Articles by "Truyện ngắn"


Truyện về thằng bạn thân

Tôi và Nam là đôi bạn thân. Thân lắm. Hai đứa tôi học chung lớp từ Tiểu học, lên đến Trung học rồi Đại học. Đúng ra Nam thi vào Kỹ sư Phú Thọ nhưng vì thích gắn bó với tôi nên cũng ghi danh học Văn khoa cùng tôi dù Nam không có khiếu văn chương là mấy. Nhà tôi ở đầu dãy cư xá, nhà Nam ở cuối cư xá. Đó là cư xá dành cho sĩ quan ở đường Bắc Hải nên mọi người gọi luôn là cư xá Bắc Hải, có người gọi là cư xá sĩ quan Chí Hoà. Bố tôi là Trung tá làm việc ở Bộ Tổng tham mưu quân đội, bố Nam là Thiếu tá Quân cụ, chuyên cung cấp vũ khí, đạn dược và nhiều trang bị khác cho quân nhân. Gia đình tôi và Nam đều là dân Bắc di cư năm 1954 lại là gia đình quân nhân nên khá thân nhau. Bố Nam người gầy, rất hiền và vui vẻ, gặp ai trong cư xá cũng chào hỏi thân tình, ai cần chi cũng giúp tận tình.

Ông còn là một cư sĩ Phật giáo, ăn chay trường. Mẹ Nam là một phụ nữ đẹp, rất đẹp lại có dáng dấp rất quý phái, xuất thân từ gia đình trâm anh thế phiệt, là dược sĩ, làm cho một viện bào chế lớn ở Sài Gòn nên cũng hơi kiêu kỳ một chút. Nam đẹp trai giống mẹ và hiền lành giống bố. Hắn có dáng dấp và khuôn mặt như diễn viên Alain Delon, một tài tử nổi tiếng của Pháp thời đấy. Nam học giỏi lại rất thân thiện với bạn bè. Trong lớp học, hắn luôn tìm cách giúp đỡ mọi người, không bao giờ từ chối những yêu cầu của bất cứ ai, miễn là trong khả năng của Nam. Học chung với hắn lâu năm, tôi để ý là trong lớp có bạn nào khó khăn trong đời sống, hắn tìm cách giúp ngay, không quần áo, sách vở thì tiền bạc. Hắn tặng một cách kín đáo, tế nhị nên người khác không ai hay. Dưới mắt tôi Nam là một người tốt, quá tốt. Vừa học giỏi lại ngoan hiền nên Thầy Cô nào cũng quý hắn lắm. Chắc là ảnh hưởng lối giáo dục và tính cách tu hành của cha.

Hồi đấy, tôi có lần dạy kèm cho con chiêm tinh gia Huỳnh Liên, nhà ở đường Phan Thanh Giản. Ông này lúc đó nổi tiếng lắm, đến Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu còn phải tin những lời của ông. Một hôm tôi và Nam đến thăm ông, không biết lần đó ông hứng tình chi mà bảo hai thằng ngồi cho ông bói một quẻ. Tôi thì ông bảo chỉ làng nhàng, thuận lợi, không có chi trúc trắc, chỉ có điều như cái tuổi Canh nên canh cô mồ quả, già sống một mình. Đến Nam thì ông cứ ngồi nhìn Nam mãi, hết nhìn mặt đến cầm tay, lại bảo Nam vén tóc nhìn tai, nhìn gáy. Cuối cùng ông phán một câu: Cậu này rồi sẽ luỵ đàn bà, sẽ khổ vì đàn bà. Tôi muốn bật cười mà không dám. Đẹp trai con nhà giàu như Nam, tướng ngon như tài tử như Nam mà bảo luỵ và bị khổ vì đàn bà thì ai tin được. Đàn bà, con gái khổ vì hắn thì có. Thế rồi cũng quên đi, chẳng có thằng nào nhắc đến.

Mà kể cũng lạ, suốt mấy năm sinh viên, Nam chẳng hề yêu ai dù có rất nhiều cô gái theo hắn. Nhiều khi tôi nghĩ hay là hắn đồng tính, chỉ thích đàn ông. Nhưng chắc chắn là không phải thế, bởi nhiều khi bạn bè rủ đi chơi gái, hắn cũng hăm hở và làm tròn nghĩa vụ như bất cứ thằng đàn ông nào. Chỉ có điều khác là lần nào nó cũng cho thêm tiền các cô gái và cư xử rất đẹp với các cô ấy. Đến đâu hắn cũng được khen là người chơi đẹp và thanh nhã, lịch sự như một quý ông.

Năm 1972, tốt nghiệp đại học lại là lúc chiến tranh dữ dội hơn, tất cả sinh viên tới tuổi đều bị động viên, Nam đi vào quân trường Thủ Đức khoá 72. Tôi thi vào một cơ quan chính phủ nên được hoãn dịch. Ra trường, Nam chọn binh chủng nhảy dù trước sự ngạc nhiên của mọi người. Hiền như hắn mà sao lại làm sĩ quan nhảy dù được nhỉ? Hơn nữa bố hắn cũng chạy cho hắn về một đơn vị tiếp liệu cùng ngành quân cụ như ông, khỏi ra mặt trận. Nhưng Nam không bằng lòng, một mực về nhảy dù cho được. Và ngược với suy nghĩ của mọi người, hắn đánh giặc ra trò, lính lác thương hắn lắm vì hắn cũng xem lính như anh em một nhà. Lính hắn thằng nào tử trận hắn cũng về tận gia đình, giúp đỡ tiền bạc, lo lắng tận tình vợ con lính nên ai cũng quý. Nhưng mãi cũng chưa có vợ. Nhiều khi tôi nghĩ hay là hắn băn khoăn câu nói của ông Huỳnh Liên nên hắn sợ không dám lập gia đình. Cũng có lần tôi hỏi hắn về chuyện này, hắn bảo đời lính, hòn tên mũi đạn biết đâu mà tránh, lấy vợ rồi lỡ có chuyện gì chỉ khổ cho người ta. Nhưng rồi cuối cùng tôi phát hiện ra hắn yêu Ngọc Lan, em gái tôi. Chẳng là tôi có cô em gái nhỏ hơn tôi hai tuổi, đang học Luật. Ngọc Lan đẹp, thuỳ mị, nết na và rất hiền lành. Hai đứa này mà lấy nhau chắc hợp. Nhiều lần hành quân về, Nam cùng tôi và Ngọc Lan đi chơi với nhau. Hôm thì đi ra Rex xem phim, bữa thì ra Thanh Thế, Givral ngồi cà phê, ăn kem. Khi phát hiện ra hai đứa có tình ý với nhau, tôi hay tìm cách từ chối để Nam và Ngọc Lan có dịp ngồi riêng tâm sự. Nhưng một thời gian khá dài, hình như tình cảm của hai người chẳng đi đến đâu. Tôi thấy Ngọc Lan buồn, rất buồn. Tôi tra hỏi mãi thì em chỉ khóc mà không nói. Một hôm, có lẽ là không thể im lặng mãi được, Ngọc Lan mới bảo với tôi rằng Nam bảo rất yêu Ngọc Lan, nhưng không thể cưới vì ra chiến trường biết chết giờ nào mà gây khổ đau cho người mình yêu. Nói thế nào Nam cũng không lay chuyển. Không kết cuộc được thì đành chia tay. Đành vậy. Hơn năm sau, khi lấy xong cử nhân Luật, em gái tôi lấy chồng.  Chồng em là sĩ quan không quân lái trực thăng, cũng đẹp trai chẳng khác gì Nam nhưng tánh tình thì hơi cộc cằn và ăn chơi cũng dữ.

Tháng 4 năm 75, Nam từ trại Hoàng Hoa Thám chạy về chỗ nhà trọ của tôi ở đường Trương Minh Giảng, từ lúc đi làm, có lương, tôi xin phép bố mẹ thuê nhà ở riêng cho tiện. Nam trông bơ phờ, quần áo chẳng có chi ngoài chiếc quần đùi và cái áo ba lỗ. Hắn bảo cởi bỏ lại ở ngoài đường rồi. Hắn ngồi một lát rồi ôm mặt khóc hu hu. Tôi cũng chẳng biết nói gì với hắn vì tôi cũng đang rối tinh, chưa biết phải tính sao đây nữa. Hai thằng rú xe về cư xá Bắc Hải, mọi người trong cư xá cũng đang nháo nhào lo sợ. Đã có nhiều nhà khoá cửa ra đi. Bố mẹ tôi cũng chẳng biết làm gì, ngồi thở dài thườn thượt. Gia đình tôi cũng có giấy của Toà Đại sứ Mỹ lên danh sách di tản, nhưng bố mẹ tôi không đành để bà ngoại ở lại, bà đã quá già cho một cuộc hành trình sẽ chẳng biết về đâu. Ngọc Lan cùng chồng leo lên trực thăng bay ra biển từ tối hôm qua. Bố mẹ thấy tôi về cũng mừng. Bên nhà Nam cũng thế, Bố Nam cũng kẹt cụ bố ông, tuổi cũng đã già, không đi được, đành cả nhà ôm nhau ở lại, chờ chuyện chi tới cũng đành.

Rồi bố tôi, bố Nam và cả Nam bị kêu đi trình diện học tập cải tạo. Tiếp đó gia đình tôi cũng như gia đình Nam và nhiều nhà khác trong cư xá đều bị cưỡng chế ra khỏi nhà và có lệnh đi kinh tế mới. Cũng may tôi được lưu dung, làm việc tại chỗ cũ với những người chủ mới nên tránh được vụ đẩy đi kinh tế mới.

Nam học ở Suối máu, Long Khánh. Thời gian đầu bố tôi và bố Nam cùng bị tập trung một chỗ nhưng thời gian sau thì bị chuyển ra Bắc. Trong cuộc hành trình trên chiếc tàu lênh đênh ngoài biển, bố Nam không đi tới nơi, ông đã chết trên tàu, xác đành quăng xuống biển. Bố tôi bị bảy năm trong trại cải tạo, di chuyển từ Lạng Sơn đến Hà Nam Ninh rồi Yên Bái. 

Khó khăn lắm, mẹ con tôi chỉ đi thăm bố được bốn lần, mỗi lần thấy thân hình còm cõi của bố, mẹ tôi chỉ biết khóc và tôi thì lòng như lửa đốt. Bố tôi đi cải tạo một năm thì bà ngoại tôi mất, ba năm sau đến lượt mẹ tôi qua đời trong lúc ngủ, chắc tại buồn nhớ bố tôi. Mẹ của Nam cũng được làm tiếp ở viện bào chế đã đổi tên, nhưng rồi nghe thiên hạ xì xào là bà đang cặp kè với tay phó giám đốc. Mà thật sự là cũng chẳng phải cặp kè gì nữa mà đã trở thành vợ chồng, hiện ở trong một biệt thự ở quận nhất sau khi ông nội của Nam đã mất. Thế là chỉ trong một thời gian ngắn, tan hoang cả, thay đổi cả, phận người lắm éo le. Tôi chỉ còn một mình, chắc đúng như ông thầy bói nói năm xưa, canh cô mồ quả. Nhiều người rủ tôi vượt biên, tôi còn bố trong trại, sao đành nỡ ra đi. Với lại tiền vàng lúc đó có đâu mà đi được.

Cải tạo được hơn hai năm thì Nam được về, chức trung uý thì tội ác không nhiều nên về sớm. Hơn nữa bản tính hiền lành, giúp nhiều anh em đồng cảnh ngộ, lao động tốt, không có thái độ chống đối gì nên Nam cũng được ưu tiên. Hắn giận mẹ, không thèm tìm gặp, cắt đứt luôn tình mẹ con. Không nghề nghiệp, hắn làm nghề đạp xích lô. Tôi với hắn thuê một cái phòng nhỏ trong căn nhà xập xệ ở gần kênh Nhiêu Lộc, sống qua ngày.

Đùng một cái, hắn báo tin sắp lấy vợ, vợ hắn làm nghề đổi đô la ở đường Nguyễn Huệ. Trong quá trình chở đi, chở về hàng ngày mà thành vợ chồng. Đó là một cô gái đẹp nhưng có vẻ từng trải. Hỏi Nam về lai lịch của vợ, hắn chẳng biết gì, gặp nhau, quen nhau, yêu nhau thì về sống với nhau thế thôi. Hai vợ chồng khắng khít, thương yêu nhau lắm. Nam nghe lời vợ, bỏ nghề chạy xích lô, vợ hắn nhờ quen biết chi đó xin cho hắn làm công nhân. Hai vợ chồng sáng chở nhau đi, chiều chở nhau về trông rất là hạnh phúc. Nam thuê một căn lầu khá khang trang ở đường Công Lý, hai vợ chồng làm ăn có vẻ khấm khá, cũng mừng cho hắn. Tôi làm việc thêm được mấy năm rồi cũng bị cho nghỉ, đành xin làm việc chữa mô rát cho một nhà in nhờ có bằng cử nhân Văn khoa chế độ cũ. Mỗi đứa đều có công việc riêng, đời sống riêng nên chỉ thỉnh thoảng gặp nhau, chẳng gần nhau như trước. 

Hai năm sau, một bữa Nam tìm đến tôi, mặt buồn như đưa đám, hỏi gì cũng chẳng trả lời. Rồi hắn rủ tôi đi uống rượu. Trời đất quỷ thần ơi, thằng này từ xưa đến nay có biết rượu chè là gì đâu. Ngay cả thời hắn cầm súng trong binh chủng nhảy dù, hắn cũng không uống rượu bia, sống như nhà tu. Bây giờ lại rủ tôi đi uống rượu, chắc chắn là hắn phải có tâm sự gì ghê lắm đây. Hai thằng ra vỉa hè ngoài chợ Phú Nhuận, hắn gọi rượu, tôi kêu mồi. Ngồi uống cả buổi chiều cho đến khi nhập nhoạng tối. Hắn say khướt, giọng lè nhè. Nhìn khuôn mặt càng đỏ càng đẹp của hắn, tôi mới hỏi nguyên do. Lúc đầu hắn lặng im, rồi nâng ly uống một ngụm, hắn nói. Hắn kể hôm nay xí nghiệp cúp điện được về sớm. Hắn về nhà định chở vợ ra bờ sông Thanh Đa ngồi chơi. Ai dè vừa vào cửa hắn nhìn thấy vợ hắn đang làm tình với người đàn ông lạ. Tôi chồm lên bảo thế thì vào vạch mặt chúng nó, làm một trận cho chúng biết mặt chứ. Hắn cúi mặt bảo làm thế để làm gì, dù sao thì chúng nó đã ngủ với nhau, đã làm tình với nhau, coi như gương vỡ rồi, hốt lại được chăng? Làm rùm beng chỉ xấu mặt nhau thôi. Tôi bảo mày lại tốt kiểu tào lao rồi, uýnh một trận rồi ra sao thì ra chứ, sao mà hiền quá vậy? Hắn cười méo mó nói để làm gì chứ. Thế là hắn bỏ vợ mà đi. Hắn ở với tôi mấy ngày rồi đi mất biệt. Mấy hôm sau vợ hắn đến kiếm tôi, bảo anh Nam bỏ đi đâu mất cả tuần nay. Tôi giả vờ hỏi vợ chồng em có gây gỗ gì không? Cô nàng bảo không, vợ chồng em vẫn yêu thương, hạnh phúc lắm mà. Tôi tự nhủ trong bụng con mẹ này kinh thật, đã ngủ với nhân tình mà miệng còn xoen xoét yêu đương với hạnh phúc. Lòng dạ đàn bà khó hiểu thật. Tôi cười nhếch mép mà bảo rằng Nam chẳng thấy ghé đây, cô tìm xem chỗ khác đi, mà tôi nghĩ cũng chẳng nên tìm kiếm làm chi, hắn bỏ đi chắc có lý do gì đấy, nhiều khi cô biết mà cô không nói đấy thôi.

Mấy năm rồi tôi không gặp Nam. Ngày tôi lấy vợ, cố đi tìm hắn mà cũng không tìm được. Đám cưới tôi đơn giản, chỉ có mấy người bạn cùng cơ quan cùng dự. Bố tôi sống bảy năm trong tù rồi cũng chết trong trại cải tạo, thỉnh thoảng tôi cũng nhận thư và quà của em Ngọc Lan gởi về từ Mỹ. Vợ chồng em đã ly dị, giờ em sống một mình ở San Jose, đi làm cho một hãng phần mềm ở đấy, sống cũng khá sung túc, cũng không có đứa con nào. Tôi cứ băn khoăn về Nam, người bạn thân nhất của tôi, giờ không biết trôi giạt phương nào, sống chết ra sao? Đúng lúc không ngờ nhất, Nam lại tìm đến tôi dù tôi đã đổi địa chỉ vì mua được một căn nhà nhỏ trong hẻm cũng ở đường Công Lý. Hắn mời tôi đi ăn đám cưới hắn, hắn bảo lúc trước hắn lấy vợ chẳng cưới hỏi gì, cũng tội nghiệp cho đời con gái người ta. Bây giờ lấy vợ thì nên cưới hỏi cho đàng hoàng. Hắn nhìn mập mạp, hàng râu mép càng tôn lên nét đẹp vốn có của hắn. Nhìn hắn chẳng khác gì diễn viên điện ảnh. Tôi mừng cho hắn. Đám cưới hắn đầy đủ lễ nghi, chỉ thiếu cha mẹ chú rể, tôi làm rể phụ cho hắn, vui lắm. Vợ hắn người Huế, là cô giáo dạy Văn trường trung học khá lớn trong thành phố. Cô ấy ăn nói nhỏ nhẹ, đằm thắm, thuỳ mị, dễ thương khác hẳn nhan sắc rực rỡ của người vợ trước. Tôi tin hắn sẽ hạnh phúc dài lâu. Năm sau thì vợ hắn sinh cho hắn thằng con trai. Hắn mừng lắm, thằng bé đẹp như thiên thần, đẹp trai hơn cả hắn. Hắn bảo tôi làm cha đỡ đầu cho con hắn. Tôi thấy hắn hạnh phúc và đôi mắt, nụ cười của vợ hắn cũng thể hiện điều đó.

Thế mà, chưa được năm năm, một hôm hắn lại tìm tôi, hốt hoảng báo tin vợ hắn đã ôm con bỏ đi đâu mất rồi, hắn tìm khắp nơi không thấy. Đến trường vợ hắn dạy thi trường cho hắn biết vợ hắn làm đơn xin nghỉ dạy rồi. Hắn cuống quýt, hắn buồn đau, hắn nhớ con, hắn thương vợ mà chẳng biết tìm đâu. Tôi với hắn chở nhau đi cả tuần đến những địa điểm mà hắn nghi vợ hắn đến. Nhưng bặt vô âm tín. Tôi cùng hắn mua vé máy bay ra Huế, tìm đến nhà cha mẹ vợ hắn, người nhà vợ hắn cũng ngơ ngác như hắn, chẳng biết cô ấy đi đâu. Hắn không ăn, không ngủ, người gầy rạc đi, râu ria mọc tua tủa, áo quần xộc xệch, suốt ngày lang thang ngoài đường như kẻ điên. Tôi lo cho hắn lắm, khuyên nhủ hắn mãi và hứa sẽ tìm cho ra tông tích của vợ con hắn. Hắn nhớ con, đêm đêm nằm khóc trong lặng lẽ. Vợ trước hắn bỏ đi, vợ sau bỏ hắn đi. Đời hắn cũng quái thật. Lần nào nó cũng đau như dao khứa trong lòng. Lần này nó càng đau hơn vì có đứa con, hắn nhớ con lắm, hắn khóc vì con hơn là vì vợ. Đau buồn làm hắn đổ gục, phải vào nằm bệnh viện cả tháng trời. Bác sĩ bảo hắn bị tâm bệnh chứ tim gan phèo phổi hắn rất tốt, chẳng bệnh tật chi. Bác sĩ cũng bảo nếu như không giải quyết được tâm bệnh, hắn sẽ bị tâm thần và đưa đến điên loạn. Tôi cũng bất lực, không biết giải quyết cách nào ngoài những lời khuyên bảo sáo mòn.

Một lần đi Long Thành thăm một người bạn đi tu ở Thiền viện Thường Chiếu. Lúc về trời bỗng nổi cơn mưa lớn, chúng tôi đành phải vào núp mưa trong một ngôi chùa nhỏ ven đường. Cơn mưa kéo dài, tôi lang thang vào trong và ngạc nhiên khi lại gặp cô vợ người Huế của Nam đang ở đây. Lúc đầu cô ấy né không muốn gặp, gặp rồi lại không muốn nói chuyện. Cô ấy bảo cô chưa xuất gia nhưng đang tu học ở đây, tháng tới sẽ xuống tóc và thành ni cô ở ngôi chùa này. Trời vẫn mưa mãi và tôi cũng nói hết những đau đớn, những nỗi khổ sở của Nam khi không tìm thấy vợ và con. Tôi cũng kể cho cô nghe hiện trạng của Nam bây giờ, sẽ điên nếu không chữa lành nỗi đau trong lòng anh ấy. Đến đó thì cô khóc, cô bảo với tôi là anh Nam là người tốt, quá tốt nên cô ấy không thể tiếp tục sống với anh được nữa vì cô đã lừa dối anh ấy, đã một lần ngủ với người tình cũ khi người ấy từ Mỹ trở về du lịch Việt Nam. Cô ấy đã không giữ được lòng ngã vào người tình cũ, cô hối hận, cô thấy mình không còn xứng đáng với con người quá tốt như anh ấy. Cô cũng đã nhiều lần muốn nói hết cho anh ấy biết để xin tha thứ nhưng cô không dám, cô không nỡ khiến anh ấy đau đớn vì bị phản bội. Cho nên cô đành chọn cách ra đi. Tôi hỏi đứa bé giờ ở đâu? Cô ấy càng khóc nhiều hơn, nước mắt tràn cả mặt. Cô nức nở mãi mới thốt lên được: cháu mất rồi, anh ạ. Rồi lại khóc. Tôi hoảng hốt hỏi tới, tại sao vậy, làm sao mất. Cô bảo cách đây một năm, cũng tại chùa này, cháu ra hồ chơi rồi bị chết đuối. Khi vớt lên thì cháu đã chết rồi. Bởi vậy cô ấy cũng sẽ ở chùa này cho đến già, đến chết để mong vẫn được gần con, để mỗi đêm tưởng tượng ra dáng hình con đang nô đùa cùng mẹ. Cô bảo thôi thì duyên phận của cô và Nam đã hết, đừng báo cho anh Nam biết cô ấy ở đây, đừng cho anh Nam tìm đến làm gì. Nhờ anh cố khuyên nhủ anh ấy, giúp anh ấy chóng khuây khoả để lành bệnh. Còn đời cô xem như đã chết rồi.

Tôi đi về lúc trời đã tối, cơn mưa cũng đã nhẹ hạt, tự nhủ có nên nói cho Nam biết không, có cho Nam tin con anh đã chết không? Lòng tôi rối như tơ vò. Cũng may sau hôm đó Nam cũng ít gặp tôi. Mỗi lần gặp hắn vẫn lầm lì, không nói, không cười, mặt lạnh như tiền, hàm răng cắn chặt và uống rượu như nước lã. Hắn luôn say khướt, khuyên mãi mà vẫn uống, hắn bảo uống để khỏi nhớ. Và rồi đến một ngày, Nam đi mất biệt, không một lời từ giã. Tôi tìm khắp bệnh viện, những nơi hắn thường tới, những chỗ hắn thường ngồi uống rượu, tất cả không có một manh mối nào. Căn nhà của vợ chồng hắn, đã bán từ lâu nhưng tôi cũng vào hỏi hàng xóm xem hắn có về đấy lần nào không, nhưng ai cũng lắc đầu. Hắn ít bạn, toàn bạn rượu, hỏi thì họ cũng chẳng biết gì. Tôi đành buông tay, đầu hàng với số phận biết tìm hắn nơi đâu, biết đâu nẻo đất, phương trời?

Thời gian chẳng đợi ai, tháng ngày cứ vùn vụt trôi đi. Vợ tôi qua đời sau cơn bạo bệnh khi chưa đến lúc gọi là già. Tôi có hai đứa con, cũng đã học ra trường, đã có công ăn việc làm để sống, đã có gia đình riêng. Tôi một mình lủi thủi trong căn nhà vắng. Mỗi chiều đốt nén nhang trên bàn thờ tôi cũng thường khấn nhớ về Nam, thằng bạn thân nhất đời tôi không biết giờ thế nào? Còn sống hay đã chết?

Rồi tôi nhận được thư Ngọc Lan, em báo cho tôi biết vừa gặp Nam ở San Jose, Nam nhắc anh hoài mà không viết thư cho anh vì đã làm phiền anh nhiều quá lại không biết địa chỉ mới của anh vì anh đã đổi nhà. Em có đưa địa chỉ cho anh và Nam hứa sẽ viết thư liên lạc với anh. 

Tôi mừng lắm, mừng mà nước mắt cứ tuôn, mừng vì bạn còn sống, mừng vì bạn đã qua được cơn u uất, mừng vì bạn đã có một môi trường sống khác để có thể xoá nhoà những nỗi đau của quá khứ. Từ đó, tôi và Nam cứ viết thư cho nhau. Nam kể trong những ngày bế tắc, Nam đã về Bà Rịa làm nghề cá và rồi có một chuyến vượt biên, Nam đi theo đến được đảo rồi qua Mỹ nhờ ngày xưa là sĩ quan nhảy dù của quân đội chế độ cũ, Nam bảo gặp được Ngọc Lan, Nam mừng lắm vì ở xứ người gặp được người thân là điều quý giá vô cùng. Thời gian sau nữa, tôi lại nhận được thiệp cưới cùng lời xin phép của Nam được cưới Ngọc Lan. Tôi vui. Cuối cùng, hai đứa cũng đến được với nhau. Hai đứa là tình đầu của nhau, mong cũng là tình cuối của hai người. Hai con người cô đơn trên đất khách giờ đây được hạnh phúc bên nhau, còn gì vui hơn. Thằng bạn thân lấy em gái mình sau những đổ vỡ của cuộc đời, sau những phũ phàng, có phải đó là duyên phận trải qua những thử thách.

Họ sống hạnh phúc với nhau được bảy năm, không có con nhưng căn nhà tràn ngập tiếng cười. Đến năm thứ bảy thì Ngọc Lan bị ung thư, y học không cứu được và qua đời trên tay Nam, mặt Nam đầy nước mắt. Tôi biết Nam đau khổ vô cùng, có lẽ còn đau nhiều hơn hai lần trước. Tôi thương cho người em gái vắn số nhưng không qua đó được để tiễn em làn cuối cùng. Tôi nghe tin mà sững sờ. Đến lúc này thì tôi tin lời của ông Huỳnh Liên, đời Nam đau khổ và luỵ vì đàn bà, đời tôi tuổi già cô quạnh. Buồn quá là buồn.

Giờ đây Nam đã về hẳn Việt Nam, sống cùng tôi. Chiều chiều hai thằng ngồi bên bờ kè nhìn nước chảy. Nước trôi về đâu? Chẳng biết. Nhìn mây bay, hỏi mây về đâu? Chẳng hay. Hỏi mình sẽ về đâu trong mốt mai, không ai trả lời. Có nhiều người cứ bảo hai ông này còn ngon quá, sao không kiếm mỗi người một bà cho vui tuổi già? Hai thằng nhìn nhau cười, nghĩ trong lòng cái số đã thế thì chịu số cho rồi, vẫy vùng làm chi nữa cho khổ người, khổ ta.

8.6.2021

DODUYNGOC



Thời sinh viên Kim là bạn học cùng lớp với tôi. Nhà Kim nghèo, mẹ bán chuối ở phía ngoài chợ, không có sạp, nắng mưa rất khổ. Tuy vậy, Kim lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề, dù không phải là hàng hiệu hay may ở những nhà may lớn nhưng nhìn cũng khá mốt. Lúc đấy tôi là sinh viên xa nhà bụi đời nên nghèo rớt mùng tơi, cơm ba bữa còn thiếu lên thiếu xuống nên chẳng quan tâm đến áo quần. Hồi đó có chợ áo quần cũ ở đường Hàm Nghi và khu Dân Sinh, tôi thường ra đấy lựa cái nào còn khá, mua với giá rẻ về mặc. Đó thường là đồ viện trợ của các tổ chức từ thiện quốc tế nên không có cái nào giống cái nào, mặc vào cũng là hàng độc. Kim thường phê bình cách ăn mặc của tôi, hắn cho là không đứng đắn và trông có vẻ túng bấn quá. Ái chà một thằng con nhà nghèo tận đáy lại chê bai thằng bụi đời cũng nghèo tới háng. Lạ nhỉ! Sau đó tôi biết hắn là thằng sống bằng vẻ bề ngoài, chuộng hình thức, tự ti với hoàn cảnh gia đình nên lúc nào cũng cố giấu cái thân phận hèn mọn của mình.
Tụi tôi ra trường đi dạy học, Kim đổi về miền Tây còn tôi thì cứ mãi lông bông làm từ báo này giạt qua báo khác. Đến cái thời mọi người chộn rộn đi ra phía biển tìm đường sống, nghe tin Kim cũng đã vượt biên và sau đó định cư ở Mỹ. Bạn bè thất lạc nhau từ đấy.
Mấy chục năm sau, Kim về Việt Nam du lịch có gặp tôi. Tôi dẫn Kim đến các quán ăn, các quán cà phê và mấy phòng trà ca nhạc. Đến đâu Kim cũng chê dơ, chỗ nào Kim cũng chê bẩn. Vào quán ăn, mà tôi toàn dẫn Kim đến những quán nổi tiếng của đất Sài Gòn, Kim đòi nhà hàng rửa đũa muỗng, tô chén lại bằng nước sôi trước khi ăn. Tôi bực mình ra mặt. Kim bảo ba thứ nước ở đây đầy chất hoá học, uống vào nguy hiểm, sinh bệnh. Ăn vài miếng hắn chê dở quá, nấu không đúng điệu. Ngồi trong xe taxi, Kim liên tục bịt mũi và bảo rằng xe hôi hám quá. Ngồi phòng trà thì hắn nói người ta không vệ sinh hay sao mà ai cũng có mùi và ăn mặc nhếch nhác thế. Nói chung là đi đến đâu anh chàng cũng chê và bảo lạc hậu, thiếu văn minh. Tôi không hiểu hắn làm vương làm tướng gì bên Mỹ mà làm ra vẻ thế. Bạn bè cũ muốn gặp mặt nhân dịp Kim về, hắn khệnh khạng đến trễ, mũi như con thú đánh hơi rồi bảo nhà hàng có mùi gì khó chịu quá. Bạn bè lâu ngày gặp lại, muốn bắt tay hắn, hắn quăng cục lơ. Đến khi thức ăn dọn ra, hắn chẳng động đũa món nào, mọi người ngạc nhiên nhưng riêng tôi thì biết hắn sợ trúng độc vì nghe nói ở Việt Nam thức ăn toàn tẩm hoá chất. Mọi người thấy vậy thì rất bực mình. Từ đó chẳng có ai liên lạc với hắn cho đến ngày hắn về lại Mỹ.
Năm sau tôi có việc qua Mỹ giải quyết một số công chuyện. Theo kế hoạch có một tuần ở thành phố Houston. Gặp một số bạn cùng lớp, ngồi tụ tập nhau tôi hỏi thăm về hắn. Ai cũng lắc đầu bảo đụ mẹ thằng Kim qua đây đi học lại lấy được bằng kỹ sư, sau đó làm việc trong nhà máy mà hắn cứ tưởng là oai lắm, làm như nhà khoa học vĩ đại, cách ly bạn bè. Hắn có giàu có gì đâu, mà lúc nào cũng làm như quý tộc từ thuở nằm nôi, giờ chuẩn bị về hưu. Bạn bè cũ ngày xưa chung lớp không còn ai chơi với hắn. Nghe nói năm ngoái hắn có về Việt Nam, mày không gặp hắn à. Tôi ừ hử cho qua chuyện. Từ đó tôi chẳng quan tâm đến hắn nữa. Vừa rồi nghe tin hắn qua đời vì bệnh Virus Vũ Hán. Dù chẳng còn cảm tình chi với hắn nữa nhưng lòng cũng buồn vì vĩnh biệt một thằng bạn cũ.
Lại thêm một cô bạn, rời Việt Nam đâu từ ngày 27.4.75 vì có người yêu là sĩ quan không quân. Mấy chục năm gặp lại, tôi cũng mời đi ăn ở nhà hàng cơm niêu Sài Gòn. Khi thấy cơm cháy, cô ta làm bộ ngơ ngác gạo này là gạo gì mà nấu cứng và vàng thế. Tôi hơi quê rồi nghe. Thấy dĩa mè đậu cô cũng hỏi là cái gì? Bà mẹ nó, nó rời Việt Nam khi đã hai lăm tuổi chứ có phải là đứa con nít còn ẵm ngữa đâu mà không biết cơm cháy với muối mè. Chẳng qua làm bộ cho có vẻ người Tây, người Mỹ vậy mà. Từ đó tôi cũng Au revoir luôn. Sao phải làm ra vẻ chi vậy nhỉ?
Có một thời kỳ, nhất là khi chưa có bang giao Việt Mỹ, chưa bỏ cấm vận, nhiều người ở nước ngoài cứ tưởng mình là người đem văn minh về từ một quốc gia hùng cường, giàu có nhất thế giới. Dưới mắt họ xứ xở này dơ bẩn, lạc hậu, thiếu ánh sáng văn minh như vùng đất Châu Phi. Những thiết bị, đồ dùng của họ hiện đại xứ này làm gì có. Sau này đi về dễ dàng, người trong nước đi qua Mỹ, sang Tây chơi là chuyện bình thường thì nhiều người đã thay đổi cách nhìn khác hơn trước, không còn đóng kịch chảnh chó như cũ nữa. Tôi mất hai người bạn cũng từ cách làm ra vẻ ấy.
10.5.2021
DODUYNGOC



Sau một hồi nói chuyện qua điện thoại, Dung báo cho tôi:
“Bác biết chuyện gì xảy ra cho ba cháu chưa?”
“Chưa. Chuyện gì?“
“Ba cháu đã vào chùa, xuống tóc đi tu từ hơn nửa năm nay. Ba cháu hiện tu ở một chùa gần thành phố bác ở. Ba cháu không cho ai biết chuyện ông đi tu. Giấu không cho biết tu ở chùa nào. Cháu mới tìm ra. Cháu định tháng tới qua thăm, và rủ bác cùng đi thăm luôn. Gặp bác chắc Ba cháu mừng lắm.”
“Bác cũng mong gặp ba cháu. Lâu rồi, ba cháu và bác chưa gặp lại nhau. À, mà sao ba cháu có quyết định đi tu? Tại sao lại phải giấu chuyện tu hành. Ði tu, chứ có phải đi tù đâu mà giấu diếm. Còn mẹ cháu thì sao?”
Dung ậm ừ, như không muốn nói. Một lúc sau mới trả lời:
“Mẹ cháu vẫn bình thường. Vẫn oai phong như cũ. Thật ra ba cháu không cho ai biết tu nơi nào, vì sợ mẹ cháu đến phá đám. Bốn tháng trước, ba cháu tu tại một chùa gần West Virginia, mẹ cháu đến làm ồn ào, bắt ba cháu trở về. La mắng cả sư cụ, xỉ vả ông ta đủ điều, còn phao vu lên là sư cụ đồng tính luyến ái với ba cháu. Thiệt tình! Mẹ cháu nói rằng, ba cháu đức mỏng, đừng tu làm chi cho phí công. Lỡ có lên được niết bàn, cũng chỉ đi bưng ống nhổ cho thiên hạ, vì kém công đức. Về địa ngục, may ra còn được đi làm thơ ký, gác gian, đỡ nhọc nhằn hơn, bởi tội lỗi cũng không nhiều lắm. Nhà chùa khuyên ba cháu đi tìm nơi khác mà tu. Ý họ muốn đuổi khéo. Ba cháu ra đi, như đi trốn. Thật buồn.”
Tôi cười khà khà, rồi an ủi Dung, người con gái út của bạn cũ:
“Thôi, cháu đừng buồn. Ði tu là giải thoát khỏi mọi khổ đau, hệ lụy. Biết đâu rồi Ba cháu cũng thành một Đức Phật nho nhỏ nào đó. Cháu biết không, ngày xưa Ðức Thích Ca Mâu Ni nửa đêm cũng trốn hoàng cung ra đi, bỏ lại vợ con, ngai vàng, để tìm đạo. Trường hợp ba cháu, sao cũng có phần tương tự.”
“Thôi, để gặp bác, cháu sẽ nói nhiều hơn. Không chừng bác có thể khuyên ba cháu trở về. Ba cháu chỉ còn có bác là bạn thân nhất, chưa buồn giận ba cháu mà thôi. Ba cháu thường hay nhắc đến bác với giọng thân thiết lắm.”
Hai tuần sau, tôi lên phi trường San Francisco đón Dung, con gái út của Hùng, người bạn cũ từ thời còn cắp sách đến trường. Hai bác cháu từ nhiều năm không gặp, mà nhận ra nhau ngay. Dung giống mẹ của cháu thời còn con gái. Nhỏ nhắn, trắng trẻo, mặt hơi xương, có nụ cười toét hai vành môi ra đến mang tai, nụ cười tinh nghịch, dí dỏm. Ba mẹ của Dung đều là bạn cũ ngày xưa. Thật ra, thì mẹ Dung là em gái của bạn tôi. Tôi biết bà từ khi mũi xanh còn hít vào trồi ra và dùng tay áo mà quẹt mũi. Bà xem tôi như ông anh trong gia đình, hay vòi vĩnh bánh quà.
Dung ôm ngang người tôi và nói:
“Lạ thật, bác không thay đổi gì cả, cháu nhận ra bác ngay. Tóc bác còn dày và đen. Ðầu ba cháu hói láng, chỉ còn cái vành tóc thưa sau đầu mà thôi”.
Tôi cười với cháu:
“Ðầu bác là ‘phồn vinh giả tạo’ cháu à. Bác nhuộm tóc. Còn ba cháu, thì có tóc đâu mà gọi là xuống tóc đi tu? Ông ta đã là sư cụ từ lâu rồi mà!”
Hai bác cháu cùng về trên con đường xa lộ có xe cộ nêm cứng và khói bụi lù mù. Cái giọng nói nhão nhẹt, ướt rượt kéo dài những tiếng sau cùng của Dung, làm tôi nhớ đến bà Thu, mẹ của Dung. Bà là người con gái út trong một gia đình toàn anh trai, nên được cưng chìu, và nhõng nhẽo với các anh, với cha mẹ, và cả với mọi người chung quanh. Bà thông minh, học giỏi, ganh đua với bạn bè, không chịu thua ai. Khi lên đại học, bà đỗ ba cái bằng cử nhân cùng một năm. Thông minh, học giỏi nên bà thường kiêu hãnh. Bà lạm bàn cả chuyện chính trị, kinh tế. Nhiều khi bà nói hăng say đến nước bọt đóng trắng bên mép. Mỗi lần có vấn đề lâm vào một cuộc tranh luận với bà, thì tôi thường thoái thác:
“Thôi, anh chịu thua cô. Khi nào cô cũng có lý hơn người khác cả. Tội gì mà tranh luận thắng cô, để cô nhè nước mắt ra, ai mà dỗ cho được.”
“Thua thì phải có chầu phở, bún bò gì chớ. Thua không thôi thì ai mà chịu cho.”
Rồi bà cười hăng hắc thích thú, không giữ gìn ý tứ gì cả.
Tôi liếc nhìn qua cô cháu gái đang ngồi, hai tay đan nhau, tôi nói:
“Cháu giống mẹ cháu quá. Từ dáng điệu cho đến giọng nói.”
Dung có vẻ không bằng lòng sự so sánh của tôi. Mặt cháu hơi buồn. Im lặng một lát, Dung nói nho nhỏ:
“Không giống đâu bác à. Mẹ cháu cứng rắn lắm. Cháu thì mềm yếu, có lẽ cháu giống ba cháu nhiều hơn.” Tôi nói nho nhỏ:
“Ðúng. Mẹ cháu cứng rắn. Bác biết điều đó từ thời bà còn nhỏ. Nhưng có chết ai đâu?” Dung nói nhỏ như hơi thở:
“Có. Chết một đời ba cháu.”
Hai bác cháu im lặng cho đến khi về đến nhà. Vợ tôi đón và thân mật ôm lấy Dung: “Trời, cháu giống hệt mẹ cháu.” Dung lại thoái thác:
“Không giống đâu bác.”
Vợ tôi không hiểu ý nói tiếp:
“Giống hệt như đúc ra từ một khuôn. Từ dáng điệu, cử chỉ, và nhất là giọng nói, ướt và ngọt như mật đổ ra đầy bàn. Thôi cháu thay áo quần, tắm rửa đi mà ăn cơm. Ðường xa, bay nhiều giờ mệt nhọc. Tiếc hai thằng con trai của bác lấy vợ sớm quá, không thì cháu về làm dâu nhà bác cũng vui.”
Trong bữa ăn tối, Dung đưa nhận xét:
“Hai bác sao hạnh phúc quá. Tâm đầu ý hợp. Bác trai nói gì, bác gái cũng đồng ý vui vẻ. Bác gái nói gì, bác trai cũng phụ họa, thân mật. Ba mẹ cháu không được như vậy. Mẹ cháu khi nào cũng đầy cả uy quyền. Khi nào cũng khích bác, chê bai. Ba cháu thì có khi im lặng đến rợn người.”
Vợ tôi nói với cháu:
“Cãi nhau làm chi hở cháu? Vợ chồng tranh hơn thua làm chi? Hơn thì được cái gì, mà thua thì bực mình, và gia đình mất vui. Ngày xưa, bác cũng thích cãi vã, hay cằn nhằn, nhưng rồi học được trong sách vở, học được từ bạn bè, thay đổi dần dần, và thấy không khí gia đình vui vẻ, thân mật, ấm cúng hơn. Hạnh phúc gia đình phải tạo ra, không phải tự nhiên mà nó đến với mình. Trồng cây cũng phải tưới bón đều đặn, hạnh phúc gia đình cũng phải xây dựng, chăm bón không ngừng.”
Dung nhìn vợ tôi với ánh mắt hơi buồn và hỏi:
“Mục tiêu tối thượng của con người trên thế gian nầy là đi tìm hạnh phúc, thế mà sao không có một ngôi trường nào mở ra, để dạy cách sống hạnh phúc cho mọi người? Trường dạy về khoa học, nhân văn, xã hội thì quá nhiều. Nhưng cái môn học quan trọng nhất là sống sao cho hạnh phúc, thì không có một ngôi trường nào cả, cũng không là một bộ môn nhỏ của những trường lớn. Sao vậy hở bác?”
Nghe câu hỏi ngộ nghĩnh, tôi cười:
“Có chứ, có khắp nơi. Ðó là nhà chùa, nhà thờ, đền thánh. Ở những nơi đó, các vị tu sĩ cũng giảng dạy tín đồ, sống sao cho hạnh phúc. Tìm hạnh phúc cho riêng mình, và đem hạnh phúc rải rắc cho những người bất hạnh chung quanh. Kinh điển dạy con người làm lành, tránh ác. Ðem kiếp sau ra hù dọa, để ngăn ngừa cái ác, cái xấu. Phải biết kiêng, biết sợ một cái gì đó, mới dễ dàng ngăn cản cái xấu trong mỗi người bùng dậy. Ngoài ra, còn có những khóa hội thảo, sách viết về hạnh phúc cũng tràn đầy trên thị trường, đọc không hết, sợ không đủ tiền để mua. Ngay cả kinh Phật, kinh Thánh, kinh Koran cũng là những cuốn sách dạy về hạnh phúc đó cháu à.“
“Không. Cháu muốn nói đến một ngôi trường chính thức, để người ta theo học một cách nghiêm chỉnh. Có cấp bằng, có thi cử đàng hoàng. Có học kỹ mới thấm, chứ đọc qua, nghe qua, thì mau quên lắm, và chỉ biết lơ mơ, nhớ lơ mơ cho nên không thi hành những điều học được. Bởi vậy, nên trên thế gian nầy, chính con người làm khổ con người nhiều nhất. Con người gây rắc rối cho con người nhiều nhất. Bác có đồng ý không?”
Tôi nhìn Dung, tuổi trẻ mà có những ý nghĩ chín chắn, lạ lùng. Chuyện gì đã xẩy ra trong đời cháu, để cháu có những suy tư đó? Dung ngần ngại nhìn hai vợ chồng tôi và tiếp:
“Bác không đồng ý là chính con người gây tai vạ, gây khổ đau cho con người nhiều hơn là thiên tai, thú dữ và các thứ khác sao? Từ tranh chấp thế giới, chiến tranh, cho đến tranh chấp chính trị, tranh chấp quyền hành. Con người bày ra để làm khổ nhau, trong lúc đó, khi nào cũng hô hào, tuyên bố rằng nhân danh hạnh phúc, để tạo ra những khổ đau, khó khăn cho người khác. Cháu thấy trong các cơ sở chính phủ, cơ sở kinh doanh thương mãi, và cả những người hành nghề tư nữa, lâu lâu cũng có một khóa tu nghiệp. Ðể người ta ôn lại nghề nghiệp, và theo kịp các kỹ thuật tân tiến, để khỏi thụt lùi và lạc hậu. Nhưng không có lớp tu nghiệp nào về hạnh phúc gia đình. Ðể người ta nhắc nhở và dạy bảo đúng cách làm cha mẹ, làm con cái, làm anh em, làm chồng làm vợ. Không trường, không lớp, cho nên mỗi người tự học lấy, tự tìm lấy, có người may mắn học được những điều hay, tốt, có người thiếu may mắn, không học được gì cả, hoặc học được toàn điều xấu xa, mà không biết đó là xấu, là nguy hại, là phá vỡ hạnh phúc mà họ đang kiếm tìm. Cháu nghĩ là phải có những khóa tu nghiệp thường xuyên về gây dựng hạnh phúc, mà mỗi người làm cha, làm mẹ, làm con, làm chồng làm vợ, phải tham dự hàng năm, hoặc hàng hai năm một lần. Ðể đừng quên, để nhắc nhở, để học thêm. Bởi cuộc đời nầy, tiền bạc, danh vọng, tiếng tăm, cũng chỉ để mà tìm kiếm và vun xới cho hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc gia đình mà thôi. Quan trọng như vậy, mà thiên hạ không đặt thành vấn đề. Những người cầm quyền, nhân danh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cũng không có một ngân khoản, một cơ quan chính thức nào chăm lo cho vấn đề quan trọng nầy.“ Tôi nói đùa:
“Hay là cháu mở một cơ sở kinh doanh, một trường đại học dạy hạnh phúc gia đình, hạnh phúc cá nhân. Kêu gọi các nhà đầu tư, bán cổ phiếu sinh lời. Một ngôi trường đại học mới, cho tất cả mọi công dân, là môn học bắt buộc, là môn tu nghiệp phải có hằng năm, không thì bị phạt vạ.”
Cả ba chúng tôi đều cười vui vẻ. Dung nói tiếp trong ánh mắt tinh nghịch:
“Phải đó bác à. Gia đình lục đục, li dị, con cái hư hỏng, gây tội ác, vợ chồng giết nhau, tốn kém ngân sách của quốc gia nhiều lắm, dân chúng phải đóng thuế để trang trải cho cái thiếu hạnh phúc trong xã hội. Phí tiền quá. Bác nói trường đại học? Cháu nghĩ rằng, phải mở lớp từ sơ đẳng trở đi. Vì cháu thấy nhiều gia đình, nhiều người lớn tuổi, có đủ thứ bằng cấp, bằng cấp cao, mà xử thế như một kẻ không có chút hiểu biết nào về ý niệm hạnh phúc. Phải xem họ như những kẻ thất học về bộ môn xây dựng hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người chung quanh. Có thể họ thông thái về khoa học, nhân văn, xã hội, nhưng họ là một kẻ thất học về thứ khác, thứ mà họ cố công theo đuổi trong đời người: hạnh phúc.”
Vợ tôi tròn mắt ngạc nhiên nhìn Dung. Buổi tối trước khi ngủ, vợ tôi thầm thì:
“Khổ đau nào đã làm cho con bé chừng đó tuổi có những ý nghĩ lạ lùng kia? Tội nghiệp. Trường dạy hạnh phúc? Ðâu phải là vô lý. Ðời cũng là một trường học, mà phải vấp ngã, phải đớn đau, mới nhận chân ra ý nghĩa, tìm được phần chân lý.”
Tôi thao thức nghĩ đến bà nội tôi, học vấn của bà rất ít, chỉ đọc được năm ba chục chữ nho. Bà dạy con, dạy cháu qua ca dao, tục ngữ, ngạn ngữ. Việc nào cũng có một câu thích ứng, khôn ngoan để nói ra. Nhắc đi nhắc lại mãi, làm nó len vào ký ức của con cháu, không thể quên, không phai được. Những câu như: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Chồng giận thì vợ làm ngơ, đừng đổ thêm dầu lửa vở nhà thiêu. Một câu nhịn là chín câu lành. Thương người như thể thương thân. Ðiều mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Anh em như thể tay chân. Ðược mùa chớ phụ môn khoai. Vân vân và vân vân.” Trong đầu bà tôi, có cả một kho tàng ca dao, những câu nói khôn ngoan của người xưa, mỗi ngày bà nhắc đi nhắc lại cho con cháu nghe, như những lời hướng dẫn cách ứng xử trong cuộc đời thường. Ông anh con bác tôi, thường chế nhạo bà, sửa câu nói của bà, mà cười, và nói thầm với tôi: “Một lần nhịn là chín lần nó cưỡi lên đầu mình. Anh em như thể râu ria. Ðược mùa thì tội gì mà đớp môn khoai...” Ðó là thời anh còn nhỏ, lớn lên, tôi cũng nghe anh dạy con cái bằng những ca dao mà mà bà tôi thường nói ngày xưa.
Buổi sáng thứ bảy, sau bữa điểm tâm, tôi chở Dung lên chùa thăm ba của cháu. Trời mát, nắng vàng, cỏ cây xanh tươi. Xa lộ vắng, ít xe, tay lái khoan thai, và trí óc thư dãn. Tôi vặn nhạc. Tiếng nhạc vui tươi, dồn dập, như đổ thêm nguồn sống đất trời.
“Trời đẹp quá bác nhỉ. Nhạc vui làm tinh thần hăng hái thêm. Có khi nào bác nghe nhạc buồn không? Nhạc Việt Nam mình, nhiều bài nghe buồn đứt ruột, buồn đến rã rời thân xác, mềm nhũn tâm trí ra.”
“Có, thỉnh thoảng bác cũng nghe nhạc buồn. Ðể khơi một chút đau đớn, một chút nhớ thương, đưa hồn đi lạc về kỷ niệm xa xưa. Cũng là một chút khoái lạc trong xa xót mênh mang. Nhưng chỉ thoáng chốc thôi và không thường xuyên. Hai bác thường ngày nhắc nhủ nhau rằng chuyện không vui thì quên liền đi, chuyên bực mình đừng than vãn, rán nói với nhau những chuyện vui, những lời tử tế.“
“Lạ thật, chưa ai dạy cho nháu những điều bác vừa nói. Ba mẹ cháu ít khi nói chuyện với nhau bằng giọng tử tế cả. Có thể nào ... bác khuyên khéo ba cháu trở về với gia đình không? Mẹ cháu buồn lắm, cứ ngẫn người ra, cháu sợ mẹ buồn mà phát bệnh, thì khổ lắm.”
“Ðể xem, bác không dám hứa, nhưng thuận tiện thì bác sẽ nói.”
Hai bác cháu vào chùa. Chùa là một đơn vị gia cư được sửa lại, phòng khách lớn làm niệm Phật đường. Có một tượng Phật ngồi mà cái đầu quá to và dài so với thân mình. Phần nhà xe được nới rộng, che mái chạy dài ra ngoài sân sau, làm trai phòng. Sư cụ đưa chúng tôi ra sau vườn. Hùng, bạn tôi, bố của Dung, mang bà-ba màu tro nhạt, đang ngồi giặt áo quần bằng tay, bên vòi nước. Hùng ngững đầu lên nhìn, với vẻ ngạc nhiên. Hai tay anh còn dính đầy bọt xà phòng. Anh vội vã đứng dậy, ôm chầm Dung và tôi vào hai vòng tay mừng vui, nói: “Khỉ. Ai cho các người tới đây quấy rầy kẻ tu hành!”
Tôi trả lời:
“Phật có cấp giấy phép cho tôi đến thăm ông. Ðừng lộn xộn. Tu là bỏ hết bạn bè, bỏ con cái hay sao?”
Bạn tôi xả xà phòng bộ áo quần nâu, và treo lên dây phơi nắng, như ngày xưa còn ở Việt Nam. Dung nhìn theo bố với ánh mắt thương cảm:
“Ở đây không có máy giặt hay sao?”
“Chùa không có. Chỉ giặt một bộ thôi, giặt tay cho mau. Ba chỉ có hai bộ quần áo để thay đổi. Hai ngày, thay ra thì giặt liền.”
Hùng đưa chúng tôi vào trai phòng, ngồi trên băng dài nói chuyện. Trà đậm chát trong bình thủy được rót ra ba chén nhỏ. Hùng cười, nụ cười rất hiền và đầy thương mến, hỏi Dung:
“Cả nhà vẫn bình thường chứ?”
Dung nhìn bố, chớp mắt, buồn buồn, giọng hơi hạ xuống:
“Không bình thường ba ạ. Mẹ con xuống tinh thần, và mong ba trở về sớm.”
Hùng nhìn con gái, rồi nhìn tôi. Hơi lúng túng, sau một tiếng thở dài, Hùng nói một hơi dài:
“Dung à. Nhân sẵn có bác đây, ba nói ra cho con nghe, cũng để bác chia sẻ tâm sự của ba. Ba muốn nói với bác từ lâu, mà chưa có dịp. Ðời ba, có ba lần sung sướng nhất, xem như chết đi sống lại. Lần thứ nhất là ra khỏi trại tù cọng sản. Ðược ra tù, ai mà không sung sướng cho được, nhất là thứ tù mà không có án, không có thời hạn giam giữ. Lần thứ hai là khi vượt biên, đặt chân lên đất Mã Lai, dù bị dân họ đánh đập, xua đuổi, nhưng thấy được ánh sáng tự do trước mắt. Mừng đến khóc. Và lần thứ ba, ra khỏi chính nhà mình, vào chùa đi tu. Ba thấy mình như một tên tù chung thân thoát được ngục tù. Trong ba lần đó, đem so sánh, thì lần sau cùng nầy là sung sướng nhất, khoan khoái nhất. Ba là một kẻ nhu nhược, hèn nhát. Ba tên là Nguyễn Hổ Hùng, ba xấu hổ với cái tên của mình. Chẳng có hùng hổ tí ti nào cả. Ðáng ra, phải đổi thành Nguyễn Dun Dế mới đúng. Chính ba cũng tự khinh mình. Tại sao? Tại vì ba thương các con, không muốn các con thấy gia đình lục đục, mất hạnh phúc. Không muốn gieo vào tâm trí non nớt của các con những muộn phiền về một gia đình thiếu hòa thuận. Nó sẽ có thể ảnh hưởng đến suốt đời, ảnh hưởng tới việc học, tới tương lai sau nầy của các con. Nhưng ba cũng đã làm gương xấu cho các con về sự bất lực, yếu đuối, bị ức hiếp, chèn nén mà nín lặng chịu đựng. Mẹ con đã ức chế ba trong mấy chục năm nay. Nói ra thì xấu hổ, nhưng có thực, ban đầu thì vì muốn yên nhà yên cửa mà chịu nhịn, nhưng dần dà về sau, nó thành nỗi hèn nhát, sợ hãi. Cái sợ nó xâm chiếm trong ba, không biết từ bao giờ, nhưng lo sợ thường trực. Sợ mẹ con. Khi nào cũng nơm nớp sợ. Nghe tiếng mẹ con ho cũng giật mình, nghe tiếng dép của mẹ con, trong lòng cũng không yên. Nghe tiếng mẹ con nói gì đó với ai, cũng lo là lỡ mẹ nói với ba, mà ba không nghe kịp, thì sẽ có gây gỗ, có lôi thôi. Trở thành phản xạ có điều kiện, như con chó trong thí nghiệm tâm lý, cứ nghe tiếng chuông là chảy nước miếng. Ba sợ mẹ con gây gỗ, khóc lóc, cằn nhằn, nói những điều khinh bạc làm ba đau đớn, gán cho ba những tội lỗi mà ba không sai phạm. Sự lấn ép của mẹ con, mỗi ngày một chút, từ từ, tiệm tiến, nhưng vững chắc và quá đáng.
Ngay từ khi ba mới bảo lãnh được cho mẹ và các con từ trại tị nạn đến Mỹ, mẹ con ngày đêm khóc lóc, tra hỏi ba làm gì trong bao nhiêu năm, mà không mua được căn nhà, phải đi ở thuê. Mẹ con còn nói là ba không gởi tiền về giúp đỡ. Không gởi tiền về, làm sao mà mẹ sống phong lưu, và đi vượt biên mấy lần mất tiền, bị lừa. Không gởi tiền về thì làm sao mà đi vượt biên được. Hồi ba mới đến Mỹ, tiếng Anh tiếng u còn ấm ớ, nghe không được, nói không ra hơi, phải đi làm lao động chân tay, lương tối thiểu. Công việc thì khi có, khi không. Làm một lúc ba việc, ba nơi khác nhau. Ngày đi làm thợ gói hàng, tối đi làm an ninh canh gác, thứ bảy chủ nhật theo các nhóm người xứ Nam Mỹ đi hái trái ớt, hái dâu cho các nông trại. Trời nóng như lửa đốt trên lưng. Làm việc lãnh lương theo khối lượng dâu, ớt hái được. Cong lưng trên ruộng dâu suốt ngày, cái lưng đau như muốn gãy đôi. Hai tay thì đen kịt như nhúng bùn vì màu nhựa cây, phải chờ lột da mới hết đen điu. Mỗi đêm chỉ ngủ có ba bốn giờ. Bao nhiêu tiền làm được gom góp gởi về cho mẹ con, hy vọng có ngày gia đình sớm đoàn tụ. Ba chỉ ăn mì gói, hột gà, gà kho quanh năm. Nhà cũng không dám thuê, chỉ chia phòng ở trọ. Thế mà mẹ con cứ khóc lóc, cả ban ngày, ban đêm, những khi đi chợ, đi chơi, hỏi tiền để đâu cả. Ðem cho con bồ nào. Những dằn vặt nầy, kéo dài cho đến gần cả chục năm cũng chưa dứt. Ba khổ tâm lắm, giải thích cách nào mẹ con cũng không nghe, không chịu hiểu. Ban đầu thì không hiểu, nhưng về sau, thì giả vờ không hiểu. Ba cũng thông cảm, vì không phải chỉ mình ba bị ở trong hoàn cảnh nầy, mà nhiều bạn bè ba cũng phải chịu cái dằn vặt tương tự của những người vợ qua sau. Hỏi sao ai cũng mua nhà cả, mà ba không mua được. Tiền để đâu? Phải cả hai vợ chồng cùng đi làm, và làm công việc có đồng lương kha khá, mới gồng mình lên mua được căn nhà. Chứ mới qua Mỹ, chưa có việc chuyên môn, chưa có việc lương khá, và bao nhiêu tiền dể dành, thì lo chuyển về Việt Nam cho vợ con cả. Lấy gì mà mua nhà. Ai bán cho. Ngân hàng nào cho vay. Mà có mua được, cũng làm sao có tiền trả hàng tháng? Mẹ con than vãn, so sánh với những gia đình khác. Khi nào cũng thở dài, thở ngắn, cằn nhằn và chê bai. Ba cũng đã làm hết sức mình, nhưng không làm sao cho mẹ con bằng lòng. Có lẽ ba cũng có phần lỗi, vì không đủ tài cán, không đủ may mắn để làm ra thật nhiều tiền, và có những phương tiện vật chất như mẹ con mong muốn.
Trong nhà, ba như một tù nhân, một tên đầy tớ, một tên nô lệ. Mẹ con như một bà chủ, một bà mẹ chồng khắc nghiệt đời xưa, luôn luôn dòm ngó, phê bình, nạt nộ ba. Ba co rúm người lại trước cái nhìn quắc mắt của mẹ con. Trong bữa ăn, nếu ba vô tình làm rớt hạt cơm, hay chút thức ăn ra bàn, là mẹ con mắng ba xối xả, chê bai và nói những lời tàn nhẫn trước mặt con cái, trước mặt bà con, họ hàng. Bởi vậy, nên trong mỗi bữa cơm, trong lòng ba cũng không yên, cũng lo lắng sợ vô tình làm rớt giọt canh, rơi cọng rau. Mất hết cả tự nhiên, mất hết cả sinh thú trong khi ẩm thực. Lo lắng, khi nào cũng lo lắng không nguôi. Còn mẹ con thì làm đổ cả tô canh, làm rớt cả dĩa thức ăn ra sàn nhà, vỡ tan tành, cũng không ai dám nói một lời nhỏ. Những lúc nầy, ba chỉ an ủi mẹ con là không can gì, ai cũng có lúc sẩy tay. Nói lời an ủi, mà cũng sợ bị quật lại bằng những câu nói đau lòng.
Khi ba quét nhà, lau chùi bàn ghế, mẹ con cũng đưa mắt dòm ngó vào các hốc kẹt để tìm cọng rác bỏ sót, đưa ngón tay quẹt vào góc bàn, xem có còn bụi bám hay không. Ðể rầy rà ba, chê ba cẩu thả, làm biếng. Và bắt ba phải quét lại, chùi lại. Khi ba rửa chén bát, mẹ con cũng đứng chỉ huy và cằn nhằn, tại sao không rửa cái nầy trước, cái kia sau, và giảng giải về cách tổ chức công việc cho khoa học. Ba đã từng rửa chén bát nồi niêu ở nhà hàng, cả ngàn cái mỗi ngày, chưa có ông chủ bà chủ nào chê bai than phiền cả. Những khi ba đang dở tay làm một công việc gì đó, như đang đứng trên thang cưa cây, hoặc sơn lại bức tường, mà mẹ con nhờ làm việc khác, dù việc nhỏ nhặt đến đâu, cũng phải buông tay mà làm ngay, không làm liền là có ồn ào, làm liền thì mẹ con lại chê bai trách mắng ba tại sao không dẹp cái thang, tại sao còn để thùng sơn đó. Việc gì ba làm, mẹ con cũng trách móc, uống nước chưa xong, mẹ con cũng lườm mắt hỏi sao không cất cái ly ngay, và chê ba làm biếng. Cất con dao vào chạn, mẹ con cũng kiếm cớ mà phàn nàn, nhăn nhó. Áo quần đang thay, chưa cất kịp, cũng la hoảng lên. Con biết hết những điều đó. Ba nhắc lại cho bác nghe, để bác biết cho tình cảnh của ba. Mỗi lần lái xe cho mẹ con đi đâu, là cả một cực hình, dọc đường, cứ thế mà mẹ con ra rả than vãn đủ chuyện, chê trách ba đủ điều, bới móc chuyện xưa từ mấy chục năm trước để mắng mỏ ba, dù cho ba không hề sai phạm. Khi lái xe trên đường, thì mẹ con như ông tướng ra lệnh, với giọng hách dịch sai bảo, lái mau, lái chậm lại, quẹo phải, quẹo trái. Chưa nghe mẹ con ra lệnh với cái giọng dịu dàng bao giờ. Ba là chồng, không phải là tài xế, không phải là kẻ nô lệ.
Tài xế mà nói với giọng hách dịch như vậy, thì họ cũng bỏ việc, hoặc chửi lại cho nhục nhã. Mỗi khi lái xe, ba vừa bực mình vì những lời khó nghe của mẹ, vừa lo lắng sợ đi lạc đường. Nếu chỉ lạc đường một đoạn ngắn, thì mẹ con làm như trời đất long lở, làm như ba phạm tội sát nhân không bằng. Mấy lần, người khác bất cẩn, cọ quẹt vào xe mình, thế là ba lãnh đủ, bị mẹ con cằn nhằn, xỉ vả, nhiếc móc ba cả năm trời. Và thỉnh thoảng cũng còn nhắc lại. Và khi mẹ con đọc báo, xem truyền hình, thấy những chuyện xấu xa xẩy ra trong xã hội, là mẹ con xỉ vả, chửi bới, trách móc, làm như chính ba là kẻ tội phạm. Có khi ba phát cáu, gắt lên, mà mẹ con cũng không tha, cứ tiếp tục hành hạ ba bằng những ngôn từ không tử tế. Vào tiệm ăn, bao giờ mẹ con cũng giận ba, vì không lấy đũa muỗng kịp thời cho mẹ, vì không lấy đủ khăn giấy, hoặc pha trà cho mẹ con quá đầy, quá vơi. Chưa bao giờ đi ăn tiệm chung với mẹ con, mà ba được quyền lựa chọn món ăn mình thích. Bởi vậy, những buổi trưa đi làm, ba thích ngồi ăn một mình trong tiệm, thấy lòng thanh thản, nhàn nhã, và sung sướng lắm. Thế nhưng nhiều khi mẹ con cứ bắt ba bới cơm theo, để tiết kiệm tiền. Mỗi sáng đi ra khỏi nhà, đến sở, ba cảm thấy bình yên, sung sướng, và thấy bạn bè, đồng nghiệp tử tế với mình quá. Ngồi trong sở, ba thấy vui hơn ngồi trong chính ngôi nhà mình. Trong sở, ba được xem là người cẩn thận, chăm chỉ, thường được giao đảm trách những dự án khó khăn. Thế nhưng, mẹ con xem ba là người cẩu thả, làm biếng, cái gì ba làm, mẹ cũng chê bai. Mỗi buổi chiều tan sở, ba nấn ná để về nhà chậm hơn, lái xe chậm hơn, vì về đến nhà là nỗi lo sợ dâng lên trong lòng. Mở cửa nhà, mà lòng không vui, nghe tiếng mẹ con nói là giật mình, hoảng hốt. Có khi về nhà, phải đi nhè nhẹ, sợ mẹ con biết ba đã về. Mỗi đêm, ba cũng không có quyền thức đêm đọc sách, xem truyền hình, mẹ con ra lệnh đi ngủ, là phải gấp gấp thi hành. Không thì tru tréo lên, làm ầm nhà ầm cửa. Ba như một đứa bé hai tuổi, phải tuân phục tuyệt đối. Ba đọc sách, xem truyền hình, mẹ con cũng kiểm soát, cũng bảo là phải đọc loại sách nầy, sách kia, phải xem đài nầy, đài kia. Không cho ba xem, đọc những sách, những chương trình truyền hình mà ba thích. Ðêm nằm ngủ bên mẹ con, cũng không dám trở mình nhiều, sợ mẹ con mất ngủ, thức giấc dậy phàn nàn, cau có. Giấc ngủ cũng không hết lo, và nhiều đêm ác mộng thấy bị mẹ con dằn vặt, cằn nhằn. Ngay cả bây giờ, xa mẹ con vạn dặm, những giấc ác mộng đó vẫn chưa thôi.
Áo quần của ba, cũng phải mặc những thứ mẹ con mua, ba không có quyền lựa chọn áo quần cho ba. Tự mua cái áo là có chuyện rầy rà, mỗi lần đem cái áo đó ra mặc, là mẹ con kiếm cớ chỉ trích, gây gỗ, và nói những lời đau lòng khó nghe. Bởi vậy, có những cái áo mà ba không dám đụng đến. Ba phải mặc những thứ áo quần mẹ mua cho, dù không ưa, không thoải mái.
Mỗi khi mua xe, mua nhà, là ba không dám có ý kiến, cứ đưa ý kiến ra, thì trước hết là bị chê bai, khích bác. Nếu không, thì sau nầy, có bất cứ chuyện gì nhỏ nhặt xẩy ra cho căn nhà, cho chiếc xe, thì mẹ con níu lấy ba mà đổ lỗi, làm tình, làm tội từ năm nầy qua năm kia. Khổ lắm. Ba cứ để cho mẹ con toàn quyền quyết định. Làm gì thì làm. Nhưng cũng có khi chẳng được yên đâu. Nếu có chuyện bất trắc, thì mẹ con trách cứ ba là vô trách nhiệm, để mẹ con phải gánh vác một mình. Những khi trong nhà có thứ gì hư hỏng, ba phải sửa chữa, và làm với nỗi lo lắng, bất an, sợ sửa không được thì mẹ con chê bai, nhục mạ, nói những lời hỗn láo khó nghe. Mà kêu thợ sửa những thứ lặt vặt, thì mẹ con cứ lãi nhãi là bất tài, vô dụng, vụng về.
Mẹ con phong tỏa kinh tế, không cho ba giữ tiền, mỗi khi tìm thấy tiền trong túi ba, là mẹ con gây gổ, ồn ào. Hàng tháng, khi nhận được kết toán chương mục của ngân hàng, là mẹ con dò tìm, hạch xách hỏi ba với giọng tra hỏi, tại sao có mục nầy, tại sao có mục kia, trong lúc chỉ có mẹ con ký ngân phiếu và lấy tiền mà thôi. Ba chỉ nói là cứ đến hỏi ngân hàng, còn ba không biết. Nói thế cũng bị mắng mỏ, là không biết gì cả. Mẹ con sợ ba gởi tiền giúp đỡ những người bà con bên quê nhà. Ðã giữ hết tiền, mà mẹ con khi nào cũng xa gần chửi bới bà con, bạn bè ba, là ăn bám, là làm biếng, là tham lam. Khi ba nghèo khó, ba chịu ơn không biết bao nhiêu người, khi ba có chút tiền bạc, khá lên, thì không ai nhờ vả ba được một xu nào. Ba tự xấu hổ với lương tâm. Có những bà con bên nhà đau yếu, khó khăn, ba phải mượn tiền bạn bè mà gởi về giúp đỡ. Ba còn nợ của bác đây mấy ngàn đồng, đã nhiều năm, chưa trả được một xu. Ba đợi đến sang năm, đủ tuổi lãnh non tiền an sinh xã hội, rồi thanh toán luôn.
Ba sợ nhất là thất nghiệp. Mỗi lần thất nghiệp phải chịu đựng sự dày vò của mẹ con. Mẹ con chê bai ba, đổ cho ba nhiều tội, cho rằng vì ba vô trách nhiệm, làm biếng, nên bị cho nghỉ việc. Mẹ con nói rằng, nếu ba khá hơn, thì người ta cho người khác nghỉ, chứ không phải là ba. Mẹ con đằn vặt ba ngày đêm, và thúc hối ba đi tìm việc, làm như ba không muốn tìm ra việc. Chưa xong, mẹ con còn bêu rếu, đi đâu, gặp ai, cũng rêu rao là ba bị cho nghỉ việc vì kém cỏi. Dù cho cái sở của ba làm có bị phá sản, mẹ con cũng đổ lỗi cho ba. Những khi nầy, mẹ con cho rằng ba ăn bám vào vợ. Ba tin rằng, đời ba chưa hề ăn được của mẹ con một miếng cơm nào. Có ăn của mẹ con được một miếng cơm, thì e cũng phải hộc ra ba bụm máu.
Ba còn nhớ cái thời mà mẹ con được công ty cho một chức vụ nhỏ, làm trưởng toán, có ba người nhân viên làm việc dưới quyền. Cái thời nầy, mẹ con càng hùng hổ hơn.
Làm như bà là chỉ huy tất cả mọi người. Miệng phán ra toàn mệnh lệnh. Ba càng sợ hãi hơn. Bà con quen biết cũng phải khó chịu lây.
Một điều, mà cho đến ngày nhắm mắt, ba cũng còn ân hận, là chuyện bà nội con. Ông nội con mất khi ba còn bé. Bà buôn tảo bán tần, nuôi ba học hành đến nơi đến chốn. Có nghề nghiệp vững vàng, có chút địa vị trong xã hội. Biết bao nhiêu là công phu, khó khăn, hy sinh để nuôi nấng ba. Thế mà khi ba bảo lãnh được bà nội qua đây, mẹ con hất hủi, dằn vặt, nói nặng, nói nhẹ bà, để bà không sống nổi với con cháu, mà phải về lại bên quê nhà. Rồi bà mất, mà ba không về được. Ba khổ tâm lắm lắm. Không có gì bù đắp, không có gì chuộc lại những mất mát trong lòng ba. Ba hèn nhát, để vợ đối xử với mẹ như vậy. Không ai có thể dung thứ cho ba cả. Ba có tu mấy mươi kiếp cũng không chuộc lại được tội của ba. Ba biết bà nội đứt ruột đứt gan khi thấy ba đớn hèn, sợ mẹ con như sợ cọp dữ. Ba đã nói, cái sợ như một phản ứng có điều kiện, nó nhập vào trong tiềm thức, ăn sâu vào trong trí. Lý trí không điều khiển được cái nỗi sợ trong lòng.
Còn tình thương yêu, thì cái sợ nó che khuất cả tình thương yêu vợ chồng. Ðiều nầy, đáng ra ba chỉ nói riêng với bác, nhưng con có thể nghe để học kinh nghiệm cho đời sống gia đình sau nầy. Không còn tình nữa, những khi vợ chồng gần gũi nhau, chỉ là một việc trả nợ quỷ thần, làm cho xong bổn phận, và khó khăn lắm mới có thể khởi đầu. Ðôi khi tưởng mình đã bất lực.
Bạn bè gần của ba, thì ai cũng biết và tránh không muốn đến nhà. Cái thái độ của mẹ con làm họ khó chịu. Những khi có bạn bè từ xa đến thăm, là ba lo lắng lắm. Mẹ con chỉ nấu giúp bình trà, hay làm một tô mì gói, cũng than vãn, cằn nhằn là không có sức để hầu hạ bạn của ba. Có khi mẹ con không ra chào bạn của ba. Khách cũng buồn vì nghĩ là chủ nhà không muốn tiếp mình.
Sau khi khách về, là lúc ba lo lắng nhất, sợ sóng gió dậy lên trong gia đình.
Bà con xa gần bên nội đều lánh mặt, không muốn giao tiếp với gia đình mình. Vì thái độ thiếu lịch sự của mẹ con. Gia đình bên nội khinh ba bạc nhược, hèn nhát. Họ đúng . Nhưng con biết nguyên nhân sâu xa nào, làm ba trở thành yếu đuối, bạc nhược như vậy? Có lẽ vì ba mồ côi cha sớm, suốt một đời ba tha thiết tình phụ tử mà không có. Ba không muốn các con phải thiếu mất tình thương của cha, hoặc của mẹ trong khi tuổi còn thơ ấu. Ba thấy nhiều gia đình, cha mẹ li tán, con cái bơ vơ đau khổ tội nghiệp lắm, có đứa phải bỏ học, những đứa khác có thể thành công trong cuộc đời, nhưng vết thương, niềm đau trong lòng không bao giờ vơi lấp được. Ðó là lý do chính yếu. Bởi vậy, nên ba nguyện là khi nào con học xong, kiếm được việc làm tốt, thì ba vào chùa tu, rũ sạch lo âu phiền muộn. Ðể hết nhà cửa, tiền bạc, tài sản lại cho mẹ con, ba không cần mang theo một xu. Ba đã già, đời không còn bao năm nữa, tại sao lại phải sống trong lo âu, sợ hãi, bực bội, không vui? Ba muốn những năm ngắn ngủi còn lại trong đời mình, là những ngày tháng thảnh thơi, dễ chịu, thong dong, không bị kềm kẹp, không bị kiểm soát, không bị dằn vặt, đay nghiến bởi bất cứ ai. Ba bây giờ như kẻ bị tù chung thân, đã thoát được ngục tù. Con đừng bắt giam lại, tội nghiệp ba lắm.“
Hùng bưng trà, chiêu một hơi dài cạn chén, nở một nụ cười thỏa mãn, có lẽ vì đã nói ra được hết nỗi niềm chất chứa trong lòng từ lâu. Tôi thở dài. Dung thì nước mắt rưng rưng nắm lấy tay bố.
Tôi đưa tay vò cái đầu láng bóng của Hùng và nói đùa:
“Cái đầu của ông trơn quá, e bụi cũng không bám vào được. Không ngờ đời ông mà cay đắng đến thế. Ngày xưa, khi còn sinh viên, mỗi lần biểu tình, bãi khóa, ông đi đầu cầm biểu ngữ, la hét hùng dũng lắm, chẳng sợ trời đất gì cả. Ra làm việc, ông cũng chẳng coi thượng cấp ra một kí lô nào. Thế mà lớn lên, chỉ sợ vợ thôi. Thiệt đời cũng lạ.”
Chúng tôi cùng cười. Dung đưa tay lau nước mắt và hỏi:
“Ở đây ba thấy sao? Có dễ chịu không? “
“Thiên đường. Ba sung sướng lắm. Trong lòng ba nhẹ nhàng, cái niềm lo âu đè nặng mấy mươi năm nay nó tuột đi, nhẹ bỗng lâng lâng. Mỗi sáng thức dậy, vui sướng. Mỗi giờ mỗi khắc không có một chút lo âu, lòng yên ổn. Chỉ riêng cái ý thức là mình hết lo, hết sợ hãi, cũng đã là sung sướng lắm rồi.”
“Con hỏi, ba có tin đi tu là sẽ được ... cái gì đó, để mai sau về niết bàn hay ... gì gì đó không?”
“Ba chẳng tin cái gì cả. Có lẽ chết là hết, tan thành tro bụi. Nhưng đọc kinh Phật, ba tìm được rất nhiều an ủi, nhiều thanh thản cho tâm hồn, cởi ra được nhiều sân si còn ẩn náu trong mình. Càng đọc, càng thấy mình nhẹ nhàng, thanh thoát. Chỉ có thế thôi.”
Buổi trưa, tôi mời Hùng ra tiệm ăn cơm chay, Hùng không chịu, và mời ở lại ăn cơm chùa. Chúng tôi ăn vào lúc gần một giờ chiều. Cơm ba món, canh bí đỏ, rau luộc, và dưa kho. Tôi ăn được ba chén đầy. Tôi nói với Hùng:
“Cơm ngon quá. Món ăn thanh đạm, giản dị, nhưng rất ngon. Tôi làm một lúc ba chén đầy. Ở nhà, chỉ ăn được hai chén là nhiều lắm.”
Hùng cười, nụ cười lém lỉnh thân thiết ngày xưa khi chúng tôi còn đi học, và trả lời:
“Ðể cho đói đến đắng miệng, thì ăn cơm nguội cũng ngon. Ðây là chủ trương của nhà chùa. Không khi nào dọn cơm đúng bữa, mà phải dọn cơm cho khách thập phương càng trễ càng tốt.”
Tôi chèo kéo và năn nỉ lắm, Hùng mới chịu theo chúng tôi về nhà thăm, ở lại đêm chơi. Hùng mang áo cà sa vàng, cổ quàng một chuỗi hạt màu nâu, đem theo một bộ áo quần ngủ. Về đến nhà, vợ tôi mở cửa, chắp tay vái, và nói:
“Bây giờ thì chúng tôi phải kêu anh là gì cho đúng nhỉ? Thượng tọa, đại đức hay thầy ...”
“Chẳng thượng tọa, đại đức gì cả. Tôi mới vào tu, chẳng có chức vị gì. Mà cũng chẳng cần chức vị. Ði tu để tìm thanh thản cho tâm hồn. Tránh đau phiền nơi tục lụy. Ðược vậy là đã xem như đốn ngộ rồi.”
Vợ tôi rót nước, pha trà, và dọn bánh mời khách. Chúng tôi ngồi nói chuyện xưa, hàn huyên, nhắc đến bạn bè cũ. Kẻ mất người còn. Nhắc đến những kỷ niệm xưa, khi chúng tôi còn đi học, còn ở tỉnh lỵ nhỏ. Vợ tôi lấy xe ra đi. Một lúc sau xách về nhiều bao thức ăn, rau, cải, tàu hủ, nước tương, chao. Chúng tôi phụ mang vào trong bếp.
Buổi tối, khi vợ tôi mời vào bàn ăn, thấy trên bàn dọn sẵn gần chục món chay khác nhau, màu sắc xanh đỏ, ngon lành. Có món canh khổ qua dồn thịt chay, chả cua chay vàng ruộm, thịt gà xào sả ớt chay, thịt heo hầm chay, giả cầy chay, miến xào, xà lách bát bửu, cá trê nướng chay, tôm kho nước dừa chay.
Hùng có vẻ ái ngại, nói:
“Ðể chị phải mất công mệt nhọc như thế nầy, tôi áy náy quá. Ðáng ra tôi phải nói trước, chỉ cần cho tôi chai nước tương tưới vào cơm ăn là đủ rồi.” Vợ tôi cười vui vẻ:
“Thôi, anh đừng khách sáo. Mấy khi tôi được dịp ôn lại cách nấu cơm chay của mẹ tôi ngày xưa. Tôi phải cám ơn anh mới phải, nhờ có anh đến chơi, tôi mới có cơ hội nấu đồ chay. Ngày mai, có cháo gà ăn điểm tâm. Cháo gà đặc biệt lắm, cháo chay mà không nói trước, thì tưởng như cháo gà thật.” Tôi cười :
“Ðã ăn chay rồi, mà còn vọng mặn. Kìa, con cá chiên kia là chay hay mặn, mà giống thế, còn dĩa tôm kho nầy nữa. Toàn cả lừa mị thánh thần.” Vợ tôi cười nói:
“Ðấy, thế gian nầy đầy cả giả dối. Ngang nhiên lừa mị thánh thần mà còn hiu hiu tự đắc. Không chừng, biết là bị đánh lừa, mà mấy ổng lại khoái!”
Khi mở bia mời khách, vợ tôi mới biết là không còn nước đá trong ngăn lạnh. Bên ngoài trời đổ mưa tầm tã, vợ tôi hơi bối rối, rồi chạy vào lấy dù ra xe đi mua nước đá. Tôi ngăn lại, cả Hùng cũng cản, vì uống bia không có nước đá cũng chẳng sao. Vợ tôi cười:
“Các anh uống bia không có nước đá mất ngon đi”.
“Nhưng trời mưa to quá, vã lại, đi làm chi cho ướt át, khổ thân.”
“Ðể em đi, lỗi tại em không làm đá sẵn, và quên để bia vào tủ lạnh. Các anh và cháu chờ nhé.”
Hùng áy náy nhìn theo vợ tôi đang xách dù mở cửa nhà xe ra đi. Mười lăm phút sau, vợ tôi chạy về với nét mặt vui vẻ, hớn hở, mang theo một bịch nước đá lớn. Bỏ nước đá vào ly của Hùng và tôi, vợ tôi nhẹ nhàng:
“Không có nước đá, bữa ăn cũng mất ngon phần nào, uổng công tôi làm bếp.“
Vợ tôi tắt đèn điện, bưng ra ba đế đèn cầy, ánh sáng vàng tỏa ra trong nhà ấm cúng. Chúng tôi nâng đũa. Hùng cười đùa:
“Bây giờ tôi mới hiểu câu nói ‘ thân trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu’. Nầy ông Nguyên, ông có vợ hiền, gia đình thật là ấm cúng hạnh phúc. Không tu mà được hưởng phước đấy.” Tôi đùa lại:
“Không phải trong nhờ, đục chịu đâu. Có đục cũng phải gạn lọc cho thành trong. Phải là ‘Dạy con từ thuở còn thơ, dạy nhau từ thuở bơ vơ mới về.’ Ðể trễ quá, thì chỉ còn có nước vô chùa lánh nạn như ông mà thôi.”
“Lánh nạn thì đâu cần phải vào chùa hở ba? Lánh nạn thì ở đâu mà chẳng được? Sao ba không qua Hawaii hoặc về Florida mà ở, vừa ấm áp vừa vui.” Hùng trả lời:
“Vào chùa, là xem như dứt khoát hơn, mình dễ làm quen với kinh kệ hơn. Ở ngoài thì ham cái khác, còn vọng động. Mà mục đích chính, là các con còn lấy chồng, lấy vợ. Ba không muốn các con mang tiếng có cha mẹ li dị. Ba đi tu, không ai có thể dị nghị chi các con cả. Người ta nghĩ là ba làm việc tốt. Bây giờ các con lớn rồi, ba có cơ hội để sống thêm ít năm trong yên bình tâm trí, mà không ái ngại. Nếu từ đầu mà không vì các con, thì ba đã lấy quyết định dứt khoát ngay. Ba đâu phải là một kẻ ngu đần để cắn răng chịu đựng mấy mươi năm nay. Khi nào các con có gia đình hết rồi, và nếu ba không tìm được an nhiên tự tại trong khi ở chùa, thì ba sẽ xét lại việc đi tu. Nhưng hiện nay, như ba đã nói với con, là thiên đường đã tìm thấy, không cần phải chờ qua kiếp sau, hoặc đi đâu xa vời.”
Dung thở dài nói như khóc:
“Con biết ba khổ lâu nay, nhưng không ngờ trong lòng ba khổ đến thế. Con thương mẹ, nên mù quáng, không thấy hết uẩn khúc trong ba. Con qua đây để thăm ba, cũng định để thuyết phục ba trở về với mẹ. Nhưng bây giờ, con tin, ba ở lại tu hành là đúng, không có lý do gì để ba phải chịu đựng cay cực nhiều hơn nữa.”
Ngày chủ nhật, vợ chồng tôi đưa Hùng và cháu Dung đi thăm San Francisco. Chúng tôi đi bằng xe điện tốc hành, rồi lấy xe bus, ra bến tàu, đi thăm cầu Golden Gate đỏ chói phơi mình một nửa ngoài nắng, một nửa chìm trong mây mù. Chụp mấy tấm hình kỷ niệm. Về phố Tàu ăn “tỉm xấm” và qua thăm vườn Nhật. Buổi tối đi nghe nhạc hòa tấu đến khuya mới về đến nhà. Chúng tôi pha trà, ngồi nói chuyện cho đến khuya.
Hùng cảm động nói với vợ tôi:
“Bây giờ, tôi tin là hạnh phúc gia đình có thật trên đời nầy. Ở nhà anh chị hai hôm, đi chơi với anh chị suốt ngày, mà chưa hề nghe vợ chồng gay gắt nhau một lời. Người xướng, người họa, vui vẻ, hòa đồng, khi nào cũng ngọt ngào, tử tế, dịu dàng. Ðời sống thật hạnh phúc. Khi đủ ăn, đủ mặc, không túng thiếu, mà cuộc sống có hạnhphúc, thì đâu cần đi tìm thiên đàng cho xa xôi.” Dung nhìn vợ tôi và hỏi:
“Bác cho con một lời khuyên, sau nầy làm sao để tạo được một gia đình hạnh phúc?”
Vợ tôi cười và trả lời:
“Cả hai người đều phải biết cho nhiều hơn nhận. Ðừng đòi hỏi ai phải có bổn phận đối với mình. Nên luôn luôn tự hỏi mình đã làm được gì cho người khác chưa , đừng hỏi tại sao người khác chưa làm việc nầy, việc kia cho mình. Biết chấp nhận và thương cả cái ưu điểm, lẫn khuyết điểm của người mình thương”.

Tràm Cà Mau. 

 


18 năm trước, tôi viết truyện ngắn này. Tôi xem nó như những dòng tâm sự bởi trong đó loáng thoáng có bóng mình. Tôi nghĩ sẽ chẳng cho ai đọc những gì mình đã viết, giữ lại cho riêng mình như những lời độc thoại với hư vô. Và rồi bản thảo truyện này biến mất, suốt một thời gian dài cả chục năm tôi tìm hoài mà không thấy. Hôm nay lục mấy tấm hình rửa cho một chị bạn học cùng trường đại học, lại tìm lại được truyện này. Nằm đọc lại cũng chỉ thấy buồn. Truyện viết đã gần hai mươi năm, nhân vật cũng đã vào tuổi xế chiều. Gần hai mươi năm biết bao biến cố đổi thay của một đời người nhưng câu chuyện vẫn còn đó, ghi lại một ký ức khó có thể quên. Tôi quyết định đăng trên facebook sau một thời gian dài chỉ giữ riêng cho mình để mọi người cùng đọc. Cũng chẳng để làm chi nhưng hi vọng nhiều người đọc sẽ thấm được nỗi đau của nhân vật trong một giai đoạn bi kịch của xã hội và lịch sử.

CHÚT LÃNG MẠN CUỐI CÙNG

Truyện ngắn của ĐỖ DUY NGỌC

Có trầu mà chẳng có cau

Thì đành không đỏ môi nhau kiếp này

Buổi chiều ở Blao sương xuống sớm, những ngọn gió thổi về làm rung những cành thông non trong vườn, trời nhờ nhờ tối, không gian chùng xuống nặng nề. Ba người đàn ông ngồi uống rượu trong căn nhà nhỏ trên sườn đồi, li rượu được rót ra nhưng chẳng ai nâng chén, bởi rượu chỉ là cái cớ để níu chân nhau ngồi lại. Ngọn đèn cầy trắng cắm trên chiếc giá đồng cổ rất sang trọng hắt ánh sáng trên ba khuôn mặt tạo thành bức tranh mang phong cách thời Phục Hưng. Trong buổi chiều ấy và trong khung cảnh ấy, tôi được người bạn già kể lại câu chuyện này, đây là câu chuyện có thực, và là một đoạn đời của ông. Những con người trong câu chuyện này cũng đang còn hiện hữu, và đang là người nổi tiếng, nên khi kể lại chuyện này, tôi xin đổi tên của các nhân vật chính.

*********

Chị Lê là con gái đầu của O Hiếu, mẹ chị Lê là anh em chú bác với ba tôi, chị Lê hơn tôi mười tuổi. Lúc tôi khoảng mười hai tuổi đang học lớp đệ thất thì chị Lê đã là một cô gái đang học năm thứ nhất sư phạm Qui Nhơn. Chị là một cô gái đảm đang, rất giỏi việc nữ công, nội trợ. Chị có khuôn mặt hiền, thánh thiện, tóc chị dài thoang thoảng mùi bồ kết thường được kẹp bằng chiếc kẹp đồi mồi, nước da trắng, không chút son phấn và chính những nét tự nhiên đã làm cho khuôn mặt chị lúc nào cũng sáng lên một thứ ánh sáng mộc mạc mà đằm thắm rất Việt Nam. Chị không có nhan sắc rực rỡ, nhưng đôi mắt chị trong veo, những ngón tay thon nhỏ với các móng lúc nào cũng được cắt, sạch, cộng với những cử chỉ, lời nói luôn dịu dàng đầy nữ tính gây thiện cảm với người chung quanh. Tôi chưa bao giờ nghe chị nói nặng lời hay lớn tiếng với ai, dù đó là người ăn kẻ ở trong nhà. Chị thường đội nón lá, đi guốc mộc, mặc chiếc áo bà ba cổ trái tim bằng vải lụa mềm. Thời đó, tôi đọc rất nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn trong tủ sách khổng lồ của ba tôi nên tôi hình dung chị chính là những nhân vật trong các tác phẩm đó, chị là cô Mai trong Thừa tự, trong Nửa chừng xuân… Nhà tôi lúc ấy là một ngôi nhà lớn, trước nhà có sân rộng lát gạch tàu, ba tôi cho xây một hồ cá to và trồng một giàn thiên lí xanh mướt mắt. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh chị Lê ngồi làm mứt gừng dưới giàn thiên lí lúc ánh sáng chiều chênh chếch len qua những kẽ lá xanh um chiếu trên khuôn mặt rám hồng vì sức nóng của bếp lò và ánh sáng phản chiếu của những viên gạch tàu. Trong tâm thức của một đứa trẻ mười hai tuổi, bỗng tự nhủ, mai sau tôi chỉ yêu người con gái nào giống chị Lê, phải giống từ khuôn mặt, dáng người cho đến những nét đảm đang rất Việt Nam như chi.

********

Rồi tôi lớn dần lên, đến tuổi biết yêu, tôi đi tìm bóng hình của chị qua những người bạn gái, nhưng không tìm thấy được. Xã hội càng lúc càng đổi thay, lính Mỹ vào Việt Nam làm đảo lộn mọi giá trị của cuộc sống, son phấn nhòe nhoẹt và đủ thứ thời trang kệch cỡm làm cho tôi khó mà tìm được người con gái như mộng tưởng. Những cuộc tình thời mới lớn cũng qua đi chẳng để lại ấn tượng gì.

Tôi vào Sài Gòn học đại học, cuộc sống tự lập của người con trai miền Trung ở Sài Gòn gặp quá nhiều khó khăn, tôi luôn mặc cảm về cái nghèo túng của mình nên chẳng dám yêu ai, thật ra tôi cũng khó tìm ra giữa Sài Gòn này một cô gái như mình đang tìm kiếm. Tôi như gã con trai đi tìm lá diêu bông không có thực trên đời. Cũng có nhiều cô gái đến với tôi, nhiều cô rất đẹp và giàu có, cũng có cô rất quí phái sang trọng, nhất là khi tôi bắt đầu có chút tiếng tăm và tiền bạc qua mấy lần triển lãm tranh và nhiều bài báo gây ấn tượng trong giới sinh viên. Nhưng sao tôi vẫn thấy dửng dưng, vẫn chưa thề nói với ai về tình cảm của mình. Tôi vẫn đi tìm một bóng hình không có thực, nhưng tâm tôi vẫn bảo hãy tìm đi và sẽ gặp, giống như điều Chúa đã dạy là hãy gõ cửa thì cửa sẽ mở. Tôi sẽ tiếp tục đi tìm và tôi sẽ tiếp tục gõ cửa suốt cuộc đời bởi tình yêu có sự lựa chọn riêng của nó.

*******

Đội quân mới, chính quyền mới như một cơn gió lốc thổi nhanh giữa Sài Gòn, cuốn phăng đi mọi trật tự có sẵn, đảo lộn và đổi thay đến từng ngõ ngách, từng con người. Tôi cũng bị xoáy vào vòng xoáy đó, không kịp rút số tiền dành dụm được của những mấy năm cực nhọc vừa học vừa làm gởi ở ngân hàng. Tôi trở lại thời vừa mới vào đất này, trắng tay và đói rách, lại xếp hàng ăn những bữa cơm đạm bạc tập thể ở căn tin, chờ đợi những thay đổi mới. Ở thời kỳ đó, chẳng có việc làm gì rõ rệt, kẻ đi bán cà phê, người ra lập chợ trời, tôi không làm được những việc ấy nên ngày hai bữa lang thang với bạn bè văn nghệ của Sài Gòn cũ, làm những người rảnh nhất thế giới, chờ đợi.

Chúng tôi được phép đi học lại, sinh viên từ nhiều trường tập trung thành trường Đại học Sư phạm thành phố, sinh hoạt hát hò và suốt ngày làm quen với đường lối, chủ trương và nền giáo dục mới. 

Tôi chẳng có hứng thú gì việc học hành bởi cái đói luôn hành hạ, hờ hững đến giảng đường mà chẳng chú ý đến ai, nhưng cũng phải ráng ghi ghi chép chép hi vọng nay mai được ra trường, có việc làm để ổn định cuộc sống, hướng tới tương lai. Tôi tham gia vào những sinh hoạt của nhà trường bằng những tài vặt đàn ca xướng hát, và cũng bởi rảnh quá chẳng biết làm gì cho hết thì giờ. Được sự gợi ý của chi đoàn, tôi thành lập nhóm kịch của khoa Văn, và ngay bữa họp đầu tiên của nhóm tôi đã gặp cô gái mang một cái tên là lạ: Trân Cầm. Trân Cầm học ở Văn khoa chuyển qua cùng lớp nhưng vì tôi chẳng để ý đến ai nên chưa gặp lần nào, hay có thể đã gặp mà không thấy. Cảm giác đầu tiên khi tôi nhìn thấy Trân Cầm là như có một chiếc búa lớn bổ vào ngực, đè nặng trái tim và nhịp tim tôi như ngừng lại, bởi cô ấy chính là lá diêu bông mà tôi đã tìm kiếm lâu nay. Vóc dáng ấy, đôi mắt ấy, giọng nói ấy, tiếng cười ấy, khuôn mặt ấy chính là những hình ảnh liên tục hiện về trong những giấc mơ của tôi. Khi ánh nắng buổi chiều chiếu vào cửa sổ hắt vệt sáng trên mái tóc buộc túm bằng chiếc kẹp đồi mồi và làm rực lên nửa khuôn mặt của Trân Cầm, thì hình ảnh chị Lê ngồi dưới giàn thiên lí trong tiềm thức tôi hiện lên rõ rệt. Thế là tôi đã tìm thấy. Tôi đã gõ cửa và Chúa đã mở cửa cho tôi bắt gặp định mệnh của đời mình. Tối hôm đó trở về nhà trọ, dù chẳng có gì bỏ bụng tôi vẫn ôm đàn hát nghêu nghao cho đến khi trăng tàn trên những vòm cây.

Mấy năm lưu lạc học hành ở miền Nam tôi làm đủ thứ nghề, từ bán báo đến sửa morasse nhà in, rồi trở thành người viết báo, trình bày báo, vẽ tranh, làm thơ, đi hát, diễn kịch… cũng để dành được một số tiền khá lớn, đủ để bảo đảm một cuộc sống sung túc, nhưng cứ nghĩ mình còn trẻ, lại chưa lập gia đình nên gởi hết vào nhà băng. Ai ngờ thời thế đổi thay, trong cơn cuống quít của chuyện ra đi hay ở lại, tôi không rút được đồng nào, từ triệu phú trở thành kẻ đói cơm giữa Sài Gòn đầy lộn xộn, phải bán luôn chiếc xe hơi vừa mới mua chưa đầy ba tháng với một giá rẻ mạt như cho, để tồn tại, nên chẳng còn phương tiện nào để di chuyển ngoài đôi chân mệt mỏi. May thay, từ khi quen với Trân Cầm, tôi thường dùng chiếc xe đạp của Trân Cầm để chở cô ấy đi học, đi về, đi sinh hoạt hát ca. Tôi không biết ngỏ lời với Trân Cầm như thế nào để tỏ hết lòng mình, nên thông thường tôi chỉ biết lắng nghe những câu chuyện buồn vui của cô ấy kể bằng một giọng Bắc kỳ Hà Nội di cư, một giọng kể nhẹ nhàng duyên dáng với những nhận xét thông minh, những tình tiết đầy nữ tính.

Một hôm sau buổi diễn kịch ở trường về, trời đã khuya, con đường Trương Minh Giảng vắng rộng thênh thang chỉ còn tiếng dế gáy bên vệ đường và hương ngọc lan từ những biệt thự đầu đường ngào ngạt trong gió đêm, một không gian thật lãng mạn cho những đôi tình nhân. Có lẽ không gian đó cũng làm cho Trân Cầm xao xuyến, Trân Cầm ngả đầu vào lưng tôi. Một cảm giác lạ lùng đến với tôi, một tín hiệu tốt của tình yêu chưa dám nói? Tôi muốn con đường dài ra mãi, đi hoài không tới, để tôi giữ mãi được giây phút thần tiên ấy, để chúng tôi là dấu chấm của đời nhau, được đi cùng nhau suốt cả cuộc đời. Sau này, liên tục mấy mươi năm, hôm nào đi qua cảnh cũ tôi cũng thường lái xe đi chậm lại để mong được hít thở hương ngọc lan bay rất mỏng, để nhớ cái đêm đầu tiên ấy, để hưởng lại cảm giác ngọt ngào và hạnh phúc của ngày xưa đã mất. Nhưng những cây ngọc lan xưa không còn ra hoa nữa và người xưa cũng như cánh chim bay xa tít. 

Sau đêm đó, cả hai cũng chẳng có tín hiệu gì thêm nên chúng tôi vẫn là hai người bạn cùng lớp, cùng nhau trên một lối về.

*******

Tháng Sáu, Trân Cầm muốn ghé qua nhà trọ của tôi cho biết cuộc sống của những kẻ xa nhà. Khi chúng tôi vừa bước chân vào căn gác nhỏ thì trời đổ mưa như trút, mưa tháng Sáu của miền Nam, mưa tháng Sáu của Sài Gòn. Chúng tôi đứng nhìn mưa qua cửa sổ, những hạt mưa bay làm ướt nhè nhẹ trên khuôn mặt của hai đứa, và chúng tôi chụm đầu vào nhau, hai bàn tay không hẹn mà tìm nhau nắm chặt, hai bàn tay nóng bỏng giữa chiều mưa. Cái hôn đầu tiên đến quá bất ngờ nên cả hai đều sượng sùng khi nhìn vào mắt nhau, đôi mắt trong veo hình như ánh lên câu hỏi, trời vẫn mưa xối xả, chúng tôi quên mất đất trời chạy xuống cầu thang đội mưa đi, mưa ướt đẫm trên khuôn mặt, ướt hết hai tấm thân gầy, hai đứa lâu lâu lại nhìn nhau cười dưới cơn mưa như những người mất trí. Đó là nụ hôn đầu tiên và duy nhất của chúng tôi dành cho nhau suốt cả một cuộc tình dài. Khi nhìn Trân Cầm đạp xe đi về, bầu trời u ám, những dây điện giăng ngang cắt nát mảnh trời, dáng mong manh của Trân Cầm nổi lên khung trời xám đó như cánh chim nhỏ nhoi đang cố bay lên. Tôi buột miệng hát một đoạn trong bài Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn: "Nắng có hồng bằng đôi môi em. Mưa có buồn bằng đôi mắt em. Tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh… Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi… " Từ đó tội gọi Trân Cầm là Vạc, bởi em gầy với áo lụa bay, và cũng bởi tôi rất yêu cánh vạc, những con vạc mảnh mai bay về trong ánh mặt trời là hình ảnh thanh thoát và lãng mạn. Cũng từ đó cho đến nay, trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu đổi thay, tuổi càng ngày càng chồng chất, nhưng cứ đến những cơn mưa đầu mùa tháng Sáu hàng năm tôi lại đội mưa đi lang thang, đi trong mưa để nhớ ngày mưa tháng Sáu ngày xưa, tháng Sáu có ngày sinh nhật của Trân Cầm; và để nhớ về loài chim vạc, nhớ về nụ hôn duy nhất của một cuộc tình buồn.

Những buổi học sau đó là những ngày vui, tôi không còn hờ hững với giảng đường và bài giảng nữa, bởi đã có động cơ để tôi phải cố gắng, và những giờ học là dịp để được gặp nhau, để chào đón nhau, gởi cho nhau những bài thơ viết vội, hoặc những lời nhắn gởi vu vơ. Nhưng cũng từ bữa ấy, những đôi mắt sau lưng chúng tôi hình như có chứa đựng những ánh mắt ganh ghét, đố kỵ, lúc đầu còn kín đáo nhưng càng ngày càng lộ rõ. Tôi hồn nhiên sống và hồn nhiên yêu, không hình dung ra những đợt sóng ngầm đang chuẩn bị để vùi dập mình xuống tận đáy của cuộc đời. Tôi cũng không nghĩ tới cái ác của con người, chỉ nghĩ tới thiện tâm và không nghĩ rằng trên đời này lại có thể có những con người lúc nào cũng tính toán, âm mưu để xé xác đồng loại, để gài bẫy bạn bè. Tôi vô tư nên không nghĩ tới những hậu quả đang chực chờ đẩy tôi đến ngả rẽ làm thay đổi cả đời tôi.

Sau kỳ thi tốt nghiệp, chúng tôi phải đi một chuyến lao động ở nông trường, sống một tuần lễ với một đơn vị Thanh niên xung phong. Tôi chỉ tham dự chuyến lao động thực tế này đúng một ngày một đêm, bởi hồi ấy tôi còn tham gia vào đội kịch của thành phố, chuyến lưu diễn của đoàn trùng với thời gian đi lao động. Đêm ở lại duy nhất tại nông trường, tôi chỉ một lần nắm tay của Trân Cầm trong giấc ngủ, bởi chúng tôi ở cùng chung một lán trại. 

Lao động xong, chúng tôi được nghỉ hè chờ quyết định phân công công tác. Chúng tôi ít được dịp để gặp nhau, tôi suốt ngày lang thang ở sân trường lượm những chiếc lá vàng đề những câu thơ để tặng cho cánh chim Vạc của tôi, nhưng ít khi được gặp. Khi làm hồ sơ để ra trường, trong mục nguyện vọng, tôi mong được phân về dạy ở một thị trấn nhỏ miền núi, tôi hình dung ra một thị trấn cao nguyên, đầy những rừng chè và sương trắng. Và mỗi tuần tôi lại đến đợi Trân Cầm dưới chân đồi, cùng nhau dạo trong trảng cỏ đầy hoa dại và gió lạnh, Trân Cầm sẽ mang chiếc áo ấm màu rượu chát, chiếc kẹp đồi mồi giữ tóc không bay và chiếc khăn quàng ôm kín bờ vai gầy. Tôi hạnh phúc trong giấc mơ tưởng tượng.

Giấc mơ đẹp không thành sự thật, lần lượt bạn bè đều nhận được quyết định, chỉ mình tôi, Trân Cầm và vài người có lí lịch xấu không được đoái hoài, không một lời thông báo. Tôi bắt đầu tuyệt vọng trong sự đợi chờ, lúc ấy, đối với tôi lúc ấy việc được đi dạy học là con đường tốt nhất, bởi đó là ước mộng của tôi khi chọn trường sư phạm, và cũng là việc làm duy nhất có thể cứu tôi ra khỏi cảnh lông bông. Tôi ngu ngơ không hiểu được rằng còn có quá nhiều con đường khác để đi, còn rất nhiều nghề khác để chọn. Tôi hoang mang không hiểu lí do nào đã không cho phép tôi và Trân Cầm không được phân công tác. Phong phanh có dư luận cho rằng tôi và Trân Cầm phạm vào một lỗi rất nặng, nhưng chẳng có ai trả lời cụ thể tội gì, chỉ có những cặp mắt hả hê, những cái nhìn hằn học có cả những thái độ xa lánh làm cho tôi càng lúc càng bế tắc. Tôi quá dại khờ và hồn nhiên không nghĩ đến việc có ai đó đã rắp tâm hại mình và càng không nghĩ đến việc cả một nhóm người đang hè nhau để xô chúng tôi xuống bùn đen bằng những tội lỗi mà mình không bao giờ mắc phải. Một hôm, lúc đang lang thang ở sân trường, tôi gặp Hoàng, một bạn học cùng lớp, hắn rủ tôi vào quán cà phê, và rồi bằng một ánh mắt thương hại hỗn xược, những ngôn từ tiểu thuyết rẻ tiền hắn cho tôi biết hắn và Trân Cầm đã yêu nhau, rằng hai người đã có những thề ước hẹn hò, hắn chìa cho tôi xem nhiều mảnh giấy trong đó có chữ của Trân Cầm và bảo đó là những bức thư nàng gởi cho hắn trong suốt tuần lễ lao động ở nông trường, hắn khuyên tôi nên quên cô ấy đi, hãy về quê kiếm một việc làm khác mà sống vì hắn chắc chắn rằng, tôi sẽ không bao giờ được phân công và tỏ lòng xót xa cho cảnh ngộ của tôi. Tôi hèn nhát đến độ ngồi im cho hắn nói. Rồi lặng lẽ ra về với một chút hoài nghi. Tôi tin Trân Cầm, nhưng tôi cũng hơi tin những lời lẽ của Hoàng, bởi hắn nói với một thái độ hết sức tự tin và những vật chứng rõ ràng. Tôi đau khổ viết cho Trân Cầm một bức thư dài như một lời từ giã, một bức thư kể hết lòng mình. Tôi dự định sẽ lên cao nguyên, ẩn mình chờ cuộc đời trôi đi để quên hết. Tôi không nghĩ đến chuyện về quê, bởi không lẽ sau năm năm ra đi lại trở về ăn bám gia đình, trở thành một thằng vô nghề nghiệp, làm xấu một gia đình có nề nếp, có tiếng tăm trong thị xã nhỏ bé. Tôi đang đến bờ vực của kẻ cùng đường. Mối tình đẹp đẽ sau năm tháng kiếm tìm đã mất, người con gái mà từ tuổi mới lớn, tôi đã tâm nguyện sẽ đi tìm cũng bỏ tôi mà đi, công lao học hành trong khó khăn giờ đây đã bị khước từ một cách khó hiểu, tôi cô đơn gặm nhấm nỗi đau. Trân Cầm gởi trả bức thư dài của tôi không một lời giải thích, tôi càng đau hơn khi chính Trân Cầm đã cắt thêm nhát dao vào vết thương của tôi, tôi đâu ngờ rằng Trân Cầm lúc ấy cũng đang là một nạn nhân của một màn kịch bỉ ổi và đê tiện.

Có nhiều đêm tôi nằm mơ toàn những cơn ác mộng, tôi mơ tôi đang đi với Trân Cầm trong một thung lũng đầy hoa và bướm, bỗng dưng có một nhóm người, toàn là bè bạn nhảy vào xô tôi ngã xuống, đâm tôi bằng những nhát dao, tôi sắp ngất đi, ngửa mặt giữa trời xanh hiện lên hình ảnh của Trân Cầm nhìn tôi bị dày xéo một cách dửng dưng, tôi không đau nỗi đau thân xác, tôi đau vì ánh mắt lạnh nhạt của Trân Cầm. "Lẫn trong cái chết vẫn còn nỗi đau.(1) "

Tôi được gọi vào phòng tổ chức gặp một ông thầy hom hem nhìn tôi chằm chặp, ánh mắt không có chút hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Ông lơ đãng giở từng trang giấy trong đống hồ sơ dày cộp, đọc lẩm bẩm đôi dòng rồi ngước cặp mắt giễu cợt nhìn tôi. Tôi hồi hộp đợi chờ câu hỏi của ông, nhưng hình như ông không vội. Tôi như kẻ tội đồ đang đứng trước vành móng ngựa chờ tuyên án. Cuối cùng thì ông cũng buông được một câu: Cậu không thể đi dạy học được, hãy lập gia đình và kiếm lấy nghề khác mà sống . Tôi ngạc nhiên tột độ, tôi không hiểu gì cả.Tôi ngây người nhìn ông, ông đưa tay ngoắc ngoắc, ra dấu tôi về. Tôi sững lại một giây, rồi ngoan ngoãn trở ra cửa không một lời thưa. Gió ở đâu thổi về ào ạt, tôi đi lên dốc cầu Trương Minh Giảng, đứng nhìn xuống dòng nước đen ngòm đầy rác rưởi, đầu óc rối tung lên. Câu nói của người cán bộ phòng tổ chức có nghĩa gì? Sao lại khuyên tôi lập gia đình? Sao tôi lại không thể dạy học được. Tôi học tốt, bài làm ra trường rất tốt, khả năng diễn đạt của tôi cũng rất khá. Vậy tại sao tôi lại không thể. Tôi miên man với nhiều câu hỏi không có cách trả lời. Tôi nhìn dòng nước đen rồi hình dung đời mình rồi cũng sẽ như dòng nước kia, đen kịt vì tù đọng và hôi thối. Và rồi tôi cũng ý thức được rằng, tôi đã bị từ chối, người ta đã không chấp nhận tôi vì một lí do bí ẩn nào đó, chứ không phải vì khả năng hay do kết quả học tập của tôi. Gió lại thổi dữ dội, rồi những cơn mưa nặng hạt trút xuống. Tôi dầm mưa đi suốt con đường, con đường có rất nhiều ngả rẽ, nhưng không có ngả nào dành cho tôi, tôi đi mãi cho đến khi đường vắng không còn một bóng người qua rồi ngã gục trước hiên của một ngôi nhà lạ vì lạnh và đói.

******

Tôi gặp Trân Cầm trên sân trường đầy nắng, những cánh phượng đỏ như những giọt máu rỏ xuống sân trường, Trân Cầm hình như muốn tránh mặt tôi, ngôn từ mang tính xã giao, xa lạ, nụ cười không còn tươi trên mặt nàng, đôi mắt như có khói, buồn lặng lẽ. Chúng tôi chia tay trước sân trường không một lời chào. Hình như giữa chúng tôi đang có một bàn tay vô hình ngăn chặn. Tôi lại một mình đi lại những con dường chúng tôi đã từng đi qua, đi dưới những con đường có hàng dây điện giăng ngang cắt nát trời chiều. Cánh Vạc đã bay về, một mình với đôi vai gầy. Tôi biết đi đâu, cũng chỉ còn một mình nhìn quanh chỗ nào cũng chứa đầy kỷ niệm, tôi liêu xiêu một bóng đến con hẻm hun hút gió của nhà nàng. Và tôi gặp hắn - thằng Hoàng -ngay cửa ngõ nhà Trân Cầm. Ngôi nhà có giàn cây huỳnh hoa vàng rực rỡ. Hắn đứng đó, bên cạnh Trân Cầm, hình như hai người đang vui. Hình như có một nụ cười đang hiện ra trên khuôn mặt nàng. Hoàng có vẻ toại nguyện, hắn chào nàng bằng cái vẫy tay. Tôi nhìn lên những cánh hoa vàng trước ngõ nhà Trân Cầm, những cánh hoa vàng rực, vẫn những cánh hoa hôm trước nhưng hôm nay thấy chúng mới vô duyên, trơ trẽn làm sao? Tôi là người thua cuộc, trong cuộc chơi, kẻ thua cuộc phải rời vị trí, đó là qui luật. Tôi trở thành kẻ đứng xem cuộc đời tiếp tục, đó cũng là điều đúng với qui luật.

Thế là chúng tôi mất nhau, sao kết thúc lại nhạt nhẽo đến thế. Chúng tôi lặng lẽ xa nhau không một lời giải thích, cũng chẳng do một lí do nào. Một kết thúc vô lí, đến hàng chục năm sau tôi vẫn thấy vô cùng phi lí.

Trở về gác trọ, đầu tôi ngổn ngang nhiều câu hỏi. Tôi sẽ phải làm gì đây? Tôi sẽ đi về đâu đây? Khi tất cả mong ước, khi những giấc mơ nhỏ nhoi cũng không đạt được. Tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn mới gắng gượng đến lúc được ra trường. Những ngày đến lớp đói quặn lòng, những tuần lễ sống chỉ bằng nước lã và khoai lang, những đêm mưa trong căn gác không đủ che những cơn gió giật, chỉ có tình yêu của Trân Cầm đã làm cho tôi hi vọng, bởi đời còn có Trân Cầm nên tôi còn nghị lực để đến trường và tin rằng lúc ra trường cuộc sống sẽ đỡ hơn, bởi tôi chỉ cần cuộc sống bình thường, tôi đã mất hết số tiền lớn vì những thay đổi của thời cuộc, nên chẳng tin có ngày mình sẽ làm lại được như xưa. Nhưng tôi đã bị từ chối, người ta đã lấy cắp ước mơ của tôi, tôi sẽ không có được những buổi chiều cuối tuần đón đợi dưới chân đồi, tôi sẽ không bao giờ được trở về cùng với Trân Cầm trong đồng cỏ đầy hoa dại, sẽ không có dấu chấm nào để đặt dấu cuối cùng cho một tình yêu. "Gió đã thổi chiếc khăn quàng xuống cỏ, nụ cười xưa đã tắt dưới chân đồi. Tôi bất lực bị đời xô ngã quị, cuộc tao phùng còn li biệt mà thôi.(2)"

Tôi bỏ mất năm ngày ngồi ở nhà xếp năm trăm con Vạc giấy, những con Vạc nhỏ nằm ngổn ngang giữa sàn nhà trước cặp mắt ngạc nhiên của đám bạn cùng phòng, tôi cắn chặt răng xếp cho đến khi mấy đầu ngón tay sưng phồng, tóe máu, mất hết cảm giác. Những con Vạc lần lượt ra đời lẫn với những vết máu của tôi, những cánh chim tôi yêu và là hình ảnh của Trân Cầm. Nhưng rồi tôi chất các con Vạc giấy thành một đống lớn, châm lửa đốt. Lửa cháy, những cánh Vạc thành tro tàn bay trong buổi chiều u ám chờ mưa. Tôi cứ tưởng sẽ là quên được hết trong ngọn lửa ấy, nhưng không ngờ bóng Vạc mãi bay trong tôi suốt cuộc đời.

Buổi chiều cuối năm, nhìn gia đình hàng xóm đang quây quần sum họp trong nhà, bất giác tôi thèm một hơi ấm gia đình mãnh liệt, đứa con đi hoang bỗng dưng chạnh lòng nhớ tới ngôi nhà xưa, ở đó đang có cha mẹ, các em vây quanh chiếc bàn ăn tối, có không khí đầm ấm và những ánh mắt cảm thông, tôi thèm một gia đình. Và từ buổi chiều nhớ nhà, cần một hơi ấm sẻ chia những thất vọng, cần có nơi chốn để đi về, để quên đi những mơ ước cũ, quên đi hình bóng tôi đã mang theo từ thuở còn rong chơi, quên đi những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời mình, quên đi những cơn mơ dữ, tôi đi đến quyết định làm thay đổi đời mình: lấy vợ. Tôi muốn làm một con người khác, tôi muốn rũ bỏ tôi xưa, tôi sẽ không còn là tôi nữa, tôi bỏ lại ngàn cánh Vạc trên bầu trời mơ ước cũ, bỏ luôn những kỷ niệm và ước mơ của một thời ngây dại. Người tôi lấy làm vợ là cô gái đã cứu tôi trong buổi chiều tôi đi trong mưa và ngã quị trước hiên nhà cô ấy. "Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa, mộng trùng lai không có bao giờ.(3)"

*******

Khi chuyện cưới hỏi đã xong, tôi gửi đơn xin cứu xét trường hợp của tôi tới phòng tổ chức. Tôi làm việc này theo sự gợi ý của một cô bạn học cùng khóa vô tình gặp trên sân trường. Cô bạn này đang có quan hệ tình cảm với ông hiệu phó, nên có điều kiện để giúp đỡ tôi toại nguyện. Kết quả đến nhanh hơn tôi tưởng, tôi cầm được quyết định phân công tác đi về vùng tận cùng của đất nước. Dù không được đến vùng cao nguyên như mong đợi, nhưng tờ giấy đó đã đem đến cho tôi niềm vui khôn xiết, chỉ có điều không có Trân Cầm để chia vui với tôi, để được nói lời chia tay với nàng.

Nhưng suốt ba tháng trường, không biết bao lần tôi lên xuống tỉnh lỵ heo hút đó trong thời điểm xe cộ đi lại rất khó khăn, Sở giáo dục của tỉnh không có một dấu hiệu gì đả động đến việc trình diện của tôi. Ngày hai bữa báo cơm tập thể, đi ngu ngơ khắp thị trấn nhỏ bé, chẳng có ai hỏi han đến mình. Tôi lại bắt đầu lâm vào một ngõ bí mới. Khi tất cả trường học đã khai giảng gần hai tháng rồi, không kiên nhẫn được nữa tôi xin gặp cán bộ phụ trách ở sở. Tiếp tôi là một đồng chí nữ nhỏ bé, mặc chiếc áo bà ba và chiếc quần đen ngắn đến mắt cá chân. Sau một hồi hỏi chuyện bâng quơ, bà ta bảo với tôi bằng một thái độ rất nghiêm nghị: Sở chúng tôi rất cần những giáo viên được đào tạo chính qui như anh, nhưng sở không thể nhận một giáo viên có tư cách như anh được. Tôi ngạc nhiên: nhưng thưa, tôi đã tốt nghiệp với đầy đủ các môn học, tôi không vi phạm chính trị, tôi không chống đối lại đường lối, chính sách của nhà nước, thế tại sao tôi lại không đủ tư cách để dạy học. Bằng cái nhìn soi mói pha lẫn khinh rẻ, bà cao giọng: Anh có đủ trình độ để dạy học nhưng anh không đủ đạo đức để làm người thầy. Tôi bắt đầu thấy máu nóng bốc lên mặt: Sao lại không đủ đạo đức… Không đợi tôi nói hết câu, bà cán bộ rút từ trong ngăn kéo ra một bọc hồ sơ, đẩy đến trước mặt tôi và nói với giọng có vẻ dịu hơn: có lẽ anh không biết thật, vậy thì tôi nói rõ cho anh biết, trong hồ sơ của trường sư phạm chuyển về, có một biên bản của một buổi họp gồm hơn chục trang giấy kết luận anh đạo đức hạng C, là hạng không thể chấp nhận ngoài xã hội chứ đừng nói ở trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Anh bị lên án là có quan hệ nam nữ bất chính, không trong sáng trong quá trình học tập, là người kiêu căng, tự mãn, có tư tưởng chống đối tập thể.

Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào, máu nóng không biết từ đâu trào lên làm cho mặt nóng bừng như có lửa. Tay nắm chặt tôi giơ lên định đấm mạnh xuống bàn, nhưng tôi kịp trấn tĩnh, bàn tay kịp dừng lại. Bây giờ thì tôi đã hiểu hết, đã nhìn thấy được hết, đã biết được mọi nguyên do. Mối tình đẹp như bài thơ của chúng tôi bị kết án là cuộc tình bất chính, không trong sáng. Những lời góp ý, phát biểu để hiểu hơn bài giảng trong sinh hoạt chính trị của tôi là những tư tưởng chống đối mọi người. Thế thì cuộc đời này còn có chi là đẹp đẽ, có chi là trung thực. Mọi giá trị đã bị đảo lộn, mọi qui ước đã bị đổi thay. Nhân danh ai, nhân danh cái gì để kết án chúng tôi. Suốt cả cuộc tình chúng tôi chỉ một lần hôn phớt môi nhau trong buổi chiều mưa tháng Sáu, chỉ một lần cầm tay trong giấc ngủ ở nông trường, đó là bất chính, là phạm vào điều tối kỵ sao?  Bỗng dưng tôi chợt nhớ có một câu thơ rất hay: "Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người". (4)Sao chúng tôi yêu nhau lại bị tước mất quyền làm người tử tế? Chúng tôi cố giữ cho cuộc tình thật thánh thiện, thật đẹp đẽ lại bị loài người gán cho là mối quan hệ không trong sáng, bất chính, phải hủy diệt, phải chối từ, phải bị lên án.

Tôi được đọc chục trang biên bản đó, đó là buổi họp chi đoàn khoa Văn. Người chủ trì, những người tham dự đều là những người bạn học chung lớp, những người hàng ngày chứng kiến cuộc tình của chúng tôi, những người hàng ngày ngồi chung bàn, cười chung chuyện với chúng tôi. Bây giờ họ trở thành những quan tòa tố cáo, kết án chúng tôi. Lúc này tôi càng hiểu hơn những ánh mắt hằn học, đố kỵ thường lóe lên sau lưng tôi. Họ nhân danh đạo đức khi họ đang làm chuyện phi đạo đức. Họ thêm thắt, thêu dệt những điều không có, họ gán cho tôi những tội lỗi mà tôi không hề phạm, những tội lỗi mà tôi chưa hề nghĩ đến, nói chi chuyện thực hiện. Họ tưởng tượng ra cảnh chúng tôi hò hẹn với nhau trong những đêm ở nông trường, xa lánh mọi người để hưởng thụ xác thân với nhau trong nhiều đêm đi lao động, sao họ không biết rằng thời gian đó tôi không có mặt ở nơi người ta dựng lên cảnh giả, lúc đó tôi đang ở một tỉnh lỵ xa nơi đó hàng trăm cây số. Thương cho Trân Cầm, nếu cô ấy biết được chuyện này, Trân Cầm làm sao chống chọi được với dư luận khắc nghiệt, làm sao chịu được mối oan khiên này. Tôi đã hiểu được sao mắt Trân Cầm như có khói, nguyên do nàng cố tránh tôi. Trân Cầm đang cố tránh những lời dị nghị, những dư luận bắt nguồn từ một vở bi hài kịch. Một vở kịch rất tồi nhưng mọi người đều cố tin và cùng nhau vỗ tay. Họ có nghĩ gì không khi buông lời kết án một con người, họ có nghĩ tới một hậu quả vô cùng tai hại khi họ gieo xuống một mầm ác, họ nghĩ gì khi xô người khác xuống bùn đen. Tôi hiểu và thông cảm thái độ và quyết định của người cán bộ sở. Họ là người chỉ biết căn cứ vào biên bản, vào những báo cáo. Và khi tiếp nhận báo cáo như vậy thì ai có thể dám nhận một người đạo đức hạng C như tôi làm giáo viên để giảng dạy cho thế hệ trẻ.

Tôi trở về thành phố ngay trong đêm với bọc hồ sơ người cán bộ tin tưởng giao cho. Bọc hồ sơ hơn chục trang đầy kín chữ chứa những lời kết án đã đóng tôi vào thập tự.

Sau nhiều lần tìm đủ mọi cách để được gặp cán bộ phòng tổ chức, nhiều lần dùng đủ mọi lý lẽ, mọi bằng chứng chứng minh mình là người bị oan khuất, những lời kết tội là không đúng sự thật, tôi đã được bố trí về dạy học ở một trường xa tít ở ngoại thành.

*******

Con đường đến trường thật lắm gian nan, sau gần năm tiếng đồng hồ chuyển từ xe buýt qua xe lam, rồi lên xe ngựa, rồi một chuyến xe lam nữa đi qua nhiều chiếc cầu nhỏ, nhiều đồng lúa trơ gốc rạ tôi mới đến được ngôi trường. Đó là những dãy nhà thấp lè tè lợp tôn, vách tường nham nhở những vết thương. Sân trường đọng những vũng bùn với hàng cây điệp vàng quắt queo, hàng cây bã đậu xù xì gai góc. Đêm đêm tiếng ễnh ương kêu buồn não nuột. Nhưng tôi rất vui vì đã được đón nhận. Có lẽ người ta đã hủy bản án của tôi rồi, tôi nhủ thầm sẽ cố gắng phấn đấu để chứng minh rằng tôi vẫn là người còn có ích, tôi sẽ cố gắng dạy học và sống thật tốt để minh chứng cho cuộc đời thấy rằng những lời kết tội kia là những điều dối trá. Dù thời gian đầu gần sáu tháng, tôi không được lãnh lương, hàng tháng tôi chỉ lãnh được vài kí gạo độn bo bo, người ta muốn dò xét, hoặc thử lòng tôi chăng? Những năm tháng đó là giai đoạn khó khăn về kinh tế của cả nước, bữa cơm tập thể luôn độn bo bo hoặc bột mì, món ăn quanh năm là tô canh rau hay bầu bí lỏng bỏng nước và miếng cá tanh tưởi , nát nhừ, ươn thối. Những ngày ấy tôi sống không ham muốn, không lo âu, chỉ biết làm việc và cống hiến. Tôi chấp nhận cuộc sống ở miền quê này, tìm thấy niềm vui trước những tình cảm rất chân thật của các học trò nhỏ. Tôi xung phong dạy hết ba cấp lớp, dạy suốt tuần không nghỉ mong quên được hình bóng của Trân Cầm, hình ảnh của mối tình đã mất. Quên đi cay đắng cuộc đời dành cho.

Đôi khi, trong mùa đi chấm thi, tôi cũng có gặp Trân Cầm, chúng tôi cũng có nhiều câu chuyện để nói với nhau, nhưng rồi mỗi đứa lại đi mỗi ngả, để lại trong tôi nhiều nỗi nhớ hơn. Tôi ở đấy gần năm năm, gần như không biết những đổi thay của thế giới, bởi không điện, không truyền hình, truyền thanh, thỉnh thoảng chỉ đọc một vài tờ báo cũ. Tôi như người tù nhân tự nguyện bị giam lỏng nơi chốn xa xôi, xa nền văn minh đương đại. Bạn bè tôi ở thành phố không gặp được tôi nên một số cứ đinh ninh tôi đã vượt biên, bởi lúc này phong trào vượt biên rầm rộ lắm. Tôi trở thành anh nhà quê ngơ ngác khi có dịp về chốn thị thành, mà thật ra chốn thị thành thì cũng nghèo nàn, thiếu thốn, mọi người ai cũng lao lực kiếm ăn, chỉ biết làm sao để có ăn cho no là hạnh phúc. Hạnh phúc là được mua được tấm vải, chiếc vỏ xe, lạng thịt theo giá phân phối. Hạnh phúc rất giản đơn. Còn tôi thì cứ quắt quay tìm kiếm một thứ hạnh phúc xa vời không có thực.

*******

Những khó khăn trong cuộc sống, những mâu thuẫn gia đình càng ngày càng lớn dần lên đưa tới kết cuộc là vợ chồng tôi phải đi tới cảnh chia tay, tôi trở lại cuộc sống độc thân, lại ngày ngày nhận thau cơm ở bếp ăn tập thể, lại hàng đêm đối diện với bóng mình. Nhưng ở nơi xa xôi này, người ta vẫn chưa quên chuyện cũ, đã có lần chuyện đạo đức hạng C của tôi lại được đem ra bàn cãi, đó là lúc chi đoàn định kết nạp đoàn viên cho tôi. Qúa khứ đó cộng với việc tôi vừa ly dị đã khiến cho mọi người không đồng ý cho tôi cùng đứng chung hàng ngũ, tôi vẫn là người có không đủ đạo đức để tiến lên. Tôi cũng chẳng lấy chuyện đó làm buồn, bởi tôi hiểu mình đã bị vết chàm bôi bẩn, dễ gì được tẩy trắng lại đâu. Tôi chỉ mong sự bình yên.

Đủ thời gian công tác ở ngoại thành, tôi được trở về thành phố. Trân Cầm lập gia đình khi tôi vừa có quyết định li hôn. Âu đó cũng là số trời, bởi chúng tôi có duyên gặp nhau nhưng không có nợ để trói nhau. Tôi cầu mong cho Trân Cầm được hạnh phúc, có lẽ chúng tôi sẽ không nên gặp nhau nữa, mỗi người đã có một phần số của mình.

Tôi cố thu mình lại để sống, lạnh nhạt với mọi người, xa lánh chốn đông vui, một mình gặm nhấm những éo le và bất hạnh. Nhiều đồng nghiệp nữ có cảm tình với tôi, có lẽ do sự lạnh lùng xa cách không giống ai khiến họ tò mò muốn tìm một cuộc phiêu lưu, khám phá. Nhưng tôi không cùng tham dự được bằng trái tim nguội lạnh với con người.

Rồi Trân Cầm đi xa, tôi biết tin này chỉ một ngày trước khi nàng bay. Tôi viết vội vài dòng thay cho lời đưa tiễn. Ngày Trân Cầm đi, tôi đến sân bay kiếm góc kín đứng nhìn nàng lặng lẽ. Và khi nàng bước ra máy bay, tôi lên phòng lầu dành cho khách tiễn đưa nhau, nhìn xuống sân bay mênh mông, tìm một khung cửa sổ, buộc vào một chiếc khăn bay trong gió và hi vọng rằng từ khung cửa máy bay Trân Cầm sẽ nhìn thấy chiếc khăn như bàn tay vẫy vĩnh biệt. "Môi cười ở cuối sân ga, chùm bông tuyết mỏng pha màu vĩnh ly (5)". Ở đây trưa nắng, không có tuyết, nhưng sao tôi thấy lạnh vô cùng. Thế là từ nay tôi sẽ không bao giờ gặp Trân Cầm được nữa. Chiếc khăn đã bị gió cuốn đi. Dòng đời cũng đã cuốn chúng tôi đi. Vĩnh biệt!

Từ ngày đó, khi đi đường, tôi cứ khao khát tìm theo những người như có dáng như Trân Cầm, những người tóc xõa, vai gầy, đi guốc mộc, đội nón lá, hi vọng tìm được Trân Cầm giữa phố đông, để chào nhau giữa con đường, để cho nhau nụ cười giữa phố phường ngựa xe. Nhưng hình bóng đó không còn tìm thấy được bởi người đã đi xa, mà phố xá bây giờ có ai dùng nón lá và guốc mộc. Ngỡ như là tuyệt vọng.

Nhưng rồi Trân Cầm lại trở về, với mái tóc bạc trắng vì những ngày tháng cực nhọc nơi xứ lạ. Tôi gặp Trân Cầm giữa phố, nỗi mừng vui pha lẫn chút xót xa. Cuộc hạnh ngộ rất ngắn nhưng làm cho tôi quá sững sờ. Dấu thời gian đã bắt đầu hiện diện trên nhan sắc. Hòn đá lăn không đóng rêu, thời gian làm rong rêu những bậc  thềm vắng. Thời gian làm rong rêu trái tim tôi, trái tim tù đọng mệt mỏi vì yêu người. Cả hai chúng tôi đã bắt đầu của tuổi già. Nhưng vẫn chưa được yêu nhau trọn vẹn.

***********

Tôi từ bỏ nghề giáo, nhảy vào nghề buôn, bởi nghề buôn chỉ cần chữ tín, người ta không xét lí lịch, thương trường không xét đạo đức hạng nào mà chỉ cần anh năng động và biết nắm bắt cơ hội. Tôi buôn bằng chất xám của mình, lấy tim óc đổi thành tiền bạc, lấy tiền bạc đổi thành ngựa xe, nhà cửa. Tôi trở thành anh nhà giàu trong thời kỳ đổi mới. Tôi lại có chức danh, có nhiều kẻ xoay quanh xu nịnh, có nhiều thứ trong tay, chỉ thiếu có tình yêu của Trân Cầm. Tôi chạy theo cơn lốc làm giàu suốt một thời gian dài, bỗng có lúc ngồi nhìn lại, trái tim bệnh hoạn mệt mỏi của tôi lên tiếng, nỗi khát khao về ngôi nhà trên đồi nhìn xuống cánh đồng hoa vàng trên thành phố đầy sương trắng của ngày xưa lại cháy bỏng trở về. Tôi lên Blao, mua trang trại này, trồng những khóm hoa vàng trên đồi, như để ghi nhớ một cuộc tình thời tuổi trẻ, một mối tình sẽ đi mãi suốt cuộc đời tôi. Một cuộc tình lãng mạn kéo dài qua hai thế kỷ.

Mới đây, tôi đọc được những bài viết của Trân Cầm ghi lại những ngày tháng năm nàng lao động ở xứ người, những nỗi cô đơn, nhớ quê nhà của cô ấy, bỗng tôi chợt có ý nghĩ lãng mạn cuối cùng, tôi sẽ bay qua xứ lạ đó. Tôi sẽ đi trên những con đường Trân Cầm đã đi, thở không khí Trân Cầm đã thở, để nghe trong bão cát vàng, trong gió tuyết những nỗi cô đơn của một kẻ xa nhà, để chia sẻ nỗi buồn của kẻ tha hương. Tôi sẽ đi nhìn những chiếc lá đỏ, những chiếc lá nàng đã từng nhìn, những cây phong lá đỏ của rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Tôi sẽ đứng nghe gió thổi, những ngọn gió đã từng thổi qua người nàng. Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa trên dốc núi, sẽ ngồi trên phiến đá nàng đã từng ngồi, nghe tiếng chuông chùa lặng lẽ giữa thinh không. Để cảm nhận được rằng, thế gian này có đó rồi mất đó. Sắc sắc không không.

Tôi không có được Trân Cầm trong cuộc sống lứa đôi, nhưng tôi đã có nàng trong mộng tưởng.

Tiếng chuông chùa sẽ cho tôi quên đi tục lụy, quên đi những ác tâm đã làm cho chúng tôi xa cách ngày xưa, quên hết mọi người để chỉ còn hai đứa chúng tôi, lại đi trong mưa trong mùa mưa tháng Sáu.

Thuở mới quen nhau. Trân Cầm có chép cho tôi bài thơ, trong đó có câu: Có trầu mà chẳng có cau, Thì đành không đỏ môi nhau kiếp này. Thật vậy, có trầu không cau đúng là quá vô duyên, tôi cũng quá vô duyên khi tưởng tượng đến một cuộc dầm mưa giữa tuổi năm mươi, khi cả hai đã bị dấu vết thời gian làm cho mệt mỏi, khi cuộc đời đã quật cho đến mệt nhoài. Nhưng hàng năm vẫn có tháng Sáu, và tháng Sáu vẫn có những cơn mưa. 

Thế nhưng chuyến đi của tôi đã không thực hiện được, khi hành lí đã chuẩn bị xong, chiếc vé máy bay đã nằm trong túi áo, mùa thu lá đã vàng thì tôi nhận tin Trân Cầm vừa qua đời . Cái chết đến đột ngột như một cơn gió độc thổi qua cõi trần gian này. Tôi không tiễn được nàng về chốn xa xôi ấy. Tôi không được mang những bông hoa cẩm chướng trắng mà nàng rất ưa thích đến bên tấm hình hài đã bất động rồi. Chúng tôi cũng chẳng có một đoạn đường ngắn ngủi để tiễn đưa nhau. Ước vọng của một thời cũng đã chấm dứt, tôi về đây để nghe gió thổi và lá rụng trên đồi. Mỗi buổi chiều ngồi lặng lẽ để nhớ những tàn phai và cuộc tình không có lời chia tay. Có lẽ ở bên kia của thế giới, mỗi buổi chiều nàng cũng giống như tôi ngồi nhìn chiều đang đi và tiếc cho một cuộc tình.

*******

Vệt sáng đã bắt đầu hiện lên ở chân đồi, ông bạn già của tôi ngừng kể, đôi mắt ông xa xăm nhìn về phía có ánh sáng vừa lên. Có tiếng kêu của con nai lẻ bạn, vang trong trảng cỏ. Ngày mai sẽ là ngày nắng đẹp. Tôi sẽ về Sài Gòn, về lại nơi loài người đang tranh nhau sống, đang cố sức để dìm nhau xuống. Chắc chắn sẽ có ngày tôi sẽ trở lại nơi này, ông bạn già của tôi ơi.

Sài Gòn, tháng Sáu 2002

DODUYNGOC

(1) Thơ Hồ Dzếnh

(2) Thơ Đỗ Duy Ngọc

(3)Thơ Bùi Giáng

(4) Thơ Nguyễn Đình Thi 

(5) Thơ Bùi Giáng


MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget