Latest Post































Cho đến hôm nay, từ khi cơn đại dịch bùng phát mạnh ở Sài Gòn và một số tỉnh phía Nam, người ta ước tính có khoảng gần triệu người đã rời bỏ Sài Gòn, Bình Dương, Đồng Nai, Long An để trở về quê. Họ từ Cao Bằng, Lạng Sơn cho đến Bạc Liêu, Cà Mau. Nghĩa là từ muôn phương tụ lại và rồi quay đầu về cố hương trong cơn đại dịch. Họ đến với đôi tay trắng, mong có một cuộc sống khá hơn nhưng rồi trở về cũng trắng đôi bàn tay. Có người đã đến hơn chục năm, lấy vợ, sinh con đẻ cái ở đất này. Nhưng cũng có người vừa đến chưa đầy đôi ba tháng. Họ có nhiều hoàn cảnh nhưng cùng giống nhau ở một điểm là trải qua cơn dịch, họ không còn phương tiện sống, không còn công việc để kiếm cơm, không còn lối thoát và chọn giải pháp cuối cùng là trở về. Có người về trên chiếc xe gắn máy chở cả gia đình vợ chồng con cái với chút gia sản ít ỏi cột theo xe. Cũng có người trở về với chiếc xe đạp  với con đường diệu vợi hàng trăm, hàng ngàn cây số. Cũng có người trở về bằng đôi chân trần, lếch thếch trên con đường cái quan với hành trang chỉ là chiếc ba lô nhỏ. Cũng có ba cha con trở về bằng chiếc xe kéo tự chế, con ngồi, cha kéo như một trò chơi để mong về mảnh đất còn xa hơn trăm cây số. Cũng có gia đình ba thế hệ cùng đi bộ về, bước chân không còn vững nhưng cố gắng rời rạc bước khi cơn giông và bầu trời đen kịt kéo về báo hiệu cơn mưa lớn. Trong đoàn người về quê tối 6.10, tại chốt kiểm soát của thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, đoạn giáp ranh với địa phận tỉnh Long An. Trạm CSGT thị trấn Tân Túc phát hiện bà Trần Thị Ớt 76 tuổi đi bộ đẩy chiếc xe nôi từ thành phố về Thoại Sơn, An Giang vì chồng tai biến trở nặng. Hình ảnh cụ bà lưng đã còng, chậm rãi đẩy chiếc xe chất đầy đồ đạc đi hàng trăm cây số khiến ai nhìn thấy cũng lặng người.

Tất cả đều chung hoàn cảnh là trong túi chẳng còn bao nhiêu tiền nữa. Bởi nếu còn khá tiền, họ sẽ cố ở lại để đợi chờ cơn dịch đi qua. Cả đoàn người về miền Trung, miền Bắc đi trong cơn mưa, những đôi mắt trẻ thơ ngơ ngác, những đôi mắt người lớn mệt mỏi, u buồn. Những chiếc áo mưa mỏng manh không che được cơn mưa lớn, tất cả ướt sũng vì nước mưa và khuôn mặt họ đầy nước mắt. Họ được dân địa phương tặng cho chén súp, chén cháo nóng giữa đêm, họ được chăm sóc như người thân và họ khóc vì cảm động. 

Cặp vợ chồng chở nhau trên chiếc xe đạp, người vợ mang bầu đã đến tháng thứ tám, chỉ còn 100.000 đồng cho cuộc hành trình. Cả gia đình hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ sau khi trả những đồng tiền cuối cùng của mình cho việc xét nghiệm kiếm cái giấy đi đường chỉ còn lại 50.000 đồng. Cặp vợ chồng trẻ đi bộ về quê khi chẳng còn một đồng trong túi sau hai tháng ở gầm cầu vì bị đuổi ra khỏi nhà trọ do không còn tiền để đóng, người vợ đang mang thai, mấy hôm đi bộ nhiều nên có lẽ động thai, ra huyết. Chị mong đi đến được nhà cô chị để nhận được 200.000 đồng như lời hứa của cô chị, đi khám thai rồi tiếp tục đi bộ trên con đường quy hương. Không biết cặp vợ chồng trẻ này bao giờ mới được về nhà. Xem clip mà nước mắt cứ trào ra thương biết bao thân phận, thương quá cho nỗi đau, nỗi khổ của đồng bào mình. Cũng may trên con đường trở về, họ đã được nhiều người dân đùm bọc, giúp đỡ. Chỉ có dân giúp dân, lá lành đùm lá rách và cũng có cảnh lá rách đùm lá nát. Cặp vợ chồng đi xe đạp nhận 5 triệu đồng của một người qua đường mà cứ ngỡ trong mơ. Cặp vợ chồng trẻ được anh Khương Dừa trao tặng 5 triệu đồng với lời nhắn nhủ phải đi khám thai rồi tính gì thì tính. Cô gái mừng rơi nước mắt, khóc vì cảm xúc, khóc vì được giúp trong bế tắc và có lẽ cũng là giọt nước mắt tri ân vì đời vẫn còn người tốt. 

Cuộc trở về không chỉ có giọt nước mắt mừng vì được có người giúp miếng ăn, chai nước, ít tiền hay phương tiện để đi được thêm một chặng đường. Mà còn những giọt nước mắt nghẹn ngào đau xót trước cơn hấp hối của con như nước mắt của người mẹ trên đỉnh đèo Hải Vân trong đêm mưa khi thấy con mình đã gần như ngưng thở vì đói, rét và gió gụi đường trường. "Trong tiếng động cơ khởi động ồn ào, một bà mẹ bất ngờ khóc thét khiến cả đoàn xe máy sắp xuất phát phải dừng lại. Đứa trẻ đã ngất xỉu trong lớp áo mưa. Bà mẹ trẻ bồng con sơ sinh lao thẳng về phía có các tình nguyện viên, cầu cứu.

Nhanh chóng bế đứa nhỏ khỏi vòng tay mẹ, một tình nguyện viên cũng là y tá của bệnh viện ôm đứa nhỏ chạy vào một quán nước trên đỉnh đèo. Các y tá, bác sĩ khẩn cấp sơ cứu.

Qua kiểm tra, nhóm tình nguyện nhận định cháu bé ngất xỉu do tụt đường huyết vì quá đói và mệt sau chặng đường dài. 

Người mẹ quê tỉnh Nghệ An khóc kể lại rằng, trên đường đi cháu bé nôn ói, không ăn được gì. Khi đến đỉnh đèo Hải Vân thì hết nôn ói, chị mở chiếc áo mưa ra xem thì đứa trẻ đã lịm…"(trích báo)

Tiếng kêu "cứu con tôi với" đầy nước mắt vang lên trong cảnh nhộn nhạo của cuộc di tản chứa nỗi tuyệt vọng và bi thương. Cũng may đứa bé được cứu sống kịp thời, nếu không cuộc trở về sẽ là cơn ác mộng theo mãi người mẹ trẻ. Nhưng cũng có người đã phải chết trước khi về được ngôi nhà, làng xóm thân yêu của mình. Hai mẹ con chết vì bị tai nạn giao thông khi vừa đến Quảng Nam. Một cặp vợ chồng bị xe cán khi đã đến ranh giới quê nhà. Người chồng chết ngay dưới bánh xe tải và người vợ đang thập tử nhất sinh trong bệnh viện. Và còn nhiều trường hợp nữa phải dừng lại giữa đường không được về với quê hương. Cuộc trở về không chỉ có nước mắt mà còn có cả máu, còn có cả sinh mạng của một số người. Nỗi đau này ai là người chịu trách nhiệm? Nếu đủ điều kiện để ở lại, chắc họ sẽ không làm cuộc phiêu lưu đầy giông bão để trở về. Và chắc họ sẽ không phải chết.

Vượt bao nhiêu khó khăn để trở về quê, có người phải bỏ mình trên con đường về. Nhưng buồn thay, họ lại bị lãnh đạo quê nhà từ chối. Ngay từ đầu khi có dịch ở trên thế giới, chính phủ đã thực hiện nhiều chuyến bay để chở những người con xa xứ ở Châu Âu, ở Nhật Bản, ở Ấn Độ trở về. Thế sao những người lao động nghèo ở trong nước lại không được trở về quê như họ mong ước. Họ bị rào kẽm gai, chốt chận chặn lại. Họ rớt nước mắt trong mưa, họ hò hét đến khản cổ, họ thắp nhang quỳ lạy giữa lộ. Rồi họ được về, nhưng lãnh đạo địa phương không muốn nhận. Họ lo giữ cái ghế của mình hơn là nỗi đau của đồng bào. Những người trở về không chỉ có nước mắt, máu mà còn có buồn tủi. Buồn vì họ trở thành kẻ xa lạ trên quê nhà của mình. Tủi vì họ không được chấp nhận. Khi người anh không nhận đứa em trong cơn nguy khốn của mình trở về thì là bất nghĩa. Khi lãnh đạo không nhận đồng bào của mình trong lúc khó khăn thì gọi là bất nhân. Làm lãnh đạo, làm con người mà bất nghĩa, bất nhân thì làm sao tạo được lòng tin. Lãnh đạo bất nhân, bất lực, bất tài chỉ khiến cho dân đã khổ càng thêm khổ. Dân buồn, dân tủi vì lãnh đạo quê nhà từ chối họ, họ trở thành người lạ ngay trên chính quê hương mình.

Trở về vì không còn chút gì trong tay để sống. Trở về với cái túi đã cạn sau bốn tháng không được làm việc. Trở về vì bế tắc không còn đường thoát. Thế mà lãnh đạo địa phương bắt phải trả tiền cho những xét nghiệm, trả phí cách ly một ngày 80.000 tiền ăn và 40.000 chi phí khác. Tiền đâu dân đóng? Các ông đang nghĩ gì vậy? Nếu còn tiền họ đâu có nghĩ đến chuyện trở về để làm phiền các ông? Các ông tàn nhẫn quá, bóp cổ, vét hết túi tiền của dân chăng? Xét theo luật, xét nghiệm và chữa trị cho người nhiễm virus là miễn phí, sao các ông lại tính chuyện bóp cổ dân nghèo? Bòn rút đến nước ấy thì tệ quá.

Những cuộc trở về với máu nước mắt và buồn tủi như thế vẫn đang diễn ra hàng ngày trên đất nước này. Bao giờ mới chấm dứt những cuộc di tản đau buồn đó. Và biết đến bao giờ dân nghèo mới bớt khổ đau? Thương quá đồng bào tôi ơi!

7.10.2021

DODUYNGOC































Cách đây gần 18 tháng, khi đó Sài Gòn lần đầu tiên giãn cách xã hội mấy chục ngày, trên mạng có câu hỏi như là một trò chơi KHI NÀO HẾT DỊCH, BẠN SẼ LÀM GÌ? Lúc đó tui có một bài viết về mấy quán ăn và món ăn ở thành phố này mà tui dự trù sẽ ghé đến khi hết dịch. Con mắt lớn hơn cái bụng, thèm mà ăn chẳng được bao nhiêu. Có nhiều bạn lại bảo mấy quán đó giá hơi cao. Ừ thì cao một tý mà ngon là được, ráng chút đi cưng! Nhiều bạn xin địa chỉ khi nào có dịp sẽ ghé thử.

Rồi đến cơn đại dịch cuốn qua thành phố, 4 tháng cách ly, 120 ngày giãn cách rồi phong toả. Lại thêm lắm thứ để thèm. Nằm nhà, đi ra đi vào, đi lên đi xuống. Người bệnh nhiều quá, người chết cũng nhiều quá. Sài gòn bi thương, Sài Gòn xác xơ. 120 ngày tù hãm với những thứ thèm. Thèm được tụ hội với bạn bè, thèm được rú xe chạy trong gió, thèm được ngồi góc phố nào đó nhìn ngắm nhan sắc Sài Gòn, thèm được đi trên phố, đốt một điếu thuốc và nhớ lắm chuyện, thèm được hoà trong dòng xe hối hả buổi chiều trở về sau một ngày bận rộn, thèm được cùng chiếc xe đạp nhởn nhơ chạy quanh bờ kinh mỗi chiều, thèm được nhìn thấy nhịp sống Sài Gòn rộn rã ngày cũng như đêm. Và nhớ nhất là những món ăn, nhớ những hàng quán tới lui đã nửa thế kỷ nay từ ngày đặt chân vào mảnh đất này. Đã đến tuổi cổ lai hy mà còn thèm ăn, nhiều người sẽ bảo  miếng ăn là miếng nhục. Sẽ có người bảo thèm chi không thèm, già rồi lại thèm ăn. Ấy dà! Người ta nói ăn là đầu tiên của tứ khoái mà, chính vì già mới thèm ăn dù ăn chẳng được bao nhiêu. Chứ ngoài ra còn làm được gì, cái nhị khoái với tứ khoái thì ai còn sống cũng phải làm. Còn anh tam khoái thì tuổi tác không cho phép nữa, cho nên quanh đi quẩn lại cũng chỉ thèm ăn thôi. 120 ngày ăn cơm nhà mà không phải cơm mẹ hay vợ nấu, nhớ những món ăn của những hôm cơm hàng cháo chợ, nhớ không khí của tiệm ăn, nhớ cái mùi của quán. Lần này cũng như mọi lần tui chỉ nói đến ăn mà không chơi. Tiếng Việt hay nói ăn chơi. Tui không biết nhậu bia rượu, không khoái bia ôm, gái gú, không ưa karaoke được giải bàn tay vàng, không thích cắt tóc ngoáy tai với mấy cô thanh nữ, cũng không uống cà phê. Nên không đụng đến cái khoản chơi, mấy cái thứ đó tui mù tịt.

Bốn tháng chẳng làm được việc, bốn tháng thất nghiệp, không thu nhập nên nhiều người trong đó có tui ngân quỹ không còn được như xưa nữa. Hơn nữa qua cơn đại dịch dạy cho tui bài học tích trữ, tiết kiệm, không nên tiêu hoang phòng khi hữu sự. Bởi thế cho nên tui định trong đầu qua mùa dịch sẽ chỉ ăn những món bình thường, vào những quán bình dân, kha khá một chút cũng duyệt. Khi nghèo thì chọn món ít tốn kém mà ăn thôi.

ĂN SÁNG.

Trước hết là ăn sáng. Phở là món chọn đầu bảng. Ừ thì Phở Dậu, làm sao mà không đến đó kêu một tô nạm gân gầu vè. Kèm chén tiết hột gà và chén tuỷ. Ái chà chà! Húp một muỗng đầu tiên sau chuỗi ngày thương nhớ. Nước phở trong, beo béo, là cốt tuỷ của những xương đùi lóc hết thịt hầm mấy chục tiếng đồng hồ. miếng gầu sần sật, miếng nạm bùi bùi, miếng vè dai dai, miếng gân ngầy ngậy, sợi phở như mảnh lụa trôi vào cuống họng. Thêm chút tương Bắc hoà với mấy lát hành tây trắng nuột. Sướng! Cái sướng của đời là được ăn thứ mình đang thèm, cái sướng của cuộc sống là ăn được thứ mình cho là ngon và nhìn chung quanh ai cũng đang thưởng thức cái ngon giống mình. Thế là sướng. Đôi khi đời giản thế thôi. Lại vui, được cười chào nhau vì hình như ở đây ai cũng quen mặt biết tên nhau.

Ừ thì Phở Minh, cái bát phở be bé hợp với người khảnh ăn như tui, nước phở hương vị là lạ chỉ có nơi quán này. Có cảm giác hơi chua, một tý thôi, ngẫm mới thấy, nước hơi đục một tý, cũng một tý thôi, nhưng ngon. Thịt cũng vừa ăn, nạm không xảm, gầu dòn bữa nào gặp hên sẽ có mấy miếng gầu có màu vàng gần như màu áo lụa vàng, ăn beo béo, ngầy ngậy mà không ớn, dai dai một chút trong miệng khiến cho bát phở thêm đậm chất phở. 

Phở Minh cũng giống phở Dậu ở chỗ hầm xương bằng củi chứ không dùng lò gaz. Xương hầm qua ba lửa, tức là hầm lần đầu tắt lửa, rồi lại đốt lửa hầm lần hai. Đến lần ba là nồi nước phở đã lấy hết cốt của xương. Mà không chỉ có phở, món ăn nấu bằng bếp củi lúc nào cũng ngon hơn, vị thơm hơn. Thịt, xương bò khi đúng lửa mới dậy mùi thơm của thịt. Hơn nhau chỗ biết canh lửa. Thịt ở Minh thơm do vậy. Đôi khi không phải cứ trang bị văn minh mà đã tốt. Bánh mì nướng bếp lửa cũng ngon hơn lò điện, lò gaz nhiều lắm.

Đặc biệt, Phở Minh không cho bất cứ một gia vị như quế, hồi, thảo quả, đinh hương, mà chỉ dùng  gừng và hành khô nên nước phở Minh có mùi vị khác những quán phở khác. Vừa ăn vừa nghe tiếng chuông của chiếc đồng hồ Odo xưa chậm rãi điểm mấy tiếng. Nhớ mấy câu thơ viết về phở ở trên tường của quán mà bụi thời gian đã xoá đi rồi.

"Nổi tiếng gần xa khắp thị thành

Trần Minh phở Bắc đã lừng danh

Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn

Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…"

Buổi sáng thế là đẹp chứ đòi chi hơn.

Nếu ngại xa thì chạy qua Phú Gia làm bát tái lăn. Quán này chỉ nên ăn tái lăn. Bát phở ở đây hơi lớn, lại cho nhiều hành, chỉ hợp anh trẻ nào cần sung. Nước phở cũng được chỉ có điều hơi nhiều bột ngọt. Thịt cũng vừa chín, được lăn qua trên chảo nên mềm, còn chất ngọt của thịt bò.

Phở Dậu khoảng 11:30 là hết, Phở Phú Gia dẹp sớm hơn một chút, Phở Minh đến sau 9:30 thì rú xe chạy luôn vì mấy cái tay chủ quán lắc lắc. Ngủ dậy trễ đành chạy ra Phở Lý Quốc Sư ở Đinh Tiên Hoàng. Đây cũng là phở Bắc, nhưng là Bắc sau 75. 

Phở bắt nguồn từ miền Bắc, nhưng theo tui, hiện nay ở xứ ta lại chia ra phở Hà Nội và Phở Sài Gòn. Phở Hà Nội đại diện cho phở Bắc là phở ô ri rin nấu theo khẩu vị của phở Bắc truyền thống. Có xương đùi bò, có thảo quả, đinh hương, quế hồi, gừng nướng và ngày trước có cả sá sùng. Phở Sài Gòn là phở lai, hầm đủ thứ xương, bớt gia vị và nhiều chỗ là nước luộc thịt và đôi chỗ có thêm đường phèn, củ cải cho ngọt nước. Phở Bắc ngọt xương, phở Sài Gòn hơi ngọt đường. Phở Bắc ngào ngạt mùi phở, phở Nam thơm mùi nước luộc thịt. Phở Bắc không rau không giá, không tương đen, không bò viên chỉ có nạm, gân, gầu, vè và có chỗ có thêm sách. Phở Sài Gòn đủ thứ hầm bà lằng. 

Mà phở Bắc lại chia thành hai nhóm nhỏ, nhóm vào Nam từ trước và đặc biệt là sau khi đi bằng tàu há mồm di cư vào Nam 1954 hương vị có khác với mấy quán phở vào sau 75 cũng như phở ở Hà Nội bây giờ. Nếu ai tinh ý sẽ nhận biết ngay. Phở Bắc của những quán sau 75 nặng bột ngọt, nước phở thiếu cái đằm, cái vị, cái mùi của xương hầm, thiếu cái béo của tuỷ. À mà xơi phở thì cũng nên có chút béo. Nhìn bát phở mà trong veo không chút váng mỡ giống ao thu lạnh lẽo nước trong veo thì cũng hơi thiếu thiếu.

Nếu kẹt quá, chạy ra khu Hà Đô vào quán Phố hàng Phở làm một bát cũng đỡ ghiền. Quán tinh tươm, bàn ghế, muỗng đũa sạch không chê. Phở ăn cũng được, kiểu phở Bắc sau 75. Đặc biệt bát phở nào cũng có miếng thịt hầm nhừ vuông vuông, nhai thật kỹ có mùi như thịt hộp, nhai thêm tý nữa lại dậy mùi patê. Quán trang trí phía mặt tiền như một ngõ ở Hà Nội, lại đặt tên Phố Hàng Phở. Nghe rặt Bắc Kỳ. Nhưng phở thì cũng đã thấy lai lai cái gout Nam, dù chưa nặng lắm.

Nếu ngán phở thì ta ăn hủ tiếu hay mì. Thế là phải chạy ra Tôn Thất Đạm ghé Nam Lợi. Ở đây có hủ tiếu, mì gà cá. Nhưng tui chỉ gọi mì hay hủ tiếu cá, không ăn gà vì gà ở đây nát quá không ngon. Ngon bậc nhất ở đây là nước lèo. Ngọt của đạm, ít bột ngọt. Lát cá cắt mỏng như giấy, nhiều khi lẫn với màu trắng của sợi hủ tiếu khiến người ăn khó thấy. Nước đục nhưng bỏ vào miệng cảm giác nó chạy xuống cổ họng, ngon, thật ngon dù giá hơi cao và tô hơi ít. Sức trẻ ăn hai tô còn thòm thèm. Tui chỉ ăn một tô, thiếu thiếu mới cảm thấy thèm, thấy nhớ để ghé ăn tiếp chứ. Đừng quên gọi dĩa bánh pate chaud. Bánh này ở đây ngon bá chấy con bọ chét. Nhìn cách ăn bánh, người ta có thể đoán khách là người từng ăn ở đây rất lâu rồi. Kiểu ăn đấy là cho bánh vào tô, bánh mềm lấy ra ăn chứ không cầm bánh ăn khô như thường tình. Cũng ngộ hỉ!

Chạy tới một đoạn nữa gặp quán bánh canh cua. Ngày xưa nó bán ở ngay Nam Lợi, mấy năm rồi dời về đấy. Cua tươi, nước ngọt, béo đúng chất bánh canh cua Nam bộ. Gọi thêm chai xá xị để nhớ lại một thời.

Còn có Hủ tiếu tôm cua Thanh Xuân. Đây là tiệm hủ tiếu một thời nổi tiếng khắp Sài Gòn. Cái bảng hiệu vẫn còn đó đã tróc sơn và ám bụi. Ông Tiến sĩ Alan Phan khoái ăn sáng ở quán này. Quán bày ghế ở vỉa hè, đồ nghề đặt đầu con hẻm nhỏ. Hủ tiếu ở đây rất đặc biệt nhờ món nước sốt chan lên tô hủ tiếu khô đầy cua và tôm. Quán nổi danh với món nước sốt đặc biệt này. Thế hệ giờ tuổi trên 70 ở Sài Gòn này không ai là không biết món hủ tiếu khô vang bóng của Thanh Xuân. Giờ nó không còn nổi và đông khách như xưa nhưng cũng vẫn là một lựa chọn cho buổi điểm tâm sáng.

Ở Trương Định có quán mì cật. Ăn cũng được nhưng quán xập xệ quá lại hơi dơ. Mì đây ngon, cật làm sạch không hôi. Nước lèo cũng nhiều bột ngọt, ăn xong khát nước khô cả cổ.

Xa nữa lại có Thiệu Ký mì gia còn gọi là Mì nhà xác vì nó cùng trên đường nhà xác của bệnh viện Chợ Rẫy. Quán mì này đã có mặt ở đất này hơn 70 năm. Mì ở đây là mì tươi kéo sợi do quán tự làm. Bạn hãy gọi một tô thập cẩm hay tô hủ tiếu sườn non. Ngon hết biết. Có con tôm tươi chiên với bánh dòn dòn, có tóp mỡ béo cũng dòn dòn đúng xe mì truyền thống của người Hoa. Thịt xá xíu ở đây đúng vị, thịt gà xé cũng ngon. Lại có thêm chén nước súp có gan, phèo. Nước lèo được nấu từ xương gà hầm nên ngọt thanh, có vị kiểu người Hoa. Quán cũng có há cảo, xíu mại ăn thêm.

Thích ăn phở, miến gà thì đảo xe về Nguyễn Du, bên hông bưu điện. Quán bình dân nhưng giá cũng đắt xắt ra miếng. Kêu bát phở hay miến với cánh, phao câu. Hay cánh vơi ức gà, hay thuần tuý là đùi với lòng cũng đặng. Nhớ kêu thêm miếng huyết. Trong các loại huyết luộc, có lẽ huyết gà là ngon nhất. Huyết heo nhão, huyết vịt khô xảm, huyết gà ăn xốp, mằn mặn, bùi bùi sướng miệng gì đâu. Nhìn cái nồi nước lèo cao cả thước đầy xương, cổ, đầu cánh gà mà ngợp. Nhờ vậy mà nước phở thanh, đằm vị, húp một muỗng thấy từ từ thấm vào lưỡi, chạy vào họng đúng vị phở gà. Thịt gà chắc, ngọt, da mỏng dòn, đúng là gà ta. Cũng nên nhớ bỏ thêm mấy lá chanh xắt nhuyễn với một ít tương Bắc cho đúng điệu.

Ở Kỳ Đồng cũng có tiệm phở, miến gà đông khách lắm. Người ra vô nườm nượp, quán lúc nào cũng ngập người. Gà cũng lấy chung với quán phở gà Nguyễn Du, nhưng nấu kiểu Nam nên nước khác mùi mà thịt cũng khác vị. Bởi thế cách nấu quyết định hương vị của món ăn là vậy. Kêu thêm dĩa gỏi là đủ cho một buổi sáng đầy đặn.

Nếu chán ăn phở, mì hay hủ tiếu sáng thì chạy qua Tú Xương đến Út Hưng ăn bún bò Huế. Cũng như phở, bún bò Huế ở Sài Gòn cũng có bún bò Huế lai hương vị đã đổi để hợp với người Nam và bún bò Huế đúng chất Huế dành cho người Huế tha hương hay người Trung quen vị mặn của ruốc. Từ xưa người Huế nói tô bún bò  mà không có ruốc, không có sả thì không phải là bún bò. Bún bò xuôi vào Nam giảm ruốc, bớt sả lại nấu với khóm, đường tạo độ ngọt. Bún bò Huế chính gốc phải ngào ngạt mùi sả, thoang thoảng mùi mắm ruốc. Ta tìm thấy chất Huế ở tô bún của Út Hưng dù mùi ruốc cũng đã giảm nhiều. Nồi nấu vẫn còn mang đúng tính chất của nồi bún Huế. Đó là cái nồi tròn bằng nhôm, thắt ở cổ nồi nhưng miệng loe ra với bụng tròn, không quai. Người xưa bảo nồi đất nấu cơm, nồi đồng nấu cháo, nồi nhôm nấu bún. Mấy mệ Huế bảo rằng cái nồi như rứa để giữ nhiệt, lúc mô nước cũng nóng. Ăn bún bò phải ăn nóng mới ngon. Ở đây có đủ cho một tô bún bò lưu lạc phương Nam: chả cua, chả lọn Huế, chả bò, giò nạc, giò gân, giò búp, giò móng, bắp bò, lại có cả huyết với bò tái lẫn bò viên. Tào lao rứa? Tui kỵ ăn bún bò với bò tái, nó trật đường rầy và cũng không đúng là bún bò Huế. Nhưng giờ ra Huế cũng thấy người ta ăn vậy. Bún bò Huế ngày xưa chỉ có thịt bò với giò heo. Mà giò sau mới nhiều thịt nha. Người Huế lạ lắm, tặng biếu nhau thì trao giò trước, nhưng thật ra giò sau mới thật là ngon. Giờ bày ra đủ thứ món trong tô bún bò. Thịt bò ở quán này mềm, giò cũng hầm vừa không cứng quá cũng không nhão, gặm có nạc có da mới thú. Lại không có mùi hôi của thịt heo tăng trọng bây giờ. Chả cua cũng vừa ăn. Giá cũng bình dân, vừa túi tiền chỉ có cái là hết sớm quá, hơn 9:00 đã thấy cái nồi không.

Nếu ở đấy đã cạn nồi, ta chịu khó chạy tới Bành Văn Trân ăn bún bò Hạnh. Quán tươm tất hơn quán Út Hưng. Nhưng bún bò ở đây lai Nam nhiều rồi dù chủ cũng là dân Huế. Nước ở đây ngọt, ít mùi ruốc. Thịt cũng vừa ăn, giò cũng được. Cũng có thể gọi là khá, giá cũng hợp cho người muốn tìm một quán vừa miệng và sạch sẽ.

Gần đây có quán Abunbo của Cô Ba Thuỷ, người chủ của mấy quán ăn khá tiếng tăm ở Sài Gòn. Quán này nằm trên con phố rất sang chảnh của Sài Gòn, đường Nguyễn Huệ. Đây là quán bún bò rất đặc biệt, được cô chủ chăm chút từng cái chén, cái đũa, cái lót ly cho đến sợi bún, miếng thịt, miếng chả. Theo chủ nhân, cô ấy muốn kế thừa truyền thống của món bún bò nhưng cũng có cách tân mang dấu ấn của Cô. Nước bún bò ở đây ngoài sườn, đùi heo, bò bắp, ruốc, sả còn nấu với sá sùng. Cho nên nó có nước ngọt thanh, phơn phớt một chút ruốc Huế, đậm đà mùi sả nhưng không hắc. Miếng giò mềm, đậm thịt, gặp miếng gân vẫn sần sật. Nằm ở địa điểm này với những nguyên liệu được kén chọn rất kỹ của cô chủ kỹ tính lại thêm không khí trang trí rất nghệ thuật. Khách trả tiền cao hơn một chút cũng không hề hối tiếc.

Người Sài Gòn khoái nhất hai món: bánh mì và cơm tấm. Cũng như người Hà Nội, ăn phở bất cứ lúc nào, người Sài Gòn cũng thế, sáng, trưa, chiều tối khi nào cũng có thể chơi dĩa cơm tấm hay ổ bánh mì. Bánh mì Sài Gòn thì muôn hình vạn trạng, bất kỳ ở đâu cũng có thể mua được. Đầu đường, góc phố, trong hẻm, ở chung cư. Nhưng người kén ăn chỉ chọn một vài chỗ quen rồi ăn ở đấy tháng này qua năm khác. Hồi trước người ta thường thích bánh mì Như Lan với Hà Nội, nhưng giờ thì khác. Muốn có ổ bánh mì thịt ngon, trước hết phải có cái bánh ngon. Bánh mì Sài Gòn vang danh một thuở giờ không còn ngon như thuở xưa. Cái thì rỗng ruột, bóp vào nát vụn. Cái thì khô khốc, ruột lại không thơm, không có độ nở của bột. Giờ đành chọn được mấy tiệm để ăn. 

Ở xứ này giá nào cũng có thể có ổ bánh mì. Bánh mì chan nước thịt giá 8 đến 10.000, bánh mì thịt tầm tầm cũng 15 đến 20.000. Bình thường nhất là 25 đến 30.000. Bánh mì ô môi ở Lê Thị Riêng đã lên giá 80.000 một ổ mà phải xếp hàng dài. Lại có bánh mì hải sản thấy chào giá từ 200.000 đến 440.000 một ổ. Nhưng có lẽ đắt nhất là bánh mì của anh chàng bếp Hàn Quốc có cái quán nhỏ ở chợ Cũ, giá ổ bánh mì thịt nướng của anh có giá 100 đô la Mỹ tức hơn 2.300.000 đồng, nhưng phải báo trước để chuẩn bị. He...he không biết có khách không? Nhưng vẫn thấy còn sống đấy!

Bánh mì Ngọc Xuyến ở Trần Quốc Toản là một chọn lựa. Bánh ở đây lấy ở lò bánh mì ở mũi tàu đường Trần Quang Khải. Bánh dòn lâu, ruột vừa, nở và thơm. Ăn với thịt nguội cũng ngon, bì với nước mắm cay cũng đặng. Không thì chỉ kẹp chả lụa, chả quế, chả bò đều thú vị cả. Tiệm này cũng có mặt ở Paris do chính chủ định cư mở hình như ở quận 13 thì phải, quán nhỏ xíu mà bán đủ thứ đồ ăn Việt Nam. Cũng khá đông khách.

Nếu đi sớm thì ghé bánh mì Cụ Lý. Xe bánh mì nổi tiếng trước 75 dù chỉ bán trên vỉa hè. Xe chỉ có một thúng bánh, chả,đứng tựa hàng rào mà đắt như tôm tươi, Cụ Lý lúc đó tuổi trung niên, tóc chải dầu óng mượt. Vừa cắt chả vừa bông đùa. Chả ngon, đậm đà, miếng nào miếng nấy to đùng chứ không cắt lát mỏng như các tiệm bánh mì khác. Không rau, không dưa leo, chỉ có vài lát hành tây. Giờ hình như là con hay cháu Cụ Lý tiếp tục nghề. Cũng bán trên vỉa hè chỗ gần lãnh sự Tàu góc Nguyễn Văn Thủ. Hai vợ chồng bán không kịp, cắt chả không ngơi tay. Cũng hương vị cũ nhưng thiếu chút nước mắm nhỉ của Cụ Lý ngày xưa và những câu bốc phét. Bán từ sáng sớm, đến khoảng 9:00 là hết sạch. Khách đến trễ đành hẹn hôm sau.

Thế là chạy qua Hoà Mã đường Cao Thắng. Tiệm này lâu đời, có mặt đâu từ năm 1958 ở đường Phan Đình Phùng, nay là Nguyễn Đình Chiểu. Sau đó mới dời qua đây. Hơn 60 năm, biết bao dâu bể, quán vẫn chẳng có gì thay đổi, chỉ người bán đã qua đến đời thứ ba. Ở đây có thịt nguội ngon, có thêm món chảo trứng, chả chiên. Khách đông kéo dài đầu con hẻm. Ngày nay người ta ăn bánh mì kẹp thịt mang về nhưng chắc hẳn chẳng ai biết bà chủ Hoà Mã là người có sáng kiến đó. Trước đấy, bánh mì thịt nguội là món ăn khá đắt, công chức sáng đi làm ghé mua một ổ mang đi, phải mang theo một gói jambon, xúc xích, chả lụa kèm theo. Rườm rà quá. Bà chủ tiệm mới nghĩ ra chuyện xẻ bánh, nhét thịt nguội, hành ngò, sauce vào, tiện cả đôi bề. Từ đó món bánh mì kẹp thịt gọn gàng và tiện dụng hơn trở thành cách ăn bánh mì của người Sài Gòn.

Cũng có một tiệm ở đầu đường Trần Đình Xu, tiệm tên Nguyên Sinh, trang trí như mấy quán ăn nhỏ ở bên Pháp. Bàn vuông trải khăn ca rô. Thịt nguội, chả ở đây cũng ngon không kém nhưng nổi bật nhất là món paté. Món này ở đây có hương vị rất đặc biệt, mùi khác hẳn paté ở các nơi khác. Bởi nó làm bằng gan gà. Chỉ cần ổ bánh mì nóng dòn, phết paté vào là đủ có một ổ bánh mì ngon mà không đâu có. Giá ở đây đắt hơn Hoà Mã một chút nhưng tiệm tươm tất và gọn gàng hơn nhiều.

Bốn tiệm bánh mì thế cũng là đủ, giờ đến cơm tấm sáng. Sài Gòn cơm tấm bán nhiều vào giấc trưa. Nhưng ở đường Nguyễn Phi Khanh có quán cơm tấm khá ngon bán từ sáng đến trưa. Quán nhỏ xíu, chỉ kê được mấy cái bàn nhưng khách khá đông. Cơm đúng nấu từ hạt tấm, có món chả cua độc đáo, sườn ướp, nướng vừa lửa thơm, đậm đà. Có thêm hành phi và nước mắm kẹo. Là một trong nhiều quán cơm tấm ngon mà giá lại bình dân ở Sài Gòn.

Sang thì ghé quán cơm tấm Nguyễn Văn Cừ. Ở đây sườn nướng ngon có tiếng, chả cũng khá, mấy món lặt vặt cũng khó để chê nhưng giá cao quá. Một dĩa cơm tấm cho đủ bộ sườn, bì, chả, lạp xưởng, chén canh khách phải trả từ 150.000 đồng. Đắt nhưng cũng đáng đồng tiền. Nhìn dàn nướng thịt với khói bốc thơm điếc mũi là muốn vào ăn rồi.

Khoái ăn sáng kiểu người Hoa, đến Tân Sanh Hoạt. Quán mở đã lâu đời cũng là quán Dimsum bình dân ở quận 3. Đủ món ăn chơi từ há cảo đến xíu mại khô, xíu mại nước, từ bánh nếp cho tới hủ tiếu, mì. Quán mang hương vị và phong cách Tàu. Anh chàng tính tiền bằng miệng còn nhanh hơn máy tính. Hồi xưa tui làm việc ở rạp Kim Chung đối diện nay là là Nhà Nghệ thuật quần chúng, ăn nhiều từ chủ quán đến chị em phục vụ quen mặt, chỉ cần vào là tự động dọn món, khỏi kêu. Món ăn ở đây chỉ thuộc dạng tầm tầm, chỉ được giá tương đối rẻ. Có một lần tui đến ăn, thấy đống dây điện đường xà xuống tận cửa, có chút máu phong thuỷ trong người bèn bảo với ông bà chủ sao không nhờ dẹp cho gọn đi, để thế không tốt cho chuyện làm ăn đâu? Bà chủ than thở đã kêu, đã nhờ mấy tháng rồi mà chẳng thấy tăm hơi. Chợt nhớ có cậu học trò cũ đang có chức bên Sở Điện lực thành phố, lại có thằng đệ làm giám đốc điện lực vùng này. Bèn gọi, cậu học trò thì ok Thầy, em sẽ cho người xuống. Thằng đệ liền ok Đại ca, đệ cho người đến dẹp. Mấy tuần sau, tui lại ghé ăn, ông bà chủ hân hoan lắm. Đang ăn, bà chủ rụt rè đến, tay cầm phong bì bảo gởi biếu Thầy Hai. 

Tui gạt ngang bảo có công lao gì đâu, chỉ mất hai cuộc điện thoại thôi mà, bà làm thế tui buồn bà lắm đó. Thấy tui từ chối cương quyết quá, bà đành thôi. Đến khi tính tiền bà lại bảo không tính, tui giận nói với bà nếu không tính sẽ không ghé ăn nữa. Bà lại thôi. Vừa rồi trước dịch ghé vào ăn thấy quán đã đổi chủ, nghe bảo ông bà chủ trước đã qua Úc định cư, thế là tiệm này đã đến đời thứ tư rồi. Hôm nhà tôi chuyển dạ sắp sinh thằng Út cách đây ba mươi mấy năm, hai vợ chồng đi đến bệnh viện Từ Dũ ghé tiệm này lúc 4:00 sáng đã thấy mở cửa rồi. Nhà tôi ăn một bụng ở đó rồi mới đi sinh. Bởi thế tiệm này dù giờ không còn ngon như cũ, nhưng tui vẫn hay ghé lại đây vừa để ăn vừa để nhớ những kỷ niệm.

Muốn ăn Dimsum sang mà ngon hơn thì vào Tiến Phát ở quận 5. Ở đây món nào cũng ngon, ăn không khác gì mấy tiệm ăn sáng ở Hongkong. Khách cũng đông, cách phục vụ, hương vị món ăn rặt Tàu. Há cảo tôm tươi, mềm, bánh không bị khô, bỏ vào miệng nhai nhận được cái ngon ngay từ lần cắn đầu tiên. Hoành thánh, bánh cuốn tôm cũng là món khách ưa chuộng ở quán này.

Món ăn sáng thế cũng đủ, giờ lại tính chuyện ăn trưa

ĂN TRƯA

Ăn sáng có thể đi mình ên, nhưng ăn trưa là phải có bạn, đi đôi ba người ăn mới vui, không thì cảm thấy cô độc lắm.

(Xem phần tiếp nha, dài quá rồi)

6.10.2021

DODUYNGOC

ĐỊA CHỈ CÁC QUÁN:

- Phở Dậu, Hẻm cư xá 288 Nam Kỳ Khởi nghĩa. Q.3

- Phở Minh, 63/16 Pasteur, Q.1

- Phở Lý Quốc Sư. 63 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1,

- Phố Hàng Phở. 20 Đường số 7, Khu biệt thự Hà Đô Centrosa Garden. P.12.Q.10. 

- Phở Phú Gia, 146E Lý Chính Thắng, P. 7, Quận 3, 

- Hủ tiếu mì cá Nam Lợi, 43 Tôn Thất Đạm. Q.1

- Hủ tiếu Mỹ Tho Thanh Xuân. 62 Tôn Thất Thiệp. Q.1

- Phở miến gà Nguyễn Du, 57 Nguyễn Du. Q.1

- Bánh canh cua Tôn Thất Đạm. 8 Tôn Thất Đạm. Q.1

- Abunbo 78 Nguyễn Huệ. Q.1

- Bún Bò Út Hưng. 6C Tú Xương,

- Bún Bò Huế Hạnh, 135 Bành Văn Trân, P. 7, Quận Tân Bình

- Mì Thiệu Ký. 66/5 Lê Đại Hành, Phường 7, Quận 11

- Mì cật. 62 Trương Định, Quận 1,

- Dimsum Tân sanh hoạt. 322 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3

- Tiến Phát - Dimsum. 18 Kỳ Hoà. Q.5

- Cơm tấm  chả cua 113 Nguyễn Phi Khanh. Q.1

- Cơm tấm. 167 Nguyễn Văn Cừ, Q.5

- Bánh mì Ngọc Xuyến, 41B Trần Quốc Toản. Q.3

- Bánh mì Hoà Mã, 53 Cao Thắng. Q.3

- Bánh mì Nguyên Sinh. 141 Trần Đình Xu. Q.1

- Bánh mì Cụ Lý. Vỉa hè đường Hai Bà Trưng, gần ngã ba Nguyễn Văn Thủ.















Cuối cùng, những người lao động nghèo muốn trở về quê ở những tỉnh miền Tây cũng đã được giải quyết. Điều đó cho thấy chẳng qua chính quyền không muốn làm hay không dám làm thôi. Nếu muốn quyết tâm làm rồi cũng sẽ được sắp xếp êm đẹp. Chính quyền thành phố đã phối hợp các tỉnh thành dùng xe buýt, ôtô tải đưa hàng nghìn người chạy xe máy từ thành phố về miền Tây. Hơn 20 ôtô tải, xe khách, buýt được lực lượng chức năng bố trí đậu dọc đường, hướng về tỉnh Long An, chờ sắp xếp đưa người dân về quê. 113 xe buýt được thành phố bố trí tại các chốt kiểm soát cửa ngõ hỗ trợ người dân về quê. Các xe buýt có sức chứa 40-80 chỗ, được bố trí gần các chốt nhằm sẵn sàng giải toả ùn ứ, hỗ trợ đưa người dân về các tỉnh thành an toàn. Phương án đưa ra ôtô sẽ chở cả người lẫn xe máy về từng tỉnh thành. Trước khi lên xe, người dân được xét nghiệm nhanh có kết quả âm tính. Người có xác nhận âm tính còn hiệu lực 48 giờ không cần test lại. Đã có gần gần 500 người dân được xe cảnh sát dẫn về các tỉnh theo nguyện vọng.

Tỉnh Long An cũng chuẩn bị xe buýt, xe tải để hộ tống 1.200 người trong hai ngày qua đang bị kẹt ở huyện Đức Hoà về quê. Tại chốt kiểm soát tỉnh Long An giáp ranh Tiền Giang, cảnh sát giao thông hộ tống 2 đoàn về Sóc Trăng, Bạc Liêu. Trong đó, nhiều nhất là tỉnh Sóc Trăng với 6 xe được huy động. Kế đến, tỉnh Kiên Giang được bố trí 5 xe; An Giang, Bạc Liêu mỗi tỉnh 3 xe. Tỉnh Vĩnh Long, Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng, Tiền Giang mỗi tỉnh 1-2 xe đưa người dân hồi hương.

Những người liều lĩnh trở về ai cũng biết mình đang làm sai, nhưng không còn cách nào khác. Đã cùng đường sau thời gian bị phong toả, không còn tiền trả tiền trọ, cũng chẳng còn cách gì để kiếm sống, họ buộc phải tìm đường sống bằng cách trở về nhà. Một người trong đoàn sau khi đã được xét nghiệm và có kết quả âm tính, được hỗ trợ phương tiện về quê đã phát biểu thật lòng:"Cảm ơn lực lượng chức năng đã hỗ trợ, giúp đỡ cho chúng tôi được về quê, dù chính chúng tôi là người làm trái quy định của thành phố".

Việc người dân được thu xếp để được về theo nguyện vọng cho thấy khi chính quyền thông cảm được cho dân, hiểu rõ được nguyện vọng của người dân thì mọi chuyện đều đưa đến kết quả êm đẹp. Không thể ép dân phải tuân theo những chủ trương khi dân chưa thuận tình.

Sáng nay 2.10, lại có thêm hàng ngàn người dân đi xe máy lỉnh kỉnh đồ đạc tập trung trước chốt kiểm soát dịch trên đường Đồng Khởi, đoạn tiếp giáp giữa huyện Vĩnh Cửu với TP Biên Hòa yêu cầu được về quê. Mặc dù tình hình dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, dù chủ trương của chính phủ là hạn chế tối đa những cuộc di chuyển đông người như thế này. Nhưng chính quyền Đồng Nai đã cố gắng tạo điều kiện cho những người muốn hồi hương. Lực lượng công an, cảnh sát cơ động , dân quân đã giúp đỡ và vẫy tay tạm biệt đoàn người từ giã.

Những cách giải quyết đấy hợp tình nên được sự ủng hộ của nhiều người dù vẫn biết những việc di chuyển đông người như thế có thể khiến cho dịch bệnh có nguy cơ lan rộng. Thế nhưng khi chúng ta đã chấp nhận sống chung với virus, xét nghiệm kỹ càng và số người đã được tiêm chủng khá nhiều thì việc cho phép nhân dân đi lại là việc cần làm. Không thể để cho dân nhập cư và những người lao động nghèo chịu đựng khó khăn hơn nữa.

Qua cơn đại dịch mới thấy rõ hơn dân ta còn nghèo quá, còn khổ quá. Ngay những người đã định cư ở Sài Gòn lâu năm, vẫn còn rất nhiều khu vực, nhiều gia đình, nhiều người còn sống trong thiếu thốn và tạm bợ. Đi vào trong những hẻm sâu, ngõ nhỏ, vẫn còn đó những căn nhà chật chội, thiếu ánh sáng, những xóm nghèo, thiếu nhiều tiện nghi sinh hoạt, người ta sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà tăm tối và ngột ngạt. Đi vào những con hẻm ở quận 4, Bình Thạnh, Gò Vấp hay Thủ Đức..đằng sau những cao ốc, những hàng quán, tiệm ăn rực rỡ ánh đèn là những khu lầy lội, ẩm thấp và trong đó có nhiều gia đình đã sống mấy đời ở đấy. Họ quẩn quanh với số phận mà không thoát ra được. 

Những người nhập cư sống trong những dãy nhà trọ cũng chật chội và nóng bức. Thu nhập chỉ đủ trả tiền nhà và những bữa ăn không đủ dinh dưỡng. Nhưng vẫn còn hơn bám ở làng. Nhiều người đành sống trong những khu nhà mọc lên trên những đồng hoang, không điện nước, nhà vệ sinh, chắp vá và tạm bợ. Trú ngụ trong những lán nhà theo từng công trình đi mọi nơi. Nơi nào cũng đầy muỗi mòng và dễ lây nhiễm tật bệnh. 

Họ làm đủ nghề để sống, có nhiều người mấy đời chạy chợ, buôn thúng bán bưng, có một chỗ ngồi nho nhỏ ở một cái chợ ven đường buôn bán những món rẻ tiền cho người nghèo, có người lượm ve chai, có người đi làm thuê, làm giúp việc nhà, phụ bán quán, rửa chén trong các nhà hàng, tiệm ăn. Người nhập cư đa số làm thợ hồ, chạy xe ôm, làm công nhân trong hãng xưởng, bán vé số, bán hàng rong. Nói chung thu nhập thấp, cuộc sống bấp bênh, con cái khó được học hành đến nơi đến chốn. Đầu tắt mặt tối, suốt ngày chịu nắng mưa, gió bụi nhưng chẳng để dành được bao nhiêu.

Do vậy, khi có dịch, họ là những nạn nhân đầu tiên lâm vào cảnh thiếu ăn, dễ dính bệnh và có nhiều người tử vong nhất. Và rồi không thể chịu đựng một thời gian dài giãn cách, họ không còn được làm việc, không còn được bán buôn, họ kiệt sức và không lối thoát. Những gói an sinh, những đồng tiền hỗ trợ của chính phủ chỉ giúp họ một thời gian ngắn, sau đó lại thiếu thốn. Người nhập cư tìm cách về quê. Họ quyết về nhà bằng bất cứ phương tiện gì, đa số là xe gắn máy. Nhưng cũng có người về bằng xe đạp và cũng có những thanh niên đi về bằng đôi chân trần qua hơn 300 cây số.

Người nghèo thành phố đành tìm mọi cách để chịu đựng qua cơn khốn khó. Trước họ sống nhờ những đoàn thiện nguyện, những nhóm từ thiện. Giờ họ chờ những hỗ trợ của nhà nước, lúc có lúc không với nhiều thủ tục. Họ mong ngày mở cửa để được đi làm. Cho nên họ vui mừng khi nghe tin giảm giãn cách. Dù biết trước mặt còn biết bao gian khổ khó thoát ra được.

Suy cho cùng, tình trạng bỏ làng quê ra thành phố kiếm cơm là chuyện bình thường ở các nước nghèo đang phát triển. Tuy nhiên, nếu các chính sách về đời sống cũng như về nông nghiệp được quan tâm tốt hơn sẽ không có nhiều người bỏ làng ra đi như hiện nay. Người nông dân làm suốt bốn mùa mà vẫn thiếu ăn. Đất đai bị quy hoạch vô tội vạ, mảnh ruộng càng ngày càng bé lại, thu hoạch không đủ trả chi phí, họ đành bỏ đất mà đi. Ra thành phố cũng chỉ kiếm đủ miếng cơm qua bữa. Cho nên khi thành phố có biến động, không còn kiếm sống được nữa họ đành phải trở về. Đó là vòng luẩn quẩn của số phận người nông dân Việt bây giờ. Chưa có thời kỳ nào mà người Việt phải ly hương nhiều như thời nay. Lớp thì đi lao động, làm thuê ở xứ người. Lớp thì vào thành phố kiếm sống. Và cũng không thiếu người rời quê lấy chồng phương xa mong được đổi đời, đi ra xứ lạ bán thân nuôi miệng. 

Làng quê Việt Nam không còn không khí của làng xưa nữa và những phong tục, nét đẹp của cha ông mất dần đi. Quan niệm sống cũng đổi thay, tình người đối xử với nhau cũng không còn như cũ nữa.

Những người hôm qua còn đứng dưới nắng nóng để mong một cuộc trở về giờ này chắc cũng đã thoả lòng với gia đình của mình nơi quê nhà. Cũng mừng cho họ nhưng rồi không biết tương lai sẽ ra sao? Có lẽ mốt mai, cuộc sống bình thường trở lại, họ lại lên thành phố, tiếp tục với những công việc cũ chứ ruộng đồng lúc này không còn nuôi sống họ được nữa rồi.

Hôm nay là ngày thứ hai giảm giãn cách ở Sài Gòn. Không khí thành phố có vẻ náo nhiệt hơn, mọi người cũng vui hơn. Nhiều chợ đã có lác đác người bán kẻ mua. Người bán tươi cười chào khách, tuy hàng hoá chưa nhiều, giá cả còn cao nhưng đã có sinh khí của cuộc sống. Như thức dậy sau giấc ngủ, như khoẻ lại sau cơn bệnh nặng, mặt người hớn hở với nụ cười dù đâu đó vẫn thấp thoáng nỗi đau của mất mát và chia lìa. Những tiệm vàng rộn rịp người bán, mấy tháng rồi ngồi không, giờ bán vàng để chi tiêu trong cuộc sống. Bán vàng còn để làm vốn tiếp tục bán buôn kiếm sống sau chuỗi ngày dài ngồi chờ đợi. Đem vài món quý đi cầm để có chút tiền mua nguyên liệu nấu đôi ba món ăn, mua vài thứ bán buôn kiếm chút lời để tiếp tục cuộc sống. Tiệm hớt tóc đông người, tiệm sửa xe lắm khách, tiệm tạp hoá nhiều người mua, tiệm sửa máy móc, điện thoại chen nhau, quán ăn cũng nhộn nhịp với những món ăn nhiều người đợi chờ. Mọi người ai cũng muốn giải quyết những việc mà hơn 120 ngày vừa qua không làm được. Nhưng trong sự hân hoan cũng còn lắm nỗi lo. Dịch vẫn còn đó, virus ở khắp nơi nên lúc nào cũng phải cảnh giác. Nhu cầu thì nhiều mà tiền bạc thì đang ít lần đi. Công việc kiếm ăn cũng nhiều khó khăn. Vui vì không còn bị giam hãm nhưng vẫn còn đó lắm nỗi lo cho tương lai. Lo cha mẹ đi làm mà con chưa được vào trường, ở nhà học trực tuyến không người trông coi. Lo mấy cái app lung tung chưa cập nhật nên ngại sẽ gặp rắc rối khi bị xét hỏi. Tiệm, quán, cửa hàng, chợ đang dần mở lại sợ tập trung lây nhiễm. Lo trộm cướp, băng nhóm tội phạm sẽ gia tăng vì túng quá làm liều, vì thiếu tiền làm bậy. 

Theo Thiếu tướng Lê Hồng Nam, giám đốc Công an thành phố cho biết sau quá trình áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp giãn cách xã hội, các loại tội phạm nằm im không thể hoạt động. Do đó, sau khi nới lỏng giãn cách; các băng nhóm tội phạm sẽ gia tăng hoạt động, nhất là trộm cắp, cướp giật tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, ma túy; cho vay lãi nặng, tín dụng đen...Vì vậy đêm sẽ khó yên giấc, đi làm cũng khó yên lòng.

Sở Giao thông Vận tải cũng có văn bản khẩn về việc hướng dẫn tổ chức giao thông trên địa bàn thành phố. Từ ngày 5.10, xe buýt, xe khách, xe taxi, xe công nghệ.... ở thành phố sẽ tái khởi động. Nhịp thở của thành phố đang dần trở lại, mong nhịp thở không còn bị tắc, mạch máu được lưu thông để Sài Gòn đứng dậy đi lên.

Hôm nay chỉ nói chuyện vui, không nhắc đến những bi thương và buồn thảm của 120 ngày tù hãm. Không nhắc đến những con số lạnh lùng của dịch bệnh. Không nói đến những oan khuất, những thói của bọn sai nha, những thủ đoạn làm giàu trên xương máu nhân dân của bọn tài phiệt. Những tin vui sẽ bớt những mây mù của một mùa đại dịch. Mừng cho những ai qua cuộc  đau thương vẫn còn đủ cha mẹ, anh em, con cháu, bạn bè, người thân và bản thân vẫn còn vui khoẻ.

2.10.2021

DODUYNGOC


MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget