Latest Post

 


Ta đành quên người đã mịt mù

Chiếc lá vàng sót chút mùa thu
Ta còn lại nửa đời lở dở
Tập từ bi vơi bớt hận thù
Ta đành quên người đã hư hao
Mầm biệt ly thoáng hiện hôm nào
Mắt thôi liếc nụ cười héo rũ
Đôi tay buồn thêm màu xanh xao
Ta đành quên bao ngày đi hoang
Bước phiêu du điếu thuốc lụi tàn
Gió rất khẽ sao lòng tơi tả
Điệu nhạc buồn tiễn tình sang trang
Ta đành quên người về chốn ấy
Tụng lời kinh niết bàn chưa thấy
Con chim buồn vỗ cánh bay đi
Nhìn vai gầy xót xa biết mấy
Ta đành quên những ngày đã xa
Bóng hắt hiu lúc tuổi chớm già
Leo lét cháy bầu dầu sắp cạn
Chẳng ai chờ ở cuối sân ga
Ta đành quên bao nhiêu vết xước
Mây bay xa làm hồn đẫm nước
Tim chập chùng những dấu rong rêu
Thấy sương khói ngập đầy mắt ướt
Ta đành quên căn nhà dưới dốc
Bước người về guốc khua lóc cóc
Tà áo bay sáng cả trời chiều
Ta cuộn mình tay ôm mặt khóc
Ta đành quên những nụ hôn đầu
Cơn mưa chiều quên lối về đâu
Dấu năm tháng đày thân tiều tuỵ
Giờ chỉ còn nỗi nhớ rất sâu.
Ta đành quên những ngày rất cũ
Tuy vết thương vẫn còn mưng mủ
Tiếng kèn buồn đưa tiễn hôm qua
Ta trở lại làm tên du thủ
DODUYNGOC



Hắn và cô ấy học cùng trường, hắn trên cô ấy hình như ba lớp. Từ nhà hắn đến trường, đi nửa đường là nhà cô ấy nên thường gặp nhau. Hồi đó học trò thường đi bộ, một số bạn bè đã có xe gắn máy nhưng bố hắn không cho đi xe sợ nguy hiểm, chỉ thỉnh thoảng rảnh rỗi bố hắn chở hắn đến trường, nhưng chỉ năm thì mười hoạ. Thường thường gặp nhau trên đường, hôm thì hắn đi trước, cô ấy đi sau. Những khi như vậy hắn thường đi qua bên kia đường, đi chậm lại cho nàng đi trước rồi băng lại qua đường đi sau lưng nàng một quãng. Hôm nào ngẫu nhiên đi sau, hắn cứ tà tà lẽo đẽo đằng sau, cách hơn mười thước. Hắn khoái đi sau lưng cô ấy để được ngắm những bước chân đi, nhìn gót chân hồng hồng trong đôi guốc mộc, nhìn dáng đi chậm rãi có vẻ đoan trang, thuỳ mị, con gái thời đó được dạy thế, nhìn suối tóc dài đen mướt buông thả ngang lưng với tà áo trắng. Chỉ thế thôi mà lòng rộn rã. Con đường đi qua nhưng hàng phượng đỏ, thuở ấy con đường này đầy phượng. Mùa nắng, hoa phượng đỏ rực dưới bước chân nàng. Trên cao những chùm hoa phượng đỏ rực rỡ trên nền trời xanh. Một cơn gió thoảng qua, nhiều cánh hoa như những giọt máu bay trong gió. Ôi cái thời thật hồn nhiên và lãng mạn. Cô ấy có biết hắn theo không, hắn nghĩ là có biết bởi cũng có nhiều lần cô ấy quay nhìn lại, đôi mắt tròn xoe như có nụ cười. Và hắn làm thơ, viết bao nhiêu là bài thơ về mối tình một chiều đang ươm mầm và lên lá trong lòng cậu học trò lớp đệ tam. Ngày nắng hay ngày mưa, hắn vẫn như cái đuôi suốt đoạn đường đến trường lúc đi cũng như khi về. Con đường đấy có một nhà thờ, thỉnh thoảng giấc trưa đi học về có tiếng chuông ngân nga, mỗi chiều có tiếng kinh cầu. Hắn có viết một bài thơ có tiếng chuông ngân và lời kinh cầu đó.
Hình ảnh ấy kéo dài suốt hai năm mà cũng chẳng có gì thay đổi. Vẫn cô nàng đằng trước và hắn phía sau suốt hai niên học. Hắn học nhảy, năm đệ tam hắn đã thi thí sinh tự do tú tài một bằng cách mua một học bạ lớp đệ nhị của một trường tư thục. Bởi thế năm đang học đệ nhị hắn đã chuẩn bị thi tú tài hai. Đời học sinh của hắn không học lớp đệ nhất ở trường chính thức.
Vừa đậu tú tài hai chuẩn bị ra Huế hoặc vào Sài Gòn học đại học, hắn gom tiền in ba trăm tập thơ, toàn thơ tình viết cho cô ấy, viết về một mối tình câm lặng suốt hai năm, viết về những nỗi buồn không nói được, về những tâm trạng của thằng con trai mới lớn si tình. Trước ngày bay vào Sài Gòn, hắn gói mười tập thơ bằng tờ giấy hoa rất đẹp gởi đến địa chỉ nhà nàng rồi bay mất. Để lại thành phố nhỏ đó một mối tình si, mối tình của tuổi mới lớn nhiều ký ức nhưng không có kỷ niệm.
Hắn không chấp nhận ngành học mà bố hắn yêu cầu nên ở đất Sài Gòn, hắn thuộc diện sinh viên mồ côi, tức là không có trợ cấp của gia đình. Hắn làm đủ việc để kiếm tiền đi học, công việc cuốn hắn đi. Cơm ăn, áo mặc, tiền cours, tiền sách báo, tiền học thêm ngoại ngữ khiến hắn không còn thì giờ để nghĩ ngợi nhiều. Thế nhưng nhiều đêm, thỉnh thoảng ôm đàn dưới trăng, hắn lại nhớ về cô ấy, nhớ thế thôi chứ cũng chẳng biết làm gì. Có lần ghé ký túc xá sinh viên Trường Kỹ sư Phú Thọ, hắn bắt gặp ai đó viết bài thơ của hắn trên tường ở đầu giường. Hắn vui vì cũng có người thích những bài thơ vụng dại một thời của hắn.
Rồi hắn được một cái học bổng đi học xa, bốn năm xa tít mù khơi cũng khiến hắn phai mờ mối tình câm của thuở học trò. Trở về, hắn làm công chức, ngày hai buổi đón xe đến sở làm, rồi về. Hắn vẫn là thằng đàn ông nhạt thếch không biết ăn chơi, nhảy nhót như những bạn cùng sở. Hắn lại không rượu bia, cà phê lê la hàng quán. Cuộc sống của hắn nhàn nhạt ngoài mấy cuốn sách hắn ngấu nghiến hàng đêm và tiếng đàn nỉ non những đêm trăng.
Rồi biến cố lịch sử ào ạt ập tới, cuộc sống mới lắm đổi thay, hắn thất nghiệp vì không đi trình diện sở làm cũ. Hắn lại sống lây lất và cũng đến lúc hắn lập gia đình, vợ hắn là người Sài Gòn. Cuộc đời hắn lại qua một trang mới. Hắn xin đi dạy học, lúc ấy nhu cầu giáo viên rất cần nên hắn được nhận rất dễ dàng nhưng vì lý lịch xấu quá hắn được đưa về một trường xa tít mù ở ngoại thành.
Một lần, lúc hắn đang đứng lớp, có người báo tin vợ hắn lâm bệnh, phải đưa vào nhà thương. Hắn lật đật chạy về vào bệnh viện thăm vợ. Hắn tình cờ gặp cô ấy, người con gái ngày xưa đó trong phòng của bệnh nhân. Cô ấy muôi mẹ bệnh, giường mẹ cô cách giường vợ hắn hai dãy. Cô nhìn hắn với đôi mắt ngạc nhiên tựa hình dấu hỏi. Vẫn đôi mắt đen với rèm mi cong ấy. Hắn nhìn cô ngỡ ngàng, định mở lời hỏi thăm mà không dám mở lời bởi vợ hắn ghen ghê lắm. Đành thôi. Ở lại một đêm với vợ, thỉnh thoảng liếc nhìn qua giường bên kia, không biết cô ấy đang nghĩ gì về cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên này.
Khi trời chưa sáng, hắn lật đật ra bến xe để đến trường dạy học và vợ hắn sẽ được xuất viện trưa nay. Hắn cứ ân hận mãi về việc không có một lời thăm hỏi sau một thời gian khá dài mới được gặp lại.
Dạy được đôi năm, biết hoàn cảnh khó khăn của gia đình hắn, hắn cũng được cấp nhà ở thành phố, một căn nhà nhỏ đủ cho một cặp vợ chồng với một con tá túc. Nhận ngôi nhà trống chẳng có vật dụng gì, hắn xuống phố gần nhà kiếm bộ bàn ghế rẻ tiền làm bàn ăn cũng là nơi làm việc và tiếp khách. Hồi đó ai cũng nghèo, làm nghề thầy giáo lại càng nghèo nên cứ đi loanh quanh mà vẫn chưa tìm được bộ bàn ghế nào vừa ý và hợp với số tiền trong túi. Cuối cùng, có một tiệm đầu phố gần dốc cầu hắn thoáng thấy một bộ bàn ghế bằng gỗ tạp, chắc là giá không đắt lắm. Hắn ghé vào, tiệm lổn ngổn những tủ bàn gỗ mộc nhưng chẳng thấy ai đứng bán. Chỉ có một cô bé khoảng năm sáu tuổi đang ngồi chơi đồ hàng. Cô bé thấy có khách bèn ngừng chơi nói vọng vào trong: Mẹ ơi! Có khách mua hàng nè. Một người đàn bà xuất hiện, vừa nhìn hắn đã nhìn ra là cô ấy dù thời gian đã làm nhan sắc của nàng có chút đổi thay. Cô ấy cũng ngạc nhiên khi thấy hắn, một thoáng nhận ra nhau. Hắn chưa kịp mở lời thì nàng đã nói vọng vào trong: Anh ơi! Anh bạn ngày xưa làm thơ tặng em nè. Hắn vừa nghe đến đó cảm thấy quê xệ quá nên liền vọt lẹ, lúng túng nên đạp mấy cái xe cà tàng không chịu nổ, hắn chèo hai chân đẩy vội xe đi, đường hơi xuống dốc nên hắn lật đật gài số, xe nổ hắn rú xe chạy một mạch.
Nhà hắn cách nhà cô ấy chỉ một con đường và một chiếc cầu. Hắn thường đi qua đó nhưng chẳng có chi để ghé vào cho đến mấy năm sau, người ta trùng tu lại cây cầu, tiệm đồ gỗ của nàng đóng cửa, không biết dọn về đâu?
Gần ba chục năm sau, trong một buổi họp mặt sinh viên của trường đại học cũ, hắn ngồi cạnh một anh bạn. Thời sinh viên la cà hành lang, biết nhau chứ không thân. Hai thằng nói qua nói lại, hoá ra cũng là bạn của nhiều người bạn chung. Nhắc nhiều chuyện ngày xưa nên cũng cảm thấy thân tình như tìm được một người bạn cũ. Hẹn hôm nào uống cà phê nói tiếp.
Sáng hôm sau hắn đi ăn sáng ở cơm tấm Nguyễn Phi Khanh, lại gặp anh bạn ấy cũng ăn sáng ở đấy. Lại tám chuyện cùng nhau và bạn rủ về quán gần nhà uống cà phê. Quán nằm ngay sau lưng nhà cô ấy. Nói năm điều bốn chuyện, hết chuyện trường xưa bạn cũ lại chuyên chính trị, thời sự. Cuối cùng, như thói quen của những người già, hỏi thăm gia đình, con cái của nhau. Anh bạn hắn chỉ ngôi nhà của cô ấy và bảo nhà tôi đấy, vợ người cùng quê Đà Nẵng với ông và có hai con đã lớn. Hắn chột dạ, thấy mẹ rồi, thì ra tay này là chồng của cô ấy. Sao trái đất bé quá vậy ta?
Hắn định bảo hắn có quen biết cô vợ. Nhưng nghĩ chẳng nên nói mà chi. Hay là thằng này nghe vợ kể tên hắn rồi nên làm thân để điều tra chi đây? Câm là hay nhất. Từ lần đó hắn cũng không gặp lại người bạn này.
Thời gian lẹ quá, bỗng chốc mới đó mà đã quá tuồi bảy mươi. Vợ hắn mất đã được mấy năm. Hắn lại cơm hàng cháo chợ. Suốt ngày lang thang quán xá. Hắn phát hiện có một quán cơm ngon, vệ sinh mà giá phải chăng nên trưa, chiều đều đến ăn ở đấy. Quán nằm đối diện căn nhà của cô ấy phía bên kia đường. Đôi khi ăn cơm, hắn thường nhìn qua, căn nhà cứ mãi đóng cửa im ỉm. Hắn đợi một hôm nào đó nhìn thấy nàng, hắn sẽ mạnh dạn đi qua mở một lời chào. Nhưng chờ mãi cũng chẳng thấy. Suốt hơn năm mươi năm biết nhau, hắn chưa được một lời với người hắn đã từng có thời yêu say đắm. Giờ hắn đã là ông nội, cô ấy cũng đã là bà ngoại. Sao cuộc đời không cho hắn gặp lại chỉ một lần nữa thôi để hắn ngỏ được một lời, để thấy được một nụ cười dù biết nụ cười bây giờ đã móm mém rồi.
Chiều nay, như mọi buổi chiều, hắn ngồi ăn cơm quán. Trời mưa lớn, hắn nhìn qua căn nhà trong màn mưa. Căn nhà vẫn đóng cửa im ỉm, chẳng thấy bóng ai.
19.7.2022
DODUYNGOC


Tôi vụng về nhồi thêm cối thuốc
Chiều âm u rớt mấy hạt mưa
Hành lang xưa chợt thèm tiếng guốc
Đôi bàn tay cảm thấy dư thừa
Người đã đi không có lời chào
Phố muộn phiền như bấc dầu hao
Tôi ở lại đứng ngồi tuyệt vọng
Nhìn lá bay tưởng bóng hôm nào
Giữa ngả bảy đường chia bảy ngả
Tôi hoang mang không lối đi về
Người đành lòng bỏ quên tất cả
Thôi cũng đành ôm nỗi tái tê
Ừ thôi thế cũng là phận số
Cuối đời rồi tiếc rẻ làm chi
Người mãi mãi chỉ là câu đố
Tôi loay hoay cũng chẳng được gì
Tôi vẫn biết người còn ở đây
Vẫn hắt hiu một tấm thân gầy
Đôi mắt ướt ngập đầy sương khói
Nhớ nhung người tôi nghe đắng cay
2014
DODUYNGOC


Đêm cô đơn bộn bề chăn gối

Người đi xa không lời trăng trối

Gió thổi về từng đợt nôn nao

Đèn lụi bấc góc phòng tăm tối

Đêm đắng cay với bao muộn phiền

Đêm thiết tha mắt môi thật hiền

Đêm co ro như thú tật nguyền

Trằn trọc thèm những phút bình yên

Đêm khát khao nhiều cơn mộng đầy

Đêm nhớ thương đôi vai thật gầy

Đêm co ro bức tường in bóng

Lá rũ buồn trên những đọt cây

Đêm hắt hiu hơi thở buồn tênh

Đêm bơ vơ giữa những chiếu mền

Đêm xơ xác bao bài thơ cũ

Người đi rồi ta chẳng còn tên

Đêm bỗng dưng tiếng người thật gần

Đêm trở gió bao lời thì thầm

Ta lưu lạc quay về quá khứ

Sầu chưa gieo buồn đã nẩy mầm

Đêm lặng lẽ trong đôi mắt ngó

Đêm nguyệt tận ta nằm một xó

Hình như mùi son phấn còn đây

Chân ai bước trên đầu ngọn cỏ

Đêm băn khoăn đường về vô tận

Đêm mù tăm quá nhiều lận đận

Đêm âm u chẳng biết lối về

Tập từ bi để quên thù hận

1.7.2022

DODUYNGOC




Tính đến nay, sau hơn hai năm con virus quái ác như cơn bão tấn công thế giới, toàn cầu đã ghi nhận hơn 535 triệu ca mắc Covid-19 và hơn 6,3 triệu ca tử vong do đại dịch. Trong thời điểm đó, vaccine được xem như là vị cứu tinh để đối phó với cơn đại dịch. Trong một thời gian kỷ lục, bất chấp những quy định về việc sản xuất vaccine từ xưa đến nay, nhiều chủng vaccine đã ra đời một cách nhanh chóng  để phòng chống dịch. Vaccine của Pfizer sau đó là Moderna đã được phê chuẩn vội vã trong vòng một năm để phục vụ cho loài người. Không thể phủ nhận nhờ có vaccine, dịch đã tạm lắng nhiều nơi trên thế giới, số người tử vong càng ngày càng giảm. 

Ở nước ta cũng thế, khi đa số người dân được chích vaccine, tuy Covid 19 chưa bị đẩy lùi hẳn nhưng số người nhiễm bệnh và tử vong giảm rõ rệt. Ngày này năm trước, cơn đại dịch bùng phát ở thành phố và chỉ trong vòng nửa năm đã cướp đi hàng chục ngàn sinh mạng. Thành phố đã trở lại cuộc sống bình thường, nỗi lo sợ về dịch bệnh và cái chết đe doạ hầu như không còn nữa. Người dân đã quen dần với những triệu chứng bệnh, dần dần xem như cảm cúm bình thường. Tuy vẫn còn mang khẩu trang như một thói quen, người ta bắt đầu không còn lưu tâm đến con virus khốn nạn đó nữa.

Thế nhưng, lại xuất hiện những di chứng mà các nhà khoa học cho là những hậu quả của hậu Covid. Vào tháng 10.2021, tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa chính thức đầu tiên về hội chứng hậu Covid. Hội chứng này xảy ra ở những người nhiễm virus được 3 tháng, với các triệu chứng xuất hiện và kéo dài ít nhất 2 tháng mà không có bất kỳ chẩn đoán thay thế nào có thể giải thích được. Hội chứng này biểu hiện những triệu chứng như đau tức ngực, khó thở, khi leo cầu thang thường có cảm giác bị hụt hơi. Hay bị chóng mặt, mệt mỏi. Suy giảm trí nhớ, hay quên do khả năng cung cấp máu đến các cơ quan giảm, thiếu máu lên não ảnh hưởng đến khả năng tập trung. Giấc ngủ bị rối loạn, thức giấc giữa đêm. Ho kéo dài dai dẳng, giọng nói thay đổi. Khả năng co bóp cơ giảm, chân tay không còn tràn đầy sức lực như trước, hay bị đau cơ, đau khớp. Tinh thần không ổn định, thường xuyên lo lắng, thậm chí là trầm cảm. Những người có sẵn bệnh nền sẽ bị bệnh nặng hơn và khó chữa hơn.

Hội chứng hậu Covid tác động đến nhiều cơ quan bộ phận, không chỉ biểu hiện ở mặt lâm sàng mà còn xuất hiện những triệu chứng cận lâm sàng như: rối loạn đường huyết, giảm khả năng lọc cầu thận, tăng men tim,… Đặc biệt là tình trạng rối loạn chức năng hô hấp, nhất là giảm dung tích và độ khuếch tán phổi. Và cũng có nhiều trường hợp tử vong.

Cũng có nhiều nghiên cứu cho rằng những biểu hiện trên xuất hiện ở những người đã chích vaccine và không hề bị nhiễm bệnh. Và những nghiên cứu đấy cho rằng đó là hậu quả của việc chích vaccine. Cho đến nay, những công ty sản xuất vaccine vẫn chưa báo cáo tổng kết những di chứng có thể xảy ra đối với người đã chích vaccine. Do đó, loài người vẫn chưa biết vaccine khi tác động vào tế bào của con người sẽ khiến cho cơ thể có những biến đổi như thế nào? Tất cả còn trong chờ đợi.

Và giờ đây nhà nước đang thực hiện tiêm mũi 4 cho các đối tượng dễ nhiễm bệnh và người trên 65 tuổi. Trong tình hình dịch bệnh đang tạm lắng, những di chứng hậu Covid và vaccine chưa được giải thích rõ ràng, người dân lại e dè, ngần ngại khi chích mũi thứ tư. Có lập luận cho rằng, chích hai, ba mũi vẫn không tránh được nhiễm dịch. Giờ chích thêm mũi thứ tư cũng vẫn có thể dính dịch, thì chích thêm làm gì lại có hại cho cơ thể. Lại có tin trên báo cho biết rằng hiện nay có hàng triệu liều vaccine đang cận date, dân lại lo sẽ bị chích thuốc quá date. 

Trước tình hình không tích cực chích vaccine của một số người dân, Bộ Y tế và một số địa phương ban hành đề nghị những người không chấp nhận chích tiếp vaccine phải ký cam kết và chịu trách nhiệm khi cộng đồng nhiễm dịch. Kiểu này là tào lao rồi. Tiêm chủng là tự nguyện, khi người dân cảm thấy cần thiết thì sẽ chen nhau chích, xem được chích là một đặc ân, là may mắn như đã từng xảy ra trước đây khi dịch bệnh căng thẳng. Bây giờ tình hình đã khác rồi. Chỉ nên kêu gọi ý thức của người dân chứ không nên đề ra những biện pháp chế tài đe doạ. Khi cộng đồng nhiễm dịch, biết ai là người làm lây bệnh mà thi hành biện pháp, chuyện đấy bất khả thi. Hơn nữa, muốn thực hiện chuyện cam kết như thế chính quyền phải đưa ra quy định cụ thể và tính pháp lý của việc ký cam kết chịu trách nhiệm nếu để dịch lây lan. Khi thấy cần thiết phải tiêm chủng để tránh những nguy hiểm của dịch bệnh, người dân sẽ hưởng ứng ngay thôi. 

Phòng chống dịch cần có những biện pháp, kế hoạch cụ thể và hợp lý. Những bi thương của năm trước do những sai lầm vẫn còn đó. Việc chọc ngoáy đại trà, liên tục với kit test dỏm giá cao của thời đấy đã cho thấy nhiều điều khiến dân phẫn nộ. Do vậy, khi ban hành những biện pháp nên cân nhắc và cẩn thận, không nên đi vào vết xe đổ đưa đến hậu quả không hay. Hệ thống truyền thông của nhà nước nên có những giải thích rõ ràng cho dân hiểu. Nhất là những triệu chứng tác động về lâu dài trên cơ thể khi chích vaccine. Khi dân đã thông thì mọi kế hoạch sẽ thực hiện thông suốt và dễ dàng.

28.6.2022

DODUYNGOC




Số phận dìm ta xuống vực sâu

Hoàng hôn chim mỏi lượn quanh đầu

Trăm năm một thoáng lòe ánh chớp

Ôm nỗi đau này giữa bể dâu

Người đi cửa khép không nhìn lại

Ta đứng bên đường mãi ngóng theo

Lên rừng lá rụng đầy hoa héo

Xuống biển tay run vụng mái chèo

Bủa vây suốt kiếp đầy dang dở

Một thuở băn khoăn về hay ở

Ta đến khi tàu vừa rời ga

Vết mực phai nhòe khung tình vỡ

Đã có một thời làm cánh chim

Vẫy vùng bạt gió máu đầy tim

Một hôm chợt ngộ ra chân lý

Bay mãi không ra khỏi cổng trời

Số phận vây tràn bước chẳng qua

Cuối đời cô quạnh một căn nhà

Nhện giăng phảng phất mùi nhang khói

Khát vọng thuở nào lần lượt xa

Đêm buồn nằm nghe vạc kêu sương

Chân co tay mỏi trống góc giường

Sáng mai không nhận ra ta nữa

Tóc đã bay màu trắng trước gương

27.6.2022

DODUYNGOC






Hổm rày báo chí và mạng xã hội bàn nhiều về phim Em và Trịnh. Yêu cũng có mà ghét cũng nhiều. Lắm người xúi tui viết một bài bày tỏ ý kiến, tui bảo người trong và ngoài cuộc viết nhiều rồi, tui viết thêm cũng bằng thừa. Nhưng rồi nhiều người xúi giục, tui cũng xin viết vài câu ngăn ngắn thế này. Nhạc của ông thì người ta nghe nhiều quá rồi nên không nói về nhạc mà chỉ nói về phim. Chỉ nói thêm một chút như có người đã từng nêu là bài hát Tiến thoái lưỡng nan là bài đúng tâm trạng và tính cách của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người đứng hàng hai. Và theo tôi, một trong những bài ca dở nhất của ông là bài Em ở nông trường, anh ra biên giới. Bài hát xu thời là bài Huyền thoại mẹ. Ai cũng biết làm phim, viết truyện luôn phải có chút hư cấu. Nếu không thì thành phim tài liệu hay hồi ký mất rồi. Nhưng làm phim về một nhân vật có thật thì những hư cấu cũng không thể quá xa với sự thật như nó vốn có. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là nhân vật có thật. Ca sĩ Khánh Ly là nhân vật có thật. Dao Ánh và những nhân vật khác nữa đều là người thật. Nhưng tiếc thay phim lại không kể những việc thật mà thêm thắt quá đà thành ra tào lao. Nhét vào miệng của nhân vật những câu chữ không hề có cũng như chẳng phù hợp với thời kỳ nhân vật đang sống. Những người cùng thế hệ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn biết và hiểu rõ về ông. Thế hệ sau này không hiểu ông, chỉ biết ông qua các tác phẩm của ông, họ thích nhạc của ông nên tìm đến phim để hiểu hơn người nhạc sĩ mà họ ái mộ. Rất tiếc, phim đã thể hiện một cách lệch lạc về người nhạc sĩ này. Trịnh Công Sơn là một người tài hoa qua các bài hát của ông. Nhưng không thể gọi ông là thiên tài âm nhạc. Âm nhạc Việt Nam có nhiều người có nhiều tác phẩm để đời và tài năng hơn ông. Do vậy đừng biến ông thành thánh nhân. Làm phim về một nhân vật có thật là điều khó khăn. Vẫn biết để tìm một diễn viên có ngoại hình giống y nhân vật là điều không thể thực hiện. Chỉ cần có nét giống là tạm ổn rồi. Cái cần là thần thái, cái hồn của nhân vật. Tiếc thay, phim Em và Trịnh lại chọn hai diễn viên chẳng có chút thần sắc, cái tâm hồn của người nhạc sĩ. Một anh thì ngu ngơ, khù khờ nhưng hám gái, muốn diễn cho lãng mạn mà thành lãng xẹt. Một ông thì nhìn gian gian, giống gã bụi đời, già mà muốn làm trai lơ chẳng có chi cái nét gầy gò, ốm yếu, nghệ sĩ nhưng không thiếu nét thanh lịch của nhạc sĩ ở đời thực. Những người bạn nhạc sĩ, những người quen biết ông, những người đã từng gặp ông đều có nhận xét nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người rất khôn khéo. Khôn khéo rất Huế. Cái khôn của người biết ngã nghiêng theo thời cuộc và cái khéo của người không để lộ ý nghĩ của mình ra. Cả hai người diễn viên trong phim không diễn được tính cách này. Người nghệ sĩ như ông lãng mạn trong tình yêu và sự thật ngoài đời ông cũng bị cuốn theo nhiều người phụ nữ. Nhưng không có kiểu lãng mạn sến súa như trong phim. Rồi từ phim, nhiều người nhân cơ hội tổ chức những đêm nhạc Trịnh Công Sơn khắp nơi, đúng là biết chớp cơ hội để kiếm tiền. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từ giã cõi đời hơn hai chục năm rồi, buồn thay giờ đây người ta lại dựng ông dậy mà giết chết ông một lần nữa. Tội nghiệp ông. 21.6.2022 Đỗ Duy Ngọc


Người về tụng những trang kinh

Ta đi trăm nẻo một mình bụi bay

Cuối đời tóc bạc trắng tay

Giữa khuya rót rượu tự say với mình

Bao nhiêu năm chịu lặng thinh

Nghe thời gian vỡ bóng hình không phai

Căn nhà trống chẳng còn ai

Nửa đêm ngó bóng đổ dài dưới trăng

Quay đầu nhìn lại ăn năn

Soi gương hiu hắt mặt hằn nỗi đau

Từ đây cho đến mai sau

Loay hoay đời trắng bờ lau cuối đường

Đêm trăn trở một góc giường 

Gối đơn, chăn lẻ, bức tường, đèn lu

Câu kinh rớt giữa sa mù

Người giờ vô ảnh ta từ biệt nhau

Chia tay không một lời chào

Còn bao năm nữa vẫn gào gọi tên

Âm đàn giờ đọng tiếng rên

Bỗng nghe sóng gió nằm bên cạnh mình

10.6.2022

DODUYNGOC


Ở nước ngoài, Mỹ, Pháp hay Nhật chẳng hạn, người già tự đi khám bệnh một mình là chuyện bình thường, rất bình thường. Chẳng ai lưu tâm, hỏi han tọc mạch về chuyện đó cả. Bởi con cái có công ăn việc làm của chúng, có gia đình của chúng phải lo, có con cái còn nhỏ của chúng phải chăm sóc. Khi đi khám bệnh, nếu còn đi được, chưa phải nằm băng ca cấp cứu, người già có thể tự lo cho bản thân mình mà chẳng cần ai phải trợ giúp. Đến bệnh viện, làm thủ tục, bác sĩ khám bệnh rồi ra về, chuyện đơn giản thôi mà.

Người Việt ta thì khác, khi cha mẹ đi khám bệnh, con cái phải đi theo, nhiều khi cả mấy anh chị em và cả cháu. Nếu không làm thế sẽ bị người đời dè bỉu là không chăm sóc cha mẹ. Bởi vậy nên phải xin nghỉ việc, bán hàng thì tạm đóng cửa hoặc giao nhờ người khác, con cái phải gởi cho người quen, hàng xóm trông giúp. Mà thật ra bệnh cũng chưa phải trầm trọng chi lắm, có khi chỉ là bệnh thông thường của người có tuổi khi trái nắng trở trời, nhưng đến bệnh viện phải có người hộ tống. Trong khi người già có thể đi một mình bình thường nếu quãng đường không xa lắm, xe cộ thuận tiện, và làm thủ tục bình thường mà không làm phiền đến con cháu. Nhưng những người chung quanh, kể cả những người xa lạ khi thấy cảnh một người già lụm cụm đi khám bệnh một mình thì cứ xót xa, xuýt xoa thương cảm. Người Việt ta hay thương vay khóc mướn thế đấy!

Tôi thường tự đi bệnh viện một mình lúc có bệnh trong người, thường là những bệnh không nguy hiểm. Khớp đau, đầu gối nhức, trong người hơi mệt, cảm cúm theo mùa ...và hôm nay là đau nhức răng suốt đêm không ngủ được. Tôi bị thoái hoá khớp hành gần tháng nay nên phải chống gậy, mới gọi xe bảo đi bệnh viện, chưa kịp leo lên đã bị anh xe ôm hỏi con cháu đâu mà đi một mình khổ thế? Tôi bảo chúng bận trăm công ngàn việc, đi một mình cũng có sao đâu? Đến cổng bệnh viện vừa tập tễnh bước xuống đi vào thì có một cậu trung niên đến đỡ lại xuýt xoa, bác ơi con cái đâu mà để bác đi một mình thế? Tôi đi lại hơi khó khăn nhưng rất ghét ai dìu mình, chỉ muốn tự mình đi, không muốn ai nâng đỡ cả. Đi đâu mà người nào dìu là tôi phản ứng ngay. Vào làm hồ sơ, cô y tá cũng lại bảo sao chú đi một mình thế, con cháu đâu cả rồi. Đến lúc về cũng thế, leo lên taxi hơi khó, thế là anh tài xế trách móc con cái không theo giúp cha mẹ, anh cho vậy là bất hiếu. 

Bực mình ghê chưa. Tôi còn sức đi mà, tôi còn minh mẫn để điền hồ sơ mà. Còn nhớ có một lần tôi bị đau chân, đi rất khó. Hẹn bác sĩ 9:00, tôi đến đúng giờ nhưng từ chỗ gởi xe vào phòng khám mất một đoạn khá xa. Tôi lê từng bước từng bước thầm. Hết người này đến người khác đến muốn dìu tôi đi nhưng tôi từ chối tất. Ai cũng bảo, khổ thân ông cụ, con cháu đâu mà tội nghiệp thế kia. Tôi muốn cãi mà thôi, mỗi người mỗi suy nghĩ, phản ứng làm gì.

Đó cũng là hai thái độ khác nhau giữa người Việt và người phương Tây. Người nước ngoài xem đó là chuyện thường tình, khi ta còn làm được thì tránh phiền cho người khác. Còn người Việt ta cho đó là việc hiếu, con cái phải có trách nhiệm với cha mẹ. Suy cho cùng việc hiếu để nằm trong cách xử sự, trong hành vi, thái độ hàng ngày, trong lời ăn tiếng nói chứ nhiều khi không chỉ là sự chăm sóc đôi lúc không cần thiết. Khổng Tử đã từng nói: Nếu nuôi cha mẹ mà cho ăn lúc đói, đắp mảnh áo lúc rét thì có khác chi nuôi một con vật đâu. Cái chính là cái tâm của con cháu đối với cha mẹ chứ không chỉ là những chăm lo vặt vãnh hàng ngày khi người già còn tự mình làm được. Bởi thế, phương Tây cứ đến tuổi là vào viện dưỡng lão, có người chăm lo bữa ăn, giấc ngủ mà không làm phiền đến cháu con.

Theo tôi, tất cả tuỳ tâm, dung hoà giữa hai quan niệm, nếu con cái thấy có điều kiện để làm thì thuận theo chúng mà làm. Còn không, thì cứ việc ta ta làm, đường ta ta đi cho nó khoẻ, khỏi vướng bận đến ai.

Cấu trúc gia đình ngày xưa khác bây giờ, con cái, cháu chắt ở chung tam đại, tứ đại đồng đường. Làm nông là công việc chính nên việc chăm sóc, hiếu để với cha mẹ khác với thời nay. Bậc làm cha mẹ thời nay phải hiểu cho hoàn cảnh của con cái mà đừng bắt bẻ, yêu cầu chúng những việc không thuận cho sinh hoạt và công việc của chúng. Đó cũng là góp phần cho gia đình bớt xào xáo, phiền hà.

Khi con cái còn nhỏ, chỉ cần chúng húng hắng ho, chỉ cần chúng hơi sốt, hơi đau trong người, cha mẹ sẵn sàng đội nắng, đội mưa kiếm thuốc cho con. Bất chấp đêm hôm, sẵn sàng ôm con đến bác sĩ, đến nhà thương. Nhưng khi chúng lớn lên, trưởng thành, có gia đình sự nghiệp, cha mẹ muốn mở lời nhờ con đưa đi khám bệnh, nhờ mua viên thuốc, ổ bánh mì cũng ái ngại, rụt rè không dám mở lời, không muốn nhờ vả. Cuộc đời thế đấy, nước mắt chảy xuôi. Thôi thì cái gì ta tự làm được thì nên tự làm, sống như thế cho thanh thản, bình an trong tâm, khỏi phải phiền hà, trách móc thêm nặng lòng, tâm lại không vui.

6.6.2022

ĐỖ DUY NGỌC



Đêm khuya lắm rồi, những ngọn đèn đường vàng vọt cô đơn đổ bóng hắn xuống đường. Hắn đang đi mà chẳng biết sẽ đi về đâu. Nhà hắn đang ở một nơi nào đó trong thành phố này. Căn nhà trống vắng và hoang lạnh. Hắn chưa muốn trở về ngôi nhà với căn phòng đầy sách báo và chiếc giường trơ trọi. Bức tranh hắn đang vẽ dang dở dựng trên giá vẽ sẽ không bao giờ hoàn thành bởi hắn chẳng còn hứng thú. Có chiếc xe rú qua, tiếng nổ giòn trong đêm để lại một vệt khói trắng. Sau một ngày mưa, không khí như dịu lại. Có tiếng gió và hình như có chiếc lá rơi, tiếng rơi rất khẽ. Hắn có cảm giác có người đang ở sau lưng hắn, đi theo hắn. Rất gần, hắn nghe sau lưng có hơi thở. Hắn muốn quay đầu ngoái lại, nhưng trong lòng hắn lại có tiếng ai thì thầm đừng, đừng nhìn lại phía sau. Hắn tần ngần một bước chân, rồi đi tiếp. Đêm vẫn vắng lặng, đã khuya lắm rồi. Có tiếng mèo động đực gào lên trên mái ngói của căn nhà bên kia đường. Tiếng gào man dã, có chút hân hoan nhưng cũng có màu tuyệt vọng. Hắn vẫn có cảm giác có ai đi đằng sau, hắn không quay lại, không nên quay lại.

Phía trước có chiếc ghế đá, hắn ngồi xuống đốt một điếu thuốc, có ai đâu, chung quanh vẫn trống rỗng. Một kẻ trống rỗng. Một đêm trống rỗng. Một thế giới trống rỗng. Điếu thuốc lập loè, khói thuốc bay là đà. Bỗng hắn chợt nghĩ đến những người đàn bà đã đi qua đời hắn. Người còn sống thì xem như đã chết, người chết rồi lại luẩn quẩn đâu đây. Rồi tất cả biến mất như sợi khói vừa tan trong gió. Chỉ còn lại mình hắn, trơ trọi giữa đời. Tất cả đã bỏ đi. Hắn nghe phía ngực trái nhói một cái. Rất nhẹ nhưng làm nhịp tim lỗi một nhịp. Điếu thuốc đã tàn, những ngọn đèn vàng vẫn làm thành những bóng đổ.
Hắn lại nghĩ về cuộc đời, mới như hôm qua tuổi thanh niên tràn nhựa sống với bao nhiêu khát vọng, bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu ước mơ. Thoáng một cái đã thành lão già cô độc với nhiều tiếc nuối. Một thời đã qua đi, bao khao khát đã lụi tàn, bao sức lực đã bị bào mòn, bao ánh lửa đã tắt. Đoạn đường phía trước đang ngắn lại, đời đang thả dốc. Cô quạnh một mình từng bữa ăn, giấc ngủ, hắn đã thấy được tàn phai. Giấc ngủ chẳng tròn lại lắm mộng dữ. Nhiều bữa nhìn đôi đũa, cái chén bơ vơ trên bàn, hắn không còn muốn ăn dù rất đói. Những mảng màu trên tranh, những vệt màu trên tường thành những hình quái dị. Có nhiều đêm không ngủ, hắn ngồi nhìn và tưởng tượng đủ thứ hình thù. Có khi là những khuôn mặt, những khuôn mặt của những người đàn bà. Nhu mì có, thanh lịch có, hân hoan lẫn với muộn phiền, chung tình lẫn với phản trắc. Có khi là bãi hoang tàn hắn đang vùng vẫy trong đó. Có khi là bãi sa mù của quá khứ nhấn chìm hắn xuống. Tất cả cứ lập loè mãi khiến hắn không có giấc ngủ trọn vẹn. Con người sinh ra vốn đã cô đơn. Con người thiếu đôi còn cô đơn hơn nữa. Hắn là kẻ lẻ đôi. Con chim lẻ bạn cất được tiếng kêu, hắn chỉ có sự lặng câm vô vọng.
Đêm càng sâu càng buồn, hắn chẳng muốn trở về nhà. Sương đã xuống lạnh hai vai. Hắn muốn khóc nhưng không khóc được. Nước mắt đã cạn. Nước mắt của người già chỉ là ngân ngấn lệ. Hắn đã già. Già ở tuổi và cũng già cỗi trong trí não. Nửa đêm giữa đường phố hắn thèm một hơi thở trên vai mình, hắn thèm một bàn tay nắm, hắn muốn nghe một giọng nói, tiếng cười. Đêm đã khuya thật rồi, trần gian chẳng còn ai. Chỉ còn mình hắn trơ trọi bao phủ bởi những ngọn đèn vàng. Đời còn có gì đâu. Hắn chợt nghĩ đến một viện dưỡng lão cho mốt mai để giã từ căn phòng không hơi ấm. Bức tranh chỉ còn những vệt màu dở dang, không hình thù. Đêm và người đàn ông buồn như điếu thuốc đã tàn. Đêm rớt hắn lại thành chiếc bóng cô liêu.
Sài Gòn 3.6.2022
DODUYNGOC


Cách đây mười mấy năm, ở đường Võ Văn Tần Sài Gòn có một quán thịt nướng đông khách vô cùng. Quán mở vào buổi chiều, khách ngồi xếp lớp, ngoài sân khói nướng thịt bay ngào ngạt suốt một đoạn đường dù không gian quán chật hẹp chỉ là một khe hẻm đằng sau của căn biệt thự. Quán mang tên Chiều nay. Chủ quán là một người Việt về từ Nga, không rõ là du học sinh hay xuất khẩu lao động. Trong thời gian ở nước Nga xa xôi anh được một phụ nữ Nga dạy cho cách chế biến và ướp thịt theo kiểu Nga. Nghe đồn bà này là cháu chắt gì của một ông đầu bếp từng nấu ăn cho Nga hoàng. Để ướp thịt ngon phải có một loại rượu đặc biệt được nấu để ướp thịt, cũng là loại bí truyền nên ông chủ này được truyền cho âu cũng là một cái duyên.

Chiếu chiều khách lũ lượt vào thưởng thức các món nướng đậm đà, thơm phức từ thịt heo, bò, bồ câu, cá sấu, Kangaroo, đà điểu...tất cả đều được nướng trên than hồng theo kiểu Nga ăn với salad cùng dưa chuột muối. Phải công nhận là ngon. Món nào cũng được ướp theo một công thức lạ, thịt mềm, ngon đến miếng cuối cùng. Bia đổ như thác, rượu rót tràn ly, từng dĩa thịt nướng được lần lượt mang ra và được vét sạch một cách nhanh chóng. Thịt nướng không kịp, khách ngồi chờ là chuyện bình thường ở huyện. Bánh mì ở quán cũng ngon vì được cung cấp từ lò bánh mì ngon có hạng ở lò bánh mì đường Trần Quang Khải. Nhân viên phục vụ chạy như vịt, xoay như chong chóng mà vẫn không phục vụ xuể khách đến thưởng thức. Có lần nhân dịp Tết, chủ quán ưu ái tặng tui một hộp pa tê gan bồ câu. Ngon hết biết. Giờ nhớ lại vẫn còn hương vị ở đầu lưỡi.

Đùng một cái, quán biến mất. Hỏi ra mới biết biệt thự đàng trước được cấp cho một cán bộ lãnh đạo cỡ bự ở trung ương. Người ta cho rằng cái khe hẻm đó là nơi thoát hiểm khẩn cấp khi có chuyện cho những người đang ở trong cái biệt thự to đùng kia. Thế là phải dời đi. Quán dọn về khu phố Tây Đề Thám. Ế chỏng gọng. Thế mới biết làm ăn có thời, sau thịnh có suy. Cầm cự được đôi năm, chịu hết xiết quán lại dời về đầu hẻm 288 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, đầu đường vô Phở Dậu.

Đã ớn cảnh đi thuê mướn, lần này chủ quán mua luôn căn nhà làm quán dù nhà chẳng có bề sâu. Cũng vẫn là những món nướng như xưa. Lại có thêm món cơm văn phòng buổi trưa với sườn nướng, chả cá thác lác do bà chủ tháo vát đứng điều hành. Cũng là một cách xoay xở khi khách còn thưa. Dần dần khách trở lại, tuy không còn đông đúc như hồi ở quán Võ Văn Tần nhưng cũng khá. Không khí chẳng còn nhộn nhịp, món ăn hình như cũng không còn hấp dẫn như ngày nào. Quán ăn mà rộn ràng, khách khứa nườm nượp, muốn ăn phải đợi, phải chờ khiến cho món ăn thêm phần ngon thì phải. Tui có người bạn già đã định cư ở Mỹ nhưng rất thường về Việt Nam. Anh rất kết món heo nướng ở quán này. Lần nào về cũng phải ghé đôi lần, mỗi lần chỉ làm một dĩa heo nướng kiểu Nga với lon Coca Cola của Mỹ he..he.

Chủ quán cũng là dân chơi ảnh. Thuở bán buôn thịnh vượng, có loại máy ảnh nào mới ra đời là anh sắm ngay, chịu chơi lắm. Và cũng vì là dân chơi ảnh nên anh với tui thân tình với nhau. Thời anh phải dời về phố Tây cũng xót cho anh khi mua bán không còn ngon lành như hồi ở địa chỉ cũ.

Giờ ở địa chỉ mới cũng mừng cho anh vì đã có khách dù không đông đúc như thời huy hoàng. Ngày mà mỗi chiều dân chơi ơi ới gọi nhau tụ về quán Chiều nay để được ăn những món nướng thơm phưng phức.

Chủ quán tên Giang, bạn bè thân gọi là Giang cò ke. Nickname trên Facebook của anh là Gianggiahu. Anh giải thích là Giang già hú kkkk.

Sài Gòn. Tháng 9.2000.

DODUYNGOC

(In trong tập sách Ăn mà không chơi)


Vài dòng giới thiệu cuốn sách "Ăn mà không chơi"

Cuốn sách "Ăn mà không chơi" đề cập đến những món ăn và quán ăn nhưng không phải là cuốn sách thuần túy hướng dẫn nấu ăn. Tuy đôi chỗ cũng có nhắc đến cách nấu nhưng đó chỉ mong giúp cho người đọc thêm chút kinh nghiệm để có một món ăn ngon hơn. Bởi lẽ tôi không phải làm nghề đầu bếp nên chẳng dám dạy ai. Trong sách cũng có vài đoạn đề cập đến giá trị dinh dưỡng cũng như chữa bệnh từ thực phẩm nhưng đó cũng chỉ là những ghi chép ở những sách thuốc và vài tờ báo chuyên về sức khoẻ chứ không phải ý của riêng tôi. Bởi tôi cũng không phải là nhà nghiên cứu về dinh dưỡng hay thầy thuốc.

Phần nhiều bài viết trong sách là những hồi tưởng, những ký ức về những món ăn, những hàng quán tôi đã từng được thưởng thức trong suốt quãng đời lê la của mình. Tôi xa nhà từ tuổi mười tám và giờ đã qua tuổi cổ lai hy. Phần nhiều trong suốt thời gian đó tôi ăn cơm hàng cháo chợ. Khi hàn vi, nghèo túng cho đến lúc có chút tiền trong túi tôi lang thang nhiều hàng quán ở đất Sài Gòn. Nghèo thì ăn cơm bình dân, cơm vỉa hè, cơm xã hội. Có chút tiền thì vào quán, vô tiệm cho biết với người ta. Mỗi nơi góp cho đời tôi thêm chút kỷ niệm, chút ký ức đã đi qua nhiều đoạn đời lúc lên voi khi xuống chó.

Mỗi lần nhớ về tuổi nhỏ lúc còn ở với cha mẹ, anh em tôi lại nhớ những món ăn của Mạ nấu. Và hình như đứa con nào cũng thế, đều cứ luôn nghĩ rằng cơm mẹ nấu là ngon nhất. Và rồi những món ăn đó lại nằm trong lòng của mình, đi theo suốt quãng đời của mình. Tôi viết lại những món ăn đấy để nhớ về một quãng đời, để nhớ đến Mạ tôi, nhớ những bữa cơm gia đình ngày xưa lúc cha mẹ, anh em còn đủ đầy. Giờ cha mẹ đã lên trời, anh đã mất, chị em tản mác đi khắp nơi trên thế giới. Tuổi già, ngồi nhớ lại những ngày hạnh phúc đó và ghi lại, tưởng nhớ những món ăn của ký ức, của hoài niệm. Bởi những món ngon là những món ta được ăn của một thời đã trôi đi không còn tìm lại được nữa.

Những hàng quán tôi từng đi qua cũng đọng lại đậm nét trong tôi sau hơn nửa thế kỷ sống ở Sài Gòn. Đấy cũng là những kỷ niệm những ngày khốn khó cũng như lúc thảnh thơi. Ghi lại để nhớ về. Cũng để cùng mọi người đã sống ở Sài Gòn nhớ những hàng quán đã từng có mặt ở Sài Gòn. Những hàng quán có thể vẫn còn tồn tại cho đến nay sau sáu bảy chục năm hoặc những địa chỉ không còn nữa sau những biến thiên của thời cuộc hay đổi thay bởi thời gian.

Mỗi người mỗi khẩu vị khác nhau. Có thể tôi khen quán này với món ăn kia nhưng cũng sẽ có người không thích. Cho nên trong sách có lúc những ý kiến của tôi sẽ có người không đồng tình. Điều đó cũng bình thường thôi, mỗi người mỗi ý mà. Tuy thế, tôi cũng mong cuốn sách sẽ giúp cho người đọc nhớ lại những món ăn, những hàng quán đã từng đi qua. Đôi khi món ăn, tiệm ăn không chỉ là những bữa ăn mà còn là những ký ức của một thời. Và hình như ký ức lúc nào cũng đẹp và tưởng nhớ. Mong cuốn sách có thể giúp nhiều người tìm đến những hàng quán tạm gọi có những món ăn ngon ở đất Sài Gòn. 

Đặt tên sách "Ăn mà không chơi" vì tôi chỉ rành ăn mà không biết gì các món chơi bời của Sài Gòn. Hi vọng sau cuốn sách này, sẽ có người rành rẽ các chốn rong chơi của thành phố này sẽ viết cuốn " Chơi mà không ăn". Mong thế. Nhưng mà không ăn lấy chi mà chơi?

Sài Gòn. Tháng 4.2022

Đỗ Duy Ngọc









Hôm trước cái Ipad hư, không  charge đuợc mới đem qua Trần Quang Khải nhờ sửa. Lúc chạy về phát hiện ngay góc Nguyễn Văn Nguyễn với Trần Quang Khải mới xuất hiện một quán phở tên Hoàng. Tui nhớ mang máng ở bên đường Đoàn Thị Điểm, Phú Nhuận cũng có một quán phở có tên như thế, không biết có phải dời về đây không? Quán đó tui cũng có đến ăn mấy lần vì ở gần nhà người bạn của tui. Lúc đó vì tò mò mà cũng đang đói nên tấp xe vào làm một tô. Vừa dựng xe, chủ quán đã cười chào nhận ra khách quen. Thì ra đúng là quán từ bên ấy vừa dọn qua đây đã được mươi hôm.

Phở quán này cũng chưa phải là xuất sắc lắm nhưng ăn được. Phở nấu theo lối tân cổ giao duyên, nửa Nam nửa Bắc. Nước lèo tạm được, hơi thiếu quế, hồi, thảo quả nên chưa có mùi đặc trưng phở Bắc. Sợi phở là đúng của Bắc, mềm và lớn bản. Trên bàn đủ loại tương. Tương Bắc, tương đỏ, tương đen. Lại có rau giá như quán phở Sài Gòn. Cũng có quẩy chiên theo kiểu Bắc, nhỏ và cứng chứ không lớn và mềm như quẩy Nam. 

Thịt ngon, nhất là thịt bắp rùa. Món này thường ở quán ngoài Bắc mới có thì phải dù ở Sài Gòn ở các quầy thực phẩm cao cấp đều có bán nhưng giá khá cao so với những loại thịt bò khác. Giá cả hiện nay cho 1kg bắp rùa trên thị trường rơi vào khoảng 160 – 250.000/kg

Bắp rùa tiếng Anh gọi là Beef Heel Muscle, là phần thịt ngon nhất trên các bộ phận của con bò. Bắp rùa là phần bắp nhỏ xíu, nằm giữa lõi cái bắp đùi to ở chân con bò. Bắp rùa có những đường gân hình xoắn trắng ở giữa miếng thịt, khi ăn sần sật giòn giòn như bắp hoa. Phần thịt này ít mỡ, những bắp tròn đều, ngắn là bắp ngon. Nhưng với những người sành ăn thì bắp rùa mềm và thơm hơn bắp hoa.

Các nhà dinh dưỡng cho rằng bắp rùa mang lại giá trị dinh dưỡng cao tương đương so với các loại thịt bò khác như chứa protein, sắt, kẽm, các vitamin B6, B12, photpho, các acid amin, … Nhưng lại có một số ưu điểm nổi bật hơn như: chứa ít mỡ hơn, hàm lượng chất béo thấp hơn phù hợp với một số thực khách bị mỡ trong máu, béo phì,… có hàm lượng sắt cao hơn, và có tính hàn (lạnh), không độc. Với những người sành ăn, nếu chưa một lần được thưởng thức món ăn này quả thật là một thiếu sót trong nhật kí chinh phục món bò.

Bình thường tô phở ở đây giá 55.000 nhưng tô phở bắp rùa là 90.000. Giá cao nhưng đáng đồng tiền bát gạo. Nhai miếng bắp rùa trong miệng đã lắm, ngọt, sần sật, dai dai chứ không như miếng tái bình thường. Quán cũng có tiết, tuỷ ăn cũng được.

Quán rất sạch sẽ, phục vụ nhanh, tốt và thân thiện. Khẩu vị mỗi người mỗi kiểu nên cũng khó phê bình. Tuy vậy, các tín đồ của phở cũng nên ghé một lần ở phở Hoàng. Thêm được một địa chỉ phở cũng là điều thú vị.

Địa chỉ của quán hình như là 212 Trần Quang Khải, Q.1.

DODUYNGOC.



 PHỞ DẬU

Song Thao (Canada)

Cuối năm 2001, có tang bà cụ tôi, tôi về Sài Gòn. Xong xuôi mọi việc, nơi đầu tiên tôi tìm đến là phở Dậu. Như tìm về chốn cũ. Cứ như hai chàng Lưu Nguyễn quy hồi cố hương. Nhìn quanh, phở Dậu đây sao? Tiệm lớn hơn ngày xưa vì mua thêm được căn nhà bên cạnh. Ghế nhựa đỏ chói để lan ra cả phía trước cửa. Dẻo đất trước tiệm cũng có kê thêm bàn ăn. Tên “Phở Dậu” màu đỏ nằm dài suốt bề ngang tiệm.  Phía dưới có ghi hàng chữ “Quán không có chi nhánh”.

Tiệm không còn mang dấu vết chi của phở Dậu thời trước và ít năm sau 1975. Chỉ có địa điểm vẫn ở chỗ cũ khiến tôi nhắm mắt cũng chạy thẳng vào trước cửa tiệm được. Không biết những bệt xi măng trên đường có còn nhớ bánh xe của tôi không. Tôi nghĩ là không. Vật đổi sao dời hầu như đã xóa đi hết phở Dậu thời của chúng tôi. Thời đó, bàn ghế trong tiệm lỏng chỏng không đồng đều. Hình như chúng được gom dần trong nhiều thời gian khác nhau. Trông chúng cũ kỹ, đơn giản. Có lẽ chủ nhân chẳng cần để ý tới chúng. Cứ có chỗ ngồi và chỗ để tô phở là được. Khách cũng chẳng cần câu nệ. Miễn ăn được bát phở. Nếu những tiệm phở khác thời đó dùng cái có thể gọi là “tô” thì phở Dậu chỉ có “bát”. “Bát là tiếng Bắc, “tô” là tiếng Nam, chẳng phân biệt lớn nhỏ. Nhưng bát phở Dậu nhỏ hơn hẳn những tô phở của các tiệm phở khác. Người ăn khỏe, một bát vẫn thòm thèm. Phải hai bát. Cỡ tôi thì hai bát thì quá bụng nhưng một bát vẫn thiêu thiếu. Thường tôi gọi thêm một bát tái nước có tiết. Tiết là thứ chỉ có ở phở Dậu. Tiết tươi chan vào nước phở nóng tạo thành những màng màu nâu đục là thứ ngọt ơi là ngọt.

Nhớ về khung cảnh phở Dậu ngày xưa, tác giả Đỗ Duy Ngọc viết: ““Tui là tín đồ của phở. Mà phải là phở Bắc kia. Phở Hoà, Phở Lệ, Phở Phú Vương tui chê. Tui chỉ ăn Phở Dậu. Tui chơi Phở Dậu đã gần năm chục năm nay, từ hồi tui xấp xỉ hai mươi cho đến giờ đã gần bảy chục, chỉ gián đoạn mấy năm đi Tây. Cũng là loại tín đồ ngoan đạo đấy chứ. Hồi xưa nó chưa gọi là Dậu. Hồi đó chỉ là một quán phở nhỏ lợp tôn, trên có chừa một khoảng trống lớn, nắng dọi vào làm thành một vệt ánh sáng mà mấy cha nhiếp ảnh rất mê. Luồng sáng dọi xuống trên người hai bà cụ với làn khói xanh từ bếp củi bay lên rất là nhiếp ảnh. Người bán là hai bà cụ già, nên tui gọi là Phở bà cụ. Ngày trước dân văn nghệ thường ăn sáng ở đây. Tui thường gặp hoạ sĩ Đinh Cường, Trịnh Cung, Đỗ Quang Em, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn…”.

Không thể gọi phở Dậu là tiệm hay quán được. Nó không có được một cái tên. Dậu là tên mà hồi đó thực khách nghĩ là tên của bà chủ. Thực ra bà đứng bán tên là chi, chẳng ai biết. Dậu là tên bà chủ đầu tiên khi tiệm thành lập vào năm 1958. Sau vài năm bà nhường lại tiệm cho bà Uy là bà đang bán phở cho chúng tôi. Bà khoảng ngũ tuần, người nhỏ nhắn, phong thái Bắc kỳ rặt, bận tíu tít nhưng vẫn không bao giờ quên gu tô phở của từng thực khách quen. Những khách quen không cần phải order nhưng tô phở để trước mặt đúng là tô phở ưng ý nhất. Ngay những  ý thích nhỏ nhặt của khách bà cũng thuộc nằm lòng. Ngày đó khi bát phở của tôi được bưng ra không bao giờ thiếu một chén hành tây bên cạnh. Vắt múi chanh, thêm vào chút ớt, chén hành tây ăn kèm với phở ngon tuyệt vời. Cái tên “phở Dậu” chỉ là tên…bán chính thức, thực khách còn đặt cho tiệm này nhiều tên khác. 

Tác giả Đỗ Duy Ngọc bàn như sau: “Sài Gòn có một quán phở bán suốt mấy chục năm mà chủ nhân không đặt tên quán. Trong suốt một thời gian dài, quán đều do khách đặt tên. Đầu tiên là “Phở Công Lý” vì tiệm nằm trong hẻm thuộc đường Công Lý. Thời gian sau, quán thường có đám khách thường xuyên là các sĩ quan Không quân. Thành ra quán được gọi là “Phở Không Quân”. Thời gian mang tên này ngắn ngủi vì sự xuất hiện một thực khách đặc biệt. Đó là tướng Nguyễn Cao Kỳ. Từ đó người ta gọi là “Phở Ông Kỳ” hay “Phở Nguyễn Cao Kỳ”.

Khi viết bài này, tôi có gửi mail  cho mấy ông bạn Bắc Kỳ di cư để hỏi về  nơi các ông ấy thường lui tới. Ông bạn Nguyễn Xuân Phác hiện ở San Jose không đồng ý với tên “Phở Không Quân”. Ông mail cho tôi: “Cái tên "phở Không Quân" cũng là thiên lệch, vì khách ăn làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu cũng không phải là ít, đâu có phải chỉ có riêng quân chủng Không Quân”. Theo tôi biết thì tiệm nằm ở trong cư xá Hàng Không. Như vậy muốn chính danh phải gọi là phở “Hàng Không”. Nhưng có lẽ từ khi ông tướng Kỳ thường tới ăn, các ông Không Quân cũng nầm nập tới theo đúng…quân giai. Mà khi các ông lính tàu bay có mặt thì ồn ào như tiếng phản lực cơ chăng?

Chuyện ông tướng Kỳ tới ăn phở gây ồn ào dữ.

Tác giả Đỗ Duy Ngọc cũng nói chuyện ông tướng Kỳ ăn phở: “Thời đó Ông Nguyễn Cao Kỳ đang làm quan to, cũng thường ghé ăn, cũng chẳng tiền hô hậu ủng gì, chỉ đi ăn với vợ là bà Tuyết Mai, có lúc đi với bạn, có khi đi một mình, nên giang hồ gọi là Phở Ông Kỳ...Giờ ngồi nghĩ lại thấy cha tướng Kỳ này gan thật chớ. Thời điểm đó ông đang là một tướng lĩnh Không quân của quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng trước khi tham gia chính trường và trở thành Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa trong chính phủ quân sự từ năm 1965 đến năm 1967. Sau đó ông làm Phó Tổng thống cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và nghỉ từ năm 1971. Đường đường quan to như thế mà ông ta khi muốn ăn phở là tà tà đi vào quán như khách bình thường, chẳng tiền hô hậu ủng chi cả. Lúc ấy Việt Cộng thường đặt bom, ám sát mấy ông lãnh đạo miền Nam, thế mà cha này ung dung đi ăn phở đến độ người ta lấy tên ông đặt cho quán, nể thiệt, đúng là dân chơi không sợ mưa rơi”.

Chuyện ông Kỳ ăn phở Dậu ồn ào tới trở thành huyền thoại. Chuyện rằng khi còn đang là Tư Lệnh Không Quân, mỗi lần đi kinh lý xa, nổi cơn thèm phở, ông phóc lên trực thăng tự lái về Sài Gòn, ăn một tô phở Dậu rồi vù về nơi đang công cán. Nhắc lại cho vui vậy thôi, mà cũng để cho các tín đồ phở Dậu có dịp gật đầu thú vị. Đó là chuyện ngày cũ. Ngày ông Kỳ còn là một ông tướng chịu chơi, chống Cộng tới chiều, được nhiều người trẻ mến mộ. Chuyện ông Kỳ sau này có khác. Nhưng nay ông không còn nữa, để ổng bình an nơi cõi vĩnh hằng.

Ông Kỳ là thực khách đình đám của phở Dậu nhưng còn có những thực khách khác, cũng đình đám vậy. Như ông Trần Minh Công. Ông này là bạn học với tôi tại Chu văn An. Ông đi du học bên Úc rồi về gia nhập ngành cảnh sát. Ông đóng tới lon Đại Tá và giữ chức Viện Trưởng Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia. Theo một ông dân cư xá Công Lý từ năm 1955 đến 1988, nơi có phở Dậu, thì “tôi thấy có ông Trần Minh Công tới ăn có ba bốn xe cảnh sát hộ tống”. Mỗi lần tôi qua Cali, ới nhóm bạn học cũ, ông Công luôn có mặt đầu tiên. Trước khi viết bài này, tôi có hỏi một số bạn quen trong đó có ông Trần Minh Công về chuyện phở Dậu, nhưng không thấy ông ấy trả lời chi. Một ông bạn khác cũng ở Cali là ông Phạm Phú Minh, nghe tôi nói tới phở Dậu, đã mail: “A, phở Dậu! Nơi chốn cũ, khung trời cũ, khẩu vị cũ!”. Nhà báo Nguyễn Đạt của báo Người Việt Cali ghi lại: “Ngày đó, bà Dậu luôn vui vẻ và ân cần với những thực khách quen thuộc, đặc biệt thực khách vốn là văn nhân nghệ sĩ. Biết cha đẻ tiểu thuyết “Loan Mắt Nhung” – nhà văn Nguyễn Thụy Long – mỗi khi ăn phở ưa trộn thêm chén cơm nguội khi tô phở đã vơi, bà Dậu tự động mang chén cơm nguội, kèm thêm chén nước lèo cho nhà văn ăn khỏe này. Hay diễn viên điện ảnh Huy Cường, chàng biệt kích bụi bặm trong phim “Xin Nhận Nơi Này Là Quê Hương,” ưa gọi thêm một chén tái tiết, nên bà Dậu luôn làm một chén tái tiết đặc sắc mà không tính thêm tiền”.

Nhà văn Phan Nghị, từng lê lết nơi phở Dậu, nhớ lại: “Phở Dậu có những đặc điểm không giống bất cứ một tiệm phở nào: không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị không rau không giá đó”.

Sau 1975, phở Dậu là ngã ba hẹn hò của giới ăn phở Dậu trước đó, khi thành phố chưa đổi tên. Ngày đó, bạn bè chúng tôi tan tác sau cơn bão dữ, ai còn, ai đi thoát, ai chưa “cải tạo” về, cứ tới phở Dậu là biết hết. Gọi là “ngã ba hẹn hò” cho thêm phần tình cảm chứ thật ra chúng tôi chẳng ai hẹn ai. Cứ thuận chân tới. Tới sẽ gặp. Gặp rồi đấu láo chửi thề. Thường chúng tôi mắng mỏ nhau sao chậm lụt thế. Trông thấy cái mặt nào còn trình diện là thêm một ngao ngán. Chuyện đi đứng có lẽ là chuyện rổn rảng nhất. Tôi có giấy bảo lãnh đi Canada. Bà Uy mà ai cũng mặc nhiên tưởng bà tên Dậu, cũng cùng một trường hợp. Bà và tôi có thêm thân tình của người đồng hội đồng thuyền. Bà ôm riết tiệm chẳng có thời giờ. Tôi rảnh chân chạy chỗ này chỗ kia nên có một số tin tức. Mỗi lần tôi tới, bà ngước mắt hỏi. Chúng tôi lại to nhỏ. Có lần bà xếp tôi ngồi vào góc chiếc bàn trong bếp, bên cạnh những hành ngò, nằm bẹp giữa những thùng bánh phở, những chậu xương còn máu me đỏ lòm. Chẳng phải để bàn chuyện bí mật quốc gia chi mà chỉ vì tiệm hết chỗ.

Cuối cùng cũng tới ngày tôi lên máy bay đi định cư. Bà còn ở lại nhưng hẹn sẽ gặp nhau bên Canada. Canada đất rộng người thưa, biết rồi có gặp lại nhau để lại tới tiệm phở của bà không. Quả thật chúng tôi không gặp lại nhau vì bà qua San Jose bên Mỹ. Sự thể làm sao mà bà lại lạc sang Mỹ, tôi không biết. Khi tôi được tin thì bà đã ra người thiên cổ.

Nhưng khi đó tôi không biết bà đã từ giã phở trần gian. Bà qua San Jose năm nào, tôi mù tịt. Bà mở lại tiệm phở khi nào tôi cũng không biết. Cho tới khi đọc được một bài viết của ông Hà Đình Huy. “Ở thành phố San Jose mỗi khi thèm phở, gia đình tôi thường đến Phở 288 Công Lý ( Bà Dậu) trên đường Alum Rock. Đó là tiệm phở có màu sắc trẻ trung, năng động. Bảng hiệu, vật trang trí trên tường, ghế ngồi của khách, đồng phục của nhân viên đều nhất quán. Cách trang trí ở đây thoáng và sạch sẽ với nhiều cây xanh, sàn nhà không một cọng rác, luôn có nhân viên lau chùi... Hình thức trang trí, vệ sinh, cung cách phục vụ mới, sự lịch thiệp của nhân viên rồi cũng qua đi, nếu không có hương vị vừa miệng để giữ chân khách. Phở Bắc Công Lý có hai loại đặc biệt nhất: phở bò và phở gà. Nhưng gia đình tôi và bè bạn thích phở bò, vì phở bò ở đây hơn hẳn một số tiệm phở trong vùng về chất lượng thịt bò mềm và thơm; gầu, vè , gân, sách trắng dòn, nước dùng của tiệm Phở Bắc Công Lý rất vừa miệng, không mặn, cũng không ngọt mùi đường hay bột ngọt và cũng chẳng có lớp mỡ vàng trên bề mặt, mới nhìn thôi cũng phát chán. Điểm chính của tô phở là nước dùng có màu nâu nhạt, sóng sánh ánh vàng, thoảng nhẹ mùi gừng, không ngửi thấy vị tanh của xương, bánh phở mỏng và dai không bị nát.Những phụ liệu đi kèm như tương ớt cũng là màu thật của ớt, tương đỏ (hoisin sauce), giá sống trắng phau cọng mập tròn, rau thơm có hai loại quế và ngò gai, những thứ có mùi vị hợp với thịt bò được rửa sạch sẽ, xếp ngay ngắn trên dĩa, khi khách gọi phở mới lấy từ phòng nấu đem ra”.

Đó có phải đúng là phở Dậu xưa không? Tôi ngỡ ngàng. Có phở gà, có giá sống, có tương đỏ tương đen. Đó là thứ phở Dậu vong thân. Đọc xong bài báo, tôi ngẩn ngơ. Tìm trong trí nhớ những người bạn bên Mỹ, tôi vội ới các ông bạn bên San Jose coi. Hai ông Phạm Công Bạch và Bùi Quyền đã đi xa, chẳng còn vấn vương chi với phở. Vớ được ông Phạm văn Quảng, anh vợ của ông Phạm Công Bạch, ông mail cho biết : “Sau 1991, tôi lên San Jose nhiều lần thăm Bạch và Bùi Quyền. Chúng tôi rủ nhau đi ăn phở Dậu nhiều lần. Thời gian đó phở Dậu nổi tiếng ngon nhất San Jose. Tôi thấy ngon thiệt tình”.

Chưa thỏa mãn với sự kiệm lời của ông bạn Phạm văn Quảng, tôi tìm tòi thêm. Ông bạn thân nhất của tôi ở San Jose là ông ký giả Hà Túc Đạo đã bị cô Vy rủ đi mất tiêu, tôi nắm áo ông bạn chung của ông Hà và tôi là ông Nguyễn Xuân Phác, một cây sành ăn. Ông cho tôi một số tin tức: “Vào thời gian sau 2010, tin Phở Dậu mở ở San Jose đã khiến cho dân ghiền phở nơi đây xôn xao và kéo đến thưởng thức hương vị Saigon cũ khá đông đảo. Tiệm phở nằm trên đường Alum Rock thênh thang, chỗ đậu xe rộng rãi, bên trong khang trang, thoáng mát và phục vụ khá chu đáo. Đáng nói nhất là hương vị̣ có khác đi khá nhiều so với khi trước còn lá "phở Trứng Cá". Tôi có hỏi dò bà cụ thường ngồi khiêm nhường ở một góc quầy thì bà xác nhận chính là chủ Phở Dậu ở Saigon trước đây, nay qua San Jose truyền nghề cho đứa con (hay cháu?), tên Dũng đứng ra mở tiệm. Cô vợ ở quầy tính tiền là con gái một ông chủ tiệm vàng nổi tiếng trong vùng. Tiệm đang kinh doanh phát đạt thì đột nhiên bị xé đôi. Nửa tiệm ở lại tại chỗ vẫn mang tên "Phở Bà Dậu" nhưng bấy giờ do cô vợ làm chủ. Nửa kia do ông chồng mang qua một tiệm ăn mới sang nhượng nhưng trước đó có tên là "Quán Nhà Tôi". Sau khi sang nhượng, quán mang tên "Phở Công Lý". Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, cả hai tiệm đều đã "âm thầm đóng cửa" không biết lú do vì sao”.

Biết được phần nào tin tức về bà Uy ở hải ngoại, tôi bỗng thấy thương bà. Qua đồng đất nước người, tuổi đã cứng, bà truyền nghề cho con cháu. Nhưng trong một khung cảnh khác, một thời đại khác, phở phải theo thời. Thêm rau thêm giá, thêm tương đen tương đỏ, phở Dậu đã mất gốc.

Cũng trong bài viết của tác giả Hà Đình Huy, ông kể một chi tiết đau lòng khi ông chủ tiệm Dũng tâm sự với ông: “Về nghề nghiệp, tôi rất buồn nếu như người khách nào vào tiệm phở của tôi cũng nêm đầy tương và ném đủ thứ rau vào tô phở rồi mới bắt đầu ăn. Lúc ấy, họ đã “giết chết” tô phở của tôi!”.

Tô phở Dậu đã bị “giết chết” vì hoàn cảnh. Cũng vì hoàn cảnh, quán phở Dậu cũ ở Sài Gòn, nay do ông Bình, con trai của bà Dậu chính tông, người khai sanh ra phở Dậu, cũng đã chuyển mình xa cách với phở Dậu xưa. Còn đâu “phở Dậu của chúng tôi” khi đi lối nào cũng chui vào góc kẹt, tôi chẳng tìm đâu ra quán phở tuyệch toạc thân tình ngày xưa. Dù sao chúng tôi cũng đã có một thời tình nghĩa giữa những người trước lạ sau quen. Cứ kể là một may mắn. May mắn hơn khi cả nửa thế kỷ sau, chúng tôi vẫn còn rơi rớt lại trên cõi đời này để nhớ về một nơi rất thân và rất xưa. Nói như nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn, “ở một nơi ai cũng quen nhau”!

06/2021

SONG THAO.


MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget