca sĩ Việt Nam, Thái Thanh là một trong rất ít ca sĩ hát tròn vành rõ chữ và chuẩn tiếng Việt nhất. Hãy nghe Bà cất tiếng đi, chúng ta sẽ nghe được một giọng chuẩn Việt, chữ nào ra chữ nấy, một giọng Việt rất đẹp. Bây giờ sân khấu Việt lắm ca sĩ nhưng nhiều người hát như người ngoại quốc nói tiếng Việt, kẻ thì gào rú như ma gào quỷ khóc, người thì sướt mướt uốn éo như kẻ biến thái...

Thứ nữa là nghệ thuật luyến láy của Bà, gần với lối luyến láy của Quan họ, Chầu Văn, Chèo của âm nhạc dân gian Bắc Bộ, cũng là tinh hoa, vốn quý của âm nhạc Việt Nam. Hãy nghe thử bài Kỷ vật cho em, chữ "hỏi" trong bài hát đã được Bà diễn tả biết bao tâm trạng, đau xót, dằn vặt, yêu thương, trách móc...chỉ cần giọng hát của bà nói lên hết chỉ trong một từ.

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime,
Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã,
Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa,
Anh trở về trên chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng.

Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!

Đã có biết bao người hát bài Tình ca của Phạm Duy, thế nhưng khi Bà cất lên tiếng hát:

"Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời.
À à ơi! Tiếng ru muôn đời.

Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui .
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi.
Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!"

Lòng ta nghe xao xuyến, xúc cảm và thấy tự hào, yêu thương về đất nước, về tiếng nói của mình. Đó chính là sức mạnh của âm nhạc, của văn học nghệ thuật. Giọng ca của Bà đã truyền sức sống thêm cho một dân tộc đã phải trải qua nhiều đau khổ, chia ly, tan tác vì chiến tranh.

Khi Bà hát Ngày xưa Hoàng thị, sao nghe mà tình tứ, mà ngọt ngào đến thế! Ở bài này, luyến láy của Bà rất điệu đà, nữ tính dù bài hát nói về một anh chàng si tình đi theo gót chân người đẹp.

Rồi Nửa hồn thương đau, Trả lại em yêu... Bà nức nở, khổ đau bằng giọng hát của mình truyền qua người nghe và thính giả nức nở cùng Bà.

Đến Bà mẹ Gio Linh:
"Mẹ già cuốc đất trồng khoai
Nuôi con đánh giặc đêm ngày
Cho dù áo rách sờn vai
Cơm ăn bát vơi bát đầy
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con giết nhiều Tây
Ra công sới vun cầy cấy
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Con vui ra đi, sớm tối vác súng về
Mẹ già một con yêu nước có kém chi
Đêm nghe xa xa có tiếng súng lắng về
Mẹ nguyện cầu cho con sống rất say mê.
Mẹ già tưới nước trồng rau
Nghe tin xóm làng kêu gào
Quân thù đã bắt được con
Đem ra giữa chợ cắt đầu
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Nghẹn ngào không nói một câu
Mang khăn gói đi lấy đầu
Đường về thôn xóm buồn teo
Xa xa tiếng chuông chùa gieo
Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò!
Tay nâng nâng lên, rưng rức nước mắt đầy
Mẹ nhìn đầu con, tóc trắng phất phơ bay
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu cờ
Nụ cười hồn nhiên, đôi mắt ngó trông ta.

Có lẽ không ai diễn tả tâm trạng của bà mẹ "Mang khăn đi lấy đầu" đau xót như giọng ca của Bà. Một bà mẹ mang khăn đi lấy đầu của đứa con trai mình bị giặc chặt đầu phơi thây, môi thắm máu cờ. Nỗi đau của bà mẹ trong đoạn này được ca sĩ Thái Thanh bộc lộ hết tâm trạng nhân vật gây nhiều cảm xúc.

Một bài hát nữa, cũng theo tôi không ai hát hay, diễn tả được như bà là bài Quan Thế Âm, tôi cũng không hiểu sao bài này rất ít người biết dù lời ca tiếng nhạc và ý nghĩa của bài này rất sâu xa, lắng đọng và rất xúc động. Hình ảnh trong bài cũng quá là đẹp và sâu sắc mang tính triết lý Phật giáo:

"Có bà mẹ đi tìm con trên đỉnh đồi lan trắng
Có bà mẹ đi tìm con trong động hang lan vàng
Có bà mẹ đi tìm con bên bờ sông Lam tím
Có bà mẹ đi tìm con trong thung lũng cỏ hoang.
Trên đỉnh mùa Xuân, mẹ ta thương cả rừng hoa lá
Trong mùa Hạ, bên bờ lau, Mẹ yêu tiếng ve rầu rầu
Thu về nằm trong bụi cây, nhớ mây trời xanh ngát
Nuôi một đàn chim mồ côi, khi Đông tuyết lạnh rơi.

Bốn mùa hoa đua nở, bốn mùa Mẹ lang thang
Tìm con, lòa đôi mắt, gọi con, lời đã khan
Khóc con, lệ đã cạn, thương con, lòng vắng hoang
Nhớ con, sầu đã ngất, đợi con, hồn đã tan.
Tay Mẹ đang quờ quạng, như một cành khô khan
Nhớ con tìm khắp chốn, rời rã cả thời gian
Khi còn là thiếu phụ, thơm như nhành ngọc lan
Đến nay, già tóc trắng, tìm con đà mấy trăng.

Thế rồi, một hôm Mẹ chết, hơi Mẹ trong trời chưa hết
Ôm cả trần gian đầy vơi, nhân loại đeo tang người
Tim Mẹ thành ra trùng dương, máu Mẹ thành sông thành nước
Ôi đời trầm luân, Mẹ thương, chiếu ánh sáng từ quang.
Bây giờ Mẹ đã thành mơ, hơi Mẹ hoá thành hơi gió
Bốn mùa ngồi nghe mọi nơi, tiếng Mẹ ru bồi hồi
Xưa là Mẹ đi tìm con, tiếng Mẹ ru buồn khắp chốn
Bây giờ hiện thân Mẹ chung, tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng
Tiếng Mẹ hát ru dịu dàng."

Ca sĩ Thái Thanh khi diễn tả bài này, giọng ca thanh thoát, nhẹ nhàng, đau đớn nhưng không khốn khổ. Nghe như nhạc Thiền, bao nhiêu sân hận như tạm bay đi.

Kết lại, như tôi đã viết, đó là giọng ca khó ai thay thế được. Ca sĩ Ánh Tuyết sau này cũng là giọng ca hay, âm vực cao cũng thường hát những bài Thái Thanh từng đã hát nhưng giọng không đẹp bằng, phát âm cũng chưa rõ bằng và đặc biệt cũng không diễn tả được cái hồn bài hát như giọng ca vượt thời gian Thái Thanh. Dù đã lâu rồi, ca sĩ Thái Thanh vì tuổi già bệnh tật nên không còn cất tiếng hát nữa, nhưng sự ra đi của bà để lại bao nhiêu tiếc nuối. Giọng ca Thái Thanh với những bài ca Bà đã hát là những kỷ niệm khó mà quên được của nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Những kỷ niệm của một thời.
20.3.2020
DODUYNGOC

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget