Latest Post

 


18 năm trước, tôi viết truyện ngắn này. Tôi xem nó như những dòng tâm sự bởi trong đó loáng thoáng có bóng mình. Tôi nghĩ sẽ chẳng cho ai đọc những gì mình đã viết, giữ lại cho riêng mình như những lời độc thoại với hư vô. Và rồi bản thảo truyện này biến mất, suốt một thời gian dài cả chục năm tôi tìm hoài mà không thấy. Hôm nay lục mấy tấm hình rửa cho một chị bạn học cùng trường đại học, lại tìm lại được truyện này. Nằm đọc lại cũng chỉ thấy buồn. Truyện viết đã gần hai mươi năm, nhân vật cũng đã vào tuổi xế chiều. Gần hai mươi năm biết bao biến cố đổi thay của một đời người nhưng câu chuyện vẫn còn đó, ghi lại một ký ức khó có thể quên. Tôi quyết định đăng trên facebook sau một thời gian dài chỉ giữ riêng cho mình để mọi người cùng đọc. Cũng chẳng để làm chi nhưng hi vọng nhiều người đọc sẽ thấm được nỗi đau của nhân vật trong một giai đoạn bi kịch của xã hội và lịch sử.

CHÚT LÃNG MẠN CUỐI CÙNG

Truyện ngắn của ĐỖ DUY NGỌC

Có trầu mà chẳng có cau

Thì đành không đỏ môi nhau kiếp này

Buổi chiều ở Blao sương xuống sớm, những ngọn gió thổi về làm rung những cành thông non trong vườn, trời nhờ nhờ tối, không gian chùng xuống nặng nề. Ba người đàn ông ngồi uống rượu trong căn nhà nhỏ trên sườn đồi, li rượu được rót ra nhưng chẳng ai nâng chén, bởi rượu chỉ là cái cớ để níu chân nhau ngồi lại. Ngọn đèn cầy trắng cắm trên chiếc giá đồng cổ rất sang trọng hắt ánh sáng trên ba khuôn mặt tạo thành bức tranh mang phong cách thời Phục Hưng. Trong buổi chiều ấy và trong khung cảnh ấy, tôi được người bạn già kể lại câu chuyện này, đây là câu chuyện có thực, và là một đoạn đời của ông. Những con người trong câu chuyện này cũng đang còn hiện hữu, và đang là người nổi tiếng, nên khi kể lại chuyện này, tôi xin đổi tên của các nhân vật chính.

*********

Chị Lê là con gái đầu của O Hiếu, mẹ chị Lê là anh em chú bác với ba tôi, chị Lê hơn tôi mười tuổi. Lúc tôi khoảng mười hai tuổi đang học lớp đệ thất thì chị Lê đã là một cô gái đang học năm thứ nhất sư phạm Qui Nhơn. Chị là một cô gái đảm đang, rất giỏi việc nữ công, nội trợ. Chị có khuôn mặt hiền, thánh thiện, tóc chị dài thoang thoảng mùi bồ kết thường được kẹp bằng chiếc kẹp đồi mồi, nước da trắng, không chút son phấn và chính những nét tự nhiên đã làm cho khuôn mặt chị lúc nào cũng sáng lên một thứ ánh sáng mộc mạc mà đằm thắm rất Việt Nam. Chị không có nhan sắc rực rỡ, nhưng đôi mắt chị trong veo, những ngón tay thon nhỏ với các móng lúc nào cũng được cắt, sạch, cộng với những cử chỉ, lời nói luôn dịu dàng đầy nữ tính gây thiện cảm với người chung quanh. Tôi chưa bao giờ nghe chị nói nặng lời hay lớn tiếng với ai, dù đó là người ăn kẻ ở trong nhà. Chị thường đội nón lá, đi guốc mộc, mặc chiếc áo bà ba cổ trái tim bằng vải lụa mềm. Thời đó, tôi đọc rất nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn trong tủ sách khổng lồ của ba tôi nên tôi hình dung chị chính là những nhân vật trong các tác phẩm đó, chị là cô Mai trong Thừa tự, trong Nửa chừng xuân… Nhà tôi lúc ấy là một ngôi nhà lớn, trước nhà có sân rộng lát gạch tàu, ba tôi cho xây một hồ cá to và trồng một giàn thiên lí xanh mướt mắt. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh chị Lê ngồi làm mứt gừng dưới giàn thiên lí lúc ánh sáng chiều chênh chếch len qua những kẽ lá xanh um chiếu trên khuôn mặt rám hồng vì sức nóng của bếp lò và ánh sáng phản chiếu của những viên gạch tàu. Trong tâm thức của một đứa trẻ mười hai tuổi, bỗng tự nhủ, mai sau tôi chỉ yêu người con gái nào giống chị Lê, phải giống từ khuôn mặt, dáng người cho đến những nét đảm đang rất Việt Nam như chi.

********

Rồi tôi lớn dần lên, đến tuổi biết yêu, tôi đi tìm bóng hình của chị qua những người bạn gái, nhưng không tìm thấy được. Xã hội càng lúc càng đổi thay, lính Mỹ vào Việt Nam làm đảo lộn mọi giá trị của cuộc sống, son phấn nhòe nhoẹt và đủ thứ thời trang kệch cỡm làm cho tôi khó mà tìm được người con gái như mộng tưởng. Những cuộc tình thời mới lớn cũng qua đi chẳng để lại ấn tượng gì.

Tôi vào Sài Gòn học đại học, cuộc sống tự lập của người con trai miền Trung ở Sài Gòn gặp quá nhiều khó khăn, tôi luôn mặc cảm về cái nghèo túng của mình nên chẳng dám yêu ai, thật ra tôi cũng khó tìm ra giữa Sài Gòn này một cô gái như mình đang tìm kiếm. Tôi như gã con trai đi tìm lá diêu bông không có thực trên đời. Cũng có nhiều cô gái đến với tôi, nhiều cô rất đẹp và giàu có, cũng có cô rất quí phái sang trọng, nhất là khi tôi bắt đầu có chút tiếng tăm và tiền bạc qua mấy lần triển lãm tranh và nhiều bài báo gây ấn tượng trong giới sinh viên. Nhưng sao tôi vẫn thấy dửng dưng, vẫn chưa thề nói với ai về tình cảm của mình. Tôi vẫn đi tìm một bóng hình không có thực, nhưng tâm tôi vẫn bảo hãy tìm đi và sẽ gặp, giống như điều Chúa đã dạy là hãy gõ cửa thì cửa sẽ mở. Tôi sẽ tiếp tục đi tìm và tôi sẽ tiếp tục gõ cửa suốt cuộc đời bởi tình yêu có sự lựa chọn riêng của nó.

*******

Đội quân mới, chính quyền mới như một cơn gió lốc thổi nhanh giữa Sài Gòn, cuốn phăng đi mọi trật tự có sẵn, đảo lộn và đổi thay đến từng ngõ ngách, từng con người. Tôi cũng bị xoáy vào vòng xoáy đó, không kịp rút số tiền dành dụm được của những mấy năm cực nhọc vừa học vừa làm gởi ở ngân hàng. Tôi trở lại thời vừa mới vào đất này, trắng tay và đói rách, lại xếp hàng ăn những bữa cơm đạm bạc tập thể ở căn tin, chờ đợi những thay đổi mới. Ở thời kỳ đó, chẳng có việc làm gì rõ rệt, kẻ đi bán cà phê, người ra lập chợ trời, tôi không làm được những việc ấy nên ngày hai bữa lang thang với bạn bè văn nghệ của Sài Gòn cũ, làm những người rảnh nhất thế giới, chờ đợi.

Chúng tôi được phép đi học lại, sinh viên từ nhiều trường tập trung thành trường Đại học Sư phạm thành phố, sinh hoạt hát hò và suốt ngày làm quen với đường lối, chủ trương và nền giáo dục mới. 

Tôi chẳng có hứng thú gì việc học hành bởi cái đói luôn hành hạ, hờ hững đến giảng đường mà chẳng chú ý đến ai, nhưng cũng phải ráng ghi ghi chép chép hi vọng nay mai được ra trường, có việc làm để ổn định cuộc sống, hướng tới tương lai. Tôi tham gia vào những sinh hoạt của nhà trường bằng những tài vặt đàn ca xướng hát, và cũng bởi rảnh quá chẳng biết làm gì cho hết thì giờ. Được sự gợi ý của chi đoàn, tôi thành lập nhóm kịch của khoa Văn, và ngay bữa họp đầu tiên của nhóm tôi đã gặp cô gái mang một cái tên là lạ: Trân Cầm. Trân Cầm học ở Văn khoa chuyển qua cùng lớp nhưng vì tôi chẳng để ý đến ai nên chưa gặp lần nào, hay có thể đã gặp mà không thấy. Cảm giác đầu tiên khi tôi nhìn thấy Trân Cầm là như có một chiếc búa lớn bổ vào ngực, đè nặng trái tim và nhịp tim tôi như ngừng lại, bởi cô ấy chính là lá diêu bông mà tôi đã tìm kiếm lâu nay. Vóc dáng ấy, đôi mắt ấy, giọng nói ấy, tiếng cười ấy, khuôn mặt ấy chính là những hình ảnh liên tục hiện về trong những giấc mơ của tôi. Khi ánh nắng buổi chiều chiếu vào cửa sổ hắt vệt sáng trên mái tóc buộc túm bằng chiếc kẹp đồi mồi và làm rực lên nửa khuôn mặt của Trân Cầm, thì hình ảnh chị Lê ngồi dưới giàn thiên lí trong tiềm thức tôi hiện lên rõ rệt. Thế là tôi đã tìm thấy. Tôi đã gõ cửa và Chúa đã mở cửa cho tôi bắt gặp định mệnh của đời mình. Tối hôm đó trở về nhà trọ, dù chẳng có gì bỏ bụng tôi vẫn ôm đàn hát nghêu nghao cho đến khi trăng tàn trên những vòm cây.

Mấy năm lưu lạc học hành ở miền Nam tôi làm đủ thứ nghề, từ bán báo đến sửa morasse nhà in, rồi trở thành người viết báo, trình bày báo, vẽ tranh, làm thơ, đi hát, diễn kịch… cũng để dành được một số tiền khá lớn, đủ để bảo đảm một cuộc sống sung túc, nhưng cứ nghĩ mình còn trẻ, lại chưa lập gia đình nên gởi hết vào nhà băng. Ai ngờ thời thế đổi thay, trong cơn cuống quít của chuyện ra đi hay ở lại, tôi không rút được đồng nào, từ triệu phú trở thành kẻ đói cơm giữa Sài Gòn đầy lộn xộn, phải bán luôn chiếc xe hơi vừa mới mua chưa đầy ba tháng với một giá rẻ mạt như cho, để tồn tại, nên chẳng còn phương tiện nào để di chuyển ngoài đôi chân mệt mỏi. May thay, từ khi quen với Trân Cầm, tôi thường dùng chiếc xe đạp của Trân Cầm để chở cô ấy đi học, đi về, đi sinh hoạt hát ca. Tôi không biết ngỏ lời với Trân Cầm như thế nào để tỏ hết lòng mình, nên thông thường tôi chỉ biết lắng nghe những câu chuyện buồn vui của cô ấy kể bằng một giọng Bắc kỳ Hà Nội di cư, một giọng kể nhẹ nhàng duyên dáng với những nhận xét thông minh, những tình tiết đầy nữ tính.

Một hôm sau buổi diễn kịch ở trường về, trời đã khuya, con đường Trương Minh Giảng vắng rộng thênh thang chỉ còn tiếng dế gáy bên vệ đường và hương ngọc lan từ những biệt thự đầu đường ngào ngạt trong gió đêm, một không gian thật lãng mạn cho những đôi tình nhân. Có lẽ không gian đó cũng làm cho Trân Cầm xao xuyến, Trân Cầm ngả đầu vào lưng tôi. Một cảm giác lạ lùng đến với tôi, một tín hiệu tốt của tình yêu chưa dám nói? Tôi muốn con đường dài ra mãi, đi hoài không tới, để tôi giữ mãi được giây phút thần tiên ấy, để chúng tôi là dấu chấm của đời nhau, được đi cùng nhau suốt cả cuộc đời. Sau này, liên tục mấy mươi năm, hôm nào đi qua cảnh cũ tôi cũng thường lái xe đi chậm lại để mong được hít thở hương ngọc lan bay rất mỏng, để nhớ cái đêm đầu tiên ấy, để hưởng lại cảm giác ngọt ngào và hạnh phúc của ngày xưa đã mất. Nhưng những cây ngọc lan xưa không còn ra hoa nữa và người xưa cũng như cánh chim bay xa tít. 

Sau đêm đó, cả hai cũng chẳng có tín hiệu gì thêm nên chúng tôi vẫn là hai người bạn cùng lớp, cùng nhau trên một lối về.

*******

Tháng Sáu, Trân Cầm muốn ghé qua nhà trọ của tôi cho biết cuộc sống của những kẻ xa nhà. Khi chúng tôi vừa bước chân vào căn gác nhỏ thì trời đổ mưa như trút, mưa tháng Sáu của miền Nam, mưa tháng Sáu của Sài Gòn. Chúng tôi đứng nhìn mưa qua cửa sổ, những hạt mưa bay làm ướt nhè nhẹ trên khuôn mặt của hai đứa, và chúng tôi chụm đầu vào nhau, hai bàn tay không hẹn mà tìm nhau nắm chặt, hai bàn tay nóng bỏng giữa chiều mưa. Cái hôn đầu tiên đến quá bất ngờ nên cả hai đều sượng sùng khi nhìn vào mắt nhau, đôi mắt trong veo hình như ánh lên câu hỏi, trời vẫn mưa xối xả, chúng tôi quên mất đất trời chạy xuống cầu thang đội mưa đi, mưa ướt đẫm trên khuôn mặt, ướt hết hai tấm thân gầy, hai đứa lâu lâu lại nhìn nhau cười dưới cơn mưa như những người mất trí. Đó là nụ hôn đầu tiên và duy nhất của chúng tôi dành cho nhau suốt cả một cuộc tình dài. Khi nhìn Trân Cầm đạp xe đi về, bầu trời u ám, những dây điện giăng ngang cắt nát mảnh trời, dáng mong manh của Trân Cầm nổi lên khung trời xám đó như cánh chim nhỏ nhoi đang cố bay lên. Tôi buột miệng hát một đoạn trong bài Như cánh vạc bay của Trịnh Công Sơn: "Nắng có hồng bằng đôi môi em. Mưa có buồn bằng đôi mắt em. Tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh… Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi… " Từ đó tội gọi Trân Cầm là Vạc, bởi em gầy với áo lụa bay, và cũng bởi tôi rất yêu cánh vạc, những con vạc mảnh mai bay về trong ánh mặt trời là hình ảnh thanh thoát và lãng mạn. Cũng từ đó cho đến nay, trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu đổi thay, tuổi càng ngày càng chồng chất, nhưng cứ đến những cơn mưa đầu mùa tháng Sáu hàng năm tôi lại đội mưa đi lang thang, đi trong mưa để nhớ ngày mưa tháng Sáu ngày xưa, tháng Sáu có ngày sinh nhật của Trân Cầm; và để nhớ về loài chim vạc, nhớ về nụ hôn duy nhất của một cuộc tình buồn.

Những buổi học sau đó là những ngày vui, tôi không còn hờ hững với giảng đường và bài giảng nữa, bởi đã có động cơ để tôi phải cố gắng, và những giờ học là dịp để được gặp nhau, để chào đón nhau, gởi cho nhau những bài thơ viết vội, hoặc những lời nhắn gởi vu vơ. Nhưng cũng từ bữa ấy, những đôi mắt sau lưng chúng tôi hình như có chứa đựng những ánh mắt ganh ghét, đố kỵ, lúc đầu còn kín đáo nhưng càng ngày càng lộ rõ. Tôi hồn nhiên sống và hồn nhiên yêu, không hình dung ra những đợt sóng ngầm đang chuẩn bị để vùi dập mình xuống tận đáy của cuộc đời. Tôi cũng không nghĩ tới cái ác của con người, chỉ nghĩ tới thiện tâm và không nghĩ rằng trên đời này lại có thể có những con người lúc nào cũng tính toán, âm mưu để xé xác đồng loại, để gài bẫy bạn bè. Tôi vô tư nên không nghĩ tới những hậu quả đang chực chờ đẩy tôi đến ngả rẽ làm thay đổi cả đời tôi.

Sau kỳ thi tốt nghiệp, chúng tôi phải đi một chuyến lao động ở nông trường, sống một tuần lễ với một đơn vị Thanh niên xung phong. Tôi chỉ tham dự chuyến lao động thực tế này đúng một ngày một đêm, bởi hồi ấy tôi còn tham gia vào đội kịch của thành phố, chuyến lưu diễn của đoàn trùng với thời gian đi lao động. Đêm ở lại duy nhất tại nông trường, tôi chỉ một lần nắm tay của Trân Cầm trong giấc ngủ, bởi chúng tôi ở cùng chung một lán trại. 

Lao động xong, chúng tôi được nghỉ hè chờ quyết định phân công công tác. Chúng tôi ít được dịp để gặp nhau, tôi suốt ngày lang thang ở sân trường lượm những chiếc lá vàng đề những câu thơ để tặng cho cánh chim Vạc của tôi, nhưng ít khi được gặp. Khi làm hồ sơ để ra trường, trong mục nguyện vọng, tôi mong được phân về dạy ở một thị trấn nhỏ miền núi, tôi hình dung ra một thị trấn cao nguyên, đầy những rừng chè và sương trắng. Và mỗi tuần tôi lại đến đợi Trân Cầm dưới chân đồi, cùng nhau dạo trong trảng cỏ đầy hoa dại và gió lạnh, Trân Cầm sẽ mang chiếc áo ấm màu rượu chát, chiếc kẹp đồi mồi giữ tóc không bay và chiếc khăn quàng ôm kín bờ vai gầy. Tôi hạnh phúc trong giấc mơ tưởng tượng.

Giấc mơ đẹp không thành sự thật, lần lượt bạn bè đều nhận được quyết định, chỉ mình tôi, Trân Cầm và vài người có lí lịch xấu không được đoái hoài, không một lời thông báo. Tôi bắt đầu tuyệt vọng trong sự đợi chờ, lúc ấy, đối với tôi lúc ấy việc được đi dạy học là con đường tốt nhất, bởi đó là ước mộng của tôi khi chọn trường sư phạm, và cũng là việc làm duy nhất có thể cứu tôi ra khỏi cảnh lông bông. Tôi ngu ngơ không hiểu được rằng còn có quá nhiều con đường khác để đi, còn rất nhiều nghề khác để chọn. Tôi hoang mang không hiểu lí do nào đã không cho phép tôi và Trân Cầm không được phân công tác. Phong phanh có dư luận cho rằng tôi và Trân Cầm phạm vào một lỗi rất nặng, nhưng chẳng có ai trả lời cụ thể tội gì, chỉ có những cặp mắt hả hê, những cái nhìn hằn học có cả những thái độ xa lánh làm cho tôi càng lúc càng bế tắc. Tôi quá dại khờ và hồn nhiên không nghĩ đến việc có ai đó đã rắp tâm hại mình và càng không nghĩ đến việc cả một nhóm người đang hè nhau để xô chúng tôi xuống bùn đen bằng những tội lỗi mà mình không bao giờ mắc phải. Một hôm, lúc đang lang thang ở sân trường, tôi gặp Hoàng, một bạn học cùng lớp, hắn rủ tôi vào quán cà phê, và rồi bằng một ánh mắt thương hại hỗn xược, những ngôn từ tiểu thuyết rẻ tiền hắn cho tôi biết hắn và Trân Cầm đã yêu nhau, rằng hai người đã có những thề ước hẹn hò, hắn chìa cho tôi xem nhiều mảnh giấy trong đó có chữ của Trân Cầm và bảo đó là những bức thư nàng gởi cho hắn trong suốt tuần lễ lao động ở nông trường, hắn khuyên tôi nên quên cô ấy đi, hãy về quê kiếm một việc làm khác mà sống vì hắn chắc chắn rằng, tôi sẽ không bao giờ được phân công và tỏ lòng xót xa cho cảnh ngộ của tôi. Tôi hèn nhát đến độ ngồi im cho hắn nói. Rồi lặng lẽ ra về với một chút hoài nghi. Tôi tin Trân Cầm, nhưng tôi cũng hơi tin những lời lẽ của Hoàng, bởi hắn nói với một thái độ hết sức tự tin và những vật chứng rõ ràng. Tôi đau khổ viết cho Trân Cầm một bức thư dài như một lời từ giã, một bức thư kể hết lòng mình. Tôi dự định sẽ lên cao nguyên, ẩn mình chờ cuộc đời trôi đi để quên hết. Tôi không nghĩ đến chuyện về quê, bởi không lẽ sau năm năm ra đi lại trở về ăn bám gia đình, trở thành một thằng vô nghề nghiệp, làm xấu một gia đình có nề nếp, có tiếng tăm trong thị xã nhỏ bé. Tôi đang đến bờ vực của kẻ cùng đường. Mối tình đẹp đẽ sau năm tháng kiếm tìm đã mất, người con gái mà từ tuổi mới lớn, tôi đã tâm nguyện sẽ đi tìm cũng bỏ tôi mà đi, công lao học hành trong khó khăn giờ đây đã bị khước từ một cách khó hiểu, tôi cô đơn gặm nhấm nỗi đau. Trân Cầm gởi trả bức thư dài của tôi không một lời giải thích, tôi càng đau hơn khi chính Trân Cầm đã cắt thêm nhát dao vào vết thương của tôi, tôi đâu ngờ rằng Trân Cầm lúc ấy cũng đang là một nạn nhân của một màn kịch bỉ ổi và đê tiện.

Có nhiều đêm tôi nằm mơ toàn những cơn ác mộng, tôi mơ tôi đang đi với Trân Cầm trong một thung lũng đầy hoa và bướm, bỗng dưng có một nhóm người, toàn là bè bạn nhảy vào xô tôi ngã xuống, đâm tôi bằng những nhát dao, tôi sắp ngất đi, ngửa mặt giữa trời xanh hiện lên hình ảnh của Trân Cầm nhìn tôi bị dày xéo một cách dửng dưng, tôi không đau nỗi đau thân xác, tôi đau vì ánh mắt lạnh nhạt của Trân Cầm. "Lẫn trong cái chết vẫn còn nỗi đau.(1) "

Tôi được gọi vào phòng tổ chức gặp một ông thầy hom hem nhìn tôi chằm chặp, ánh mắt không có chút hứa hẹn điều gì tốt đẹp. Ông lơ đãng giở từng trang giấy trong đống hồ sơ dày cộp, đọc lẩm bẩm đôi dòng rồi ngước cặp mắt giễu cợt nhìn tôi. Tôi hồi hộp đợi chờ câu hỏi của ông, nhưng hình như ông không vội. Tôi như kẻ tội đồ đang đứng trước vành móng ngựa chờ tuyên án. Cuối cùng thì ông cũng buông được một câu: Cậu không thể đi dạy học được, hãy lập gia đình và kiếm lấy nghề khác mà sống . Tôi ngạc nhiên tột độ, tôi không hiểu gì cả.Tôi ngây người nhìn ông, ông đưa tay ngoắc ngoắc, ra dấu tôi về. Tôi sững lại một giây, rồi ngoan ngoãn trở ra cửa không một lời thưa. Gió ở đâu thổi về ào ạt, tôi đi lên dốc cầu Trương Minh Giảng, đứng nhìn xuống dòng nước đen ngòm đầy rác rưởi, đầu óc rối tung lên. Câu nói của người cán bộ phòng tổ chức có nghĩa gì? Sao lại khuyên tôi lập gia đình? Sao tôi lại không thể dạy học được. Tôi học tốt, bài làm ra trường rất tốt, khả năng diễn đạt của tôi cũng rất khá. Vậy tại sao tôi lại không thể. Tôi miên man với nhiều câu hỏi không có cách trả lời. Tôi nhìn dòng nước đen rồi hình dung đời mình rồi cũng sẽ như dòng nước kia, đen kịt vì tù đọng và hôi thối. Và rồi tôi cũng ý thức được rằng, tôi đã bị từ chối, người ta đã không chấp nhận tôi vì một lí do bí ẩn nào đó, chứ không phải vì khả năng hay do kết quả học tập của tôi. Gió lại thổi dữ dội, rồi những cơn mưa nặng hạt trút xuống. Tôi dầm mưa đi suốt con đường, con đường có rất nhiều ngả rẽ, nhưng không có ngả nào dành cho tôi, tôi đi mãi cho đến khi đường vắng không còn một bóng người qua rồi ngã gục trước hiên của một ngôi nhà lạ vì lạnh và đói.

******

Tôi gặp Trân Cầm trên sân trường đầy nắng, những cánh phượng đỏ như những giọt máu rỏ xuống sân trường, Trân Cầm hình như muốn tránh mặt tôi, ngôn từ mang tính xã giao, xa lạ, nụ cười không còn tươi trên mặt nàng, đôi mắt như có khói, buồn lặng lẽ. Chúng tôi chia tay trước sân trường không một lời chào. Hình như giữa chúng tôi đang có một bàn tay vô hình ngăn chặn. Tôi lại một mình đi lại những con dường chúng tôi đã từng đi qua, đi dưới những con đường có hàng dây điện giăng ngang cắt nát trời chiều. Cánh Vạc đã bay về, một mình với đôi vai gầy. Tôi biết đi đâu, cũng chỉ còn một mình nhìn quanh chỗ nào cũng chứa đầy kỷ niệm, tôi liêu xiêu một bóng đến con hẻm hun hút gió của nhà nàng. Và tôi gặp hắn - thằng Hoàng -ngay cửa ngõ nhà Trân Cầm. Ngôi nhà có giàn cây huỳnh hoa vàng rực rỡ. Hắn đứng đó, bên cạnh Trân Cầm, hình như hai người đang vui. Hình như có một nụ cười đang hiện ra trên khuôn mặt nàng. Hoàng có vẻ toại nguyện, hắn chào nàng bằng cái vẫy tay. Tôi nhìn lên những cánh hoa vàng trước ngõ nhà Trân Cầm, những cánh hoa vàng rực, vẫn những cánh hoa hôm trước nhưng hôm nay thấy chúng mới vô duyên, trơ trẽn làm sao? Tôi là người thua cuộc, trong cuộc chơi, kẻ thua cuộc phải rời vị trí, đó là qui luật. Tôi trở thành kẻ đứng xem cuộc đời tiếp tục, đó cũng là điều đúng với qui luật.

Thế là chúng tôi mất nhau, sao kết thúc lại nhạt nhẽo đến thế. Chúng tôi lặng lẽ xa nhau không một lời giải thích, cũng chẳng do một lí do nào. Một kết thúc vô lí, đến hàng chục năm sau tôi vẫn thấy vô cùng phi lí.

Trở về gác trọ, đầu tôi ngổn ngang nhiều câu hỏi. Tôi sẽ phải làm gì đây? Tôi sẽ đi về đâu đây? Khi tất cả mong ước, khi những giấc mơ nhỏ nhoi cũng không đạt được. Tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn mới gắng gượng đến lúc được ra trường. Những ngày đến lớp đói quặn lòng, những tuần lễ sống chỉ bằng nước lã và khoai lang, những đêm mưa trong căn gác không đủ che những cơn gió giật, chỉ có tình yêu của Trân Cầm đã làm cho tôi hi vọng, bởi đời còn có Trân Cầm nên tôi còn nghị lực để đến trường và tin rằng lúc ra trường cuộc sống sẽ đỡ hơn, bởi tôi chỉ cần cuộc sống bình thường, tôi đã mất hết số tiền lớn vì những thay đổi của thời cuộc, nên chẳng tin có ngày mình sẽ làm lại được như xưa. Nhưng tôi đã bị từ chối, người ta đã lấy cắp ước mơ của tôi, tôi sẽ không có được những buổi chiều cuối tuần đón đợi dưới chân đồi, tôi sẽ không bao giờ được trở về cùng với Trân Cầm trong đồng cỏ đầy hoa dại, sẽ không có dấu chấm nào để đặt dấu cuối cùng cho một tình yêu. "Gió đã thổi chiếc khăn quàng xuống cỏ, nụ cười xưa đã tắt dưới chân đồi. Tôi bất lực bị đời xô ngã quị, cuộc tao phùng còn li biệt mà thôi.(2)"

Tôi bỏ mất năm ngày ngồi ở nhà xếp năm trăm con Vạc giấy, những con Vạc nhỏ nằm ngổn ngang giữa sàn nhà trước cặp mắt ngạc nhiên của đám bạn cùng phòng, tôi cắn chặt răng xếp cho đến khi mấy đầu ngón tay sưng phồng, tóe máu, mất hết cảm giác. Những con Vạc lần lượt ra đời lẫn với những vết máu của tôi, những cánh chim tôi yêu và là hình ảnh của Trân Cầm. Nhưng rồi tôi chất các con Vạc giấy thành một đống lớn, châm lửa đốt. Lửa cháy, những cánh Vạc thành tro tàn bay trong buổi chiều u ám chờ mưa. Tôi cứ tưởng sẽ là quên được hết trong ngọn lửa ấy, nhưng không ngờ bóng Vạc mãi bay trong tôi suốt cuộc đời.

Buổi chiều cuối năm, nhìn gia đình hàng xóm đang quây quần sum họp trong nhà, bất giác tôi thèm một hơi ấm gia đình mãnh liệt, đứa con đi hoang bỗng dưng chạnh lòng nhớ tới ngôi nhà xưa, ở đó đang có cha mẹ, các em vây quanh chiếc bàn ăn tối, có không khí đầm ấm và những ánh mắt cảm thông, tôi thèm một gia đình. Và từ buổi chiều nhớ nhà, cần một hơi ấm sẻ chia những thất vọng, cần có nơi chốn để đi về, để quên đi những mơ ước cũ, quên đi hình bóng tôi đã mang theo từ thuở còn rong chơi, quên đi những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời mình, quên đi những cơn mơ dữ, tôi đi đến quyết định làm thay đổi đời mình: lấy vợ. Tôi muốn làm một con người khác, tôi muốn rũ bỏ tôi xưa, tôi sẽ không còn là tôi nữa, tôi bỏ lại ngàn cánh Vạc trên bầu trời mơ ước cũ, bỏ luôn những kỷ niệm và ước mơ của một thời ngây dại. Người tôi lấy làm vợ là cô gái đã cứu tôi trong buổi chiều tôi đi trong mưa và ngã quị trước hiên nhà cô ấy. "Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa, mộng trùng lai không có bao giờ.(3)"

*******

Khi chuyện cưới hỏi đã xong, tôi gửi đơn xin cứu xét trường hợp của tôi tới phòng tổ chức. Tôi làm việc này theo sự gợi ý của một cô bạn học cùng khóa vô tình gặp trên sân trường. Cô bạn này đang có quan hệ tình cảm với ông hiệu phó, nên có điều kiện để giúp đỡ tôi toại nguyện. Kết quả đến nhanh hơn tôi tưởng, tôi cầm được quyết định phân công tác đi về vùng tận cùng của đất nước. Dù không được đến vùng cao nguyên như mong đợi, nhưng tờ giấy đó đã đem đến cho tôi niềm vui khôn xiết, chỉ có điều không có Trân Cầm để chia vui với tôi, để được nói lời chia tay với nàng.

Nhưng suốt ba tháng trường, không biết bao lần tôi lên xuống tỉnh lỵ heo hút đó trong thời điểm xe cộ đi lại rất khó khăn, Sở giáo dục của tỉnh không có một dấu hiệu gì đả động đến việc trình diện của tôi. Ngày hai bữa báo cơm tập thể, đi ngu ngơ khắp thị trấn nhỏ bé, chẳng có ai hỏi han đến mình. Tôi lại bắt đầu lâm vào một ngõ bí mới. Khi tất cả trường học đã khai giảng gần hai tháng rồi, không kiên nhẫn được nữa tôi xin gặp cán bộ phụ trách ở sở. Tiếp tôi là một đồng chí nữ nhỏ bé, mặc chiếc áo bà ba và chiếc quần đen ngắn đến mắt cá chân. Sau một hồi hỏi chuyện bâng quơ, bà ta bảo với tôi bằng một thái độ rất nghiêm nghị: Sở chúng tôi rất cần những giáo viên được đào tạo chính qui như anh, nhưng sở không thể nhận một giáo viên có tư cách như anh được. Tôi ngạc nhiên: nhưng thưa, tôi đã tốt nghiệp với đầy đủ các môn học, tôi không vi phạm chính trị, tôi không chống đối lại đường lối, chính sách của nhà nước, thế tại sao tôi lại không đủ tư cách để dạy học. Bằng cái nhìn soi mói pha lẫn khinh rẻ, bà cao giọng: Anh có đủ trình độ để dạy học nhưng anh không đủ đạo đức để làm người thầy. Tôi bắt đầu thấy máu nóng bốc lên mặt: Sao lại không đủ đạo đức… Không đợi tôi nói hết câu, bà cán bộ rút từ trong ngăn kéo ra một bọc hồ sơ, đẩy đến trước mặt tôi và nói với giọng có vẻ dịu hơn: có lẽ anh không biết thật, vậy thì tôi nói rõ cho anh biết, trong hồ sơ của trường sư phạm chuyển về, có một biên bản của một buổi họp gồm hơn chục trang giấy kết luận anh đạo đức hạng C, là hạng không thể chấp nhận ngoài xã hội chứ đừng nói ở trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Anh bị lên án là có quan hệ nam nữ bất chính, không trong sáng trong quá trình học tập, là người kiêu căng, tự mãn, có tư tưởng chống đối tập thể.

Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào, máu nóng không biết từ đâu trào lên làm cho mặt nóng bừng như có lửa. Tay nắm chặt tôi giơ lên định đấm mạnh xuống bàn, nhưng tôi kịp trấn tĩnh, bàn tay kịp dừng lại. Bây giờ thì tôi đã hiểu hết, đã nhìn thấy được hết, đã biết được mọi nguyên do. Mối tình đẹp như bài thơ của chúng tôi bị kết án là cuộc tình bất chính, không trong sáng. Những lời góp ý, phát biểu để hiểu hơn bài giảng trong sinh hoạt chính trị của tôi là những tư tưởng chống đối mọi người. Thế thì cuộc đời này còn có chi là đẹp đẽ, có chi là trung thực. Mọi giá trị đã bị đảo lộn, mọi qui ước đã bị đổi thay. Nhân danh ai, nhân danh cái gì để kết án chúng tôi. Suốt cả cuộc tình chúng tôi chỉ một lần hôn phớt môi nhau trong buổi chiều mưa tháng Sáu, chỉ một lần cầm tay trong giấc ngủ ở nông trường, đó là bất chính, là phạm vào điều tối kỵ sao?  Bỗng dưng tôi chợt nhớ có một câu thơ rất hay: "Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người". (4)Sao chúng tôi yêu nhau lại bị tước mất quyền làm người tử tế? Chúng tôi cố giữ cho cuộc tình thật thánh thiện, thật đẹp đẽ lại bị loài người gán cho là mối quan hệ không trong sáng, bất chính, phải hủy diệt, phải chối từ, phải bị lên án.

Tôi được đọc chục trang biên bản đó, đó là buổi họp chi đoàn khoa Văn. Người chủ trì, những người tham dự đều là những người bạn học chung lớp, những người hàng ngày chứng kiến cuộc tình của chúng tôi, những người hàng ngày ngồi chung bàn, cười chung chuyện với chúng tôi. Bây giờ họ trở thành những quan tòa tố cáo, kết án chúng tôi. Lúc này tôi càng hiểu hơn những ánh mắt hằn học, đố kỵ thường lóe lên sau lưng tôi. Họ nhân danh đạo đức khi họ đang làm chuyện phi đạo đức. Họ thêm thắt, thêu dệt những điều không có, họ gán cho tôi những tội lỗi mà tôi không hề phạm, những tội lỗi mà tôi chưa hề nghĩ đến, nói chi chuyện thực hiện. Họ tưởng tượng ra cảnh chúng tôi hò hẹn với nhau trong những đêm ở nông trường, xa lánh mọi người để hưởng thụ xác thân với nhau trong nhiều đêm đi lao động, sao họ không biết rằng thời gian đó tôi không có mặt ở nơi người ta dựng lên cảnh giả, lúc đó tôi đang ở một tỉnh lỵ xa nơi đó hàng trăm cây số. Thương cho Trân Cầm, nếu cô ấy biết được chuyện này, Trân Cầm làm sao chống chọi được với dư luận khắc nghiệt, làm sao chịu được mối oan khiên này. Tôi đã hiểu được sao mắt Trân Cầm như có khói, nguyên do nàng cố tránh tôi. Trân Cầm đang cố tránh những lời dị nghị, những dư luận bắt nguồn từ một vở bi hài kịch. Một vở kịch rất tồi nhưng mọi người đều cố tin và cùng nhau vỗ tay. Họ có nghĩ gì không khi buông lời kết án một con người, họ có nghĩ tới một hậu quả vô cùng tai hại khi họ gieo xuống một mầm ác, họ nghĩ gì khi xô người khác xuống bùn đen. Tôi hiểu và thông cảm thái độ và quyết định của người cán bộ sở. Họ là người chỉ biết căn cứ vào biên bản, vào những báo cáo. Và khi tiếp nhận báo cáo như vậy thì ai có thể dám nhận một người đạo đức hạng C như tôi làm giáo viên để giảng dạy cho thế hệ trẻ.

Tôi trở về thành phố ngay trong đêm với bọc hồ sơ người cán bộ tin tưởng giao cho. Bọc hồ sơ hơn chục trang đầy kín chữ chứa những lời kết án đã đóng tôi vào thập tự.

Sau nhiều lần tìm đủ mọi cách để được gặp cán bộ phòng tổ chức, nhiều lần dùng đủ mọi lý lẽ, mọi bằng chứng chứng minh mình là người bị oan khuất, những lời kết tội là không đúng sự thật, tôi đã được bố trí về dạy học ở một trường xa tít ở ngoại thành.

*******

Con đường đến trường thật lắm gian nan, sau gần năm tiếng đồng hồ chuyển từ xe buýt qua xe lam, rồi lên xe ngựa, rồi một chuyến xe lam nữa đi qua nhiều chiếc cầu nhỏ, nhiều đồng lúa trơ gốc rạ tôi mới đến được ngôi trường. Đó là những dãy nhà thấp lè tè lợp tôn, vách tường nham nhở những vết thương. Sân trường đọng những vũng bùn với hàng cây điệp vàng quắt queo, hàng cây bã đậu xù xì gai góc. Đêm đêm tiếng ễnh ương kêu buồn não nuột. Nhưng tôi rất vui vì đã được đón nhận. Có lẽ người ta đã hủy bản án của tôi rồi, tôi nhủ thầm sẽ cố gắng phấn đấu để chứng minh rằng tôi vẫn là người còn có ích, tôi sẽ cố gắng dạy học và sống thật tốt để minh chứng cho cuộc đời thấy rằng những lời kết tội kia là những điều dối trá. Dù thời gian đầu gần sáu tháng, tôi không được lãnh lương, hàng tháng tôi chỉ lãnh được vài kí gạo độn bo bo, người ta muốn dò xét, hoặc thử lòng tôi chăng? Những năm tháng đó là giai đoạn khó khăn về kinh tế của cả nước, bữa cơm tập thể luôn độn bo bo hoặc bột mì, món ăn quanh năm là tô canh rau hay bầu bí lỏng bỏng nước và miếng cá tanh tưởi , nát nhừ, ươn thối. Những ngày ấy tôi sống không ham muốn, không lo âu, chỉ biết làm việc và cống hiến. Tôi chấp nhận cuộc sống ở miền quê này, tìm thấy niềm vui trước những tình cảm rất chân thật của các học trò nhỏ. Tôi xung phong dạy hết ba cấp lớp, dạy suốt tuần không nghỉ mong quên được hình bóng của Trân Cầm, hình ảnh của mối tình đã mất. Quên đi cay đắng cuộc đời dành cho.

Đôi khi, trong mùa đi chấm thi, tôi cũng có gặp Trân Cầm, chúng tôi cũng có nhiều câu chuyện để nói với nhau, nhưng rồi mỗi đứa lại đi mỗi ngả, để lại trong tôi nhiều nỗi nhớ hơn. Tôi ở đấy gần năm năm, gần như không biết những đổi thay của thế giới, bởi không điện, không truyền hình, truyền thanh, thỉnh thoảng chỉ đọc một vài tờ báo cũ. Tôi như người tù nhân tự nguyện bị giam lỏng nơi chốn xa xôi, xa nền văn minh đương đại. Bạn bè tôi ở thành phố không gặp được tôi nên một số cứ đinh ninh tôi đã vượt biên, bởi lúc này phong trào vượt biên rầm rộ lắm. Tôi trở thành anh nhà quê ngơ ngác khi có dịp về chốn thị thành, mà thật ra chốn thị thành thì cũng nghèo nàn, thiếu thốn, mọi người ai cũng lao lực kiếm ăn, chỉ biết làm sao để có ăn cho no là hạnh phúc. Hạnh phúc là được mua được tấm vải, chiếc vỏ xe, lạng thịt theo giá phân phối. Hạnh phúc rất giản đơn. Còn tôi thì cứ quắt quay tìm kiếm một thứ hạnh phúc xa vời không có thực.

*******

Những khó khăn trong cuộc sống, những mâu thuẫn gia đình càng ngày càng lớn dần lên đưa tới kết cuộc là vợ chồng tôi phải đi tới cảnh chia tay, tôi trở lại cuộc sống độc thân, lại ngày ngày nhận thau cơm ở bếp ăn tập thể, lại hàng đêm đối diện với bóng mình. Nhưng ở nơi xa xôi này, người ta vẫn chưa quên chuyện cũ, đã có lần chuyện đạo đức hạng C của tôi lại được đem ra bàn cãi, đó là lúc chi đoàn định kết nạp đoàn viên cho tôi. Qúa khứ đó cộng với việc tôi vừa ly dị đã khiến cho mọi người không đồng ý cho tôi cùng đứng chung hàng ngũ, tôi vẫn là người có không đủ đạo đức để tiến lên. Tôi cũng chẳng lấy chuyện đó làm buồn, bởi tôi hiểu mình đã bị vết chàm bôi bẩn, dễ gì được tẩy trắng lại đâu. Tôi chỉ mong sự bình yên.

Đủ thời gian công tác ở ngoại thành, tôi được trở về thành phố. Trân Cầm lập gia đình khi tôi vừa có quyết định li hôn. Âu đó cũng là số trời, bởi chúng tôi có duyên gặp nhau nhưng không có nợ để trói nhau. Tôi cầu mong cho Trân Cầm được hạnh phúc, có lẽ chúng tôi sẽ không nên gặp nhau nữa, mỗi người đã có một phần số của mình.

Tôi cố thu mình lại để sống, lạnh nhạt với mọi người, xa lánh chốn đông vui, một mình gặm nhấm những éo le và bất hạnh. Nhiều đồng nghiệp nữ có cảm tình với tôi, có lẽ do sự lạnh lùng xa cách không giống ai khiến họ tò mò muốn tìm một cuộc phiêu lưu, khám phá. Nhưng tôi không cùng tham dự được bằng trái tim nguội lạnh với con người.

Rồi Trân Cầm đi xa, tôi biết tin này chỉ một ngày trước khi nàng bay. Tôi viết vội vài dòng thay cho lời đưa tiễn. Ngày Trân Cầm đi, tôi đến sân bay kiếm góc kín đứng nhìn nàng lặng lẽ. Và khi nàng bước ra máy bay, tôi lên phòng lầu dành cho khách tiễn đưa nhau, nhìn xuống sân bay mênh mông, tìm một khung cửa sổ, buộc vào một chiếc khăn bay trong gió và hi vọng rằng từ khung cửa máy bay Trân Cầm sẽ nhìn thấy chiếc khăn như bàn tay vẫy vĩnh biệt. "Môi cười ở cuối sân ga, chùm bông tuyết mỏng pha màu vĩnh ly (5)". Ở đây trưa nắng, không có tuyết, nhưng sao tôi thấy lạnh vô cùng. Thế là từ nay tôi sẽ không bao giờ gặp Trân Cầm được nữa. Chiếc khăn đã bị gió cuốn đi. Dòng đời cũng đã cuốn chúng tôi đi. Vĩnh biệt!

Từ ngày đó, khi đi đường, tôi cứ khao khát tìm theo những người như có dáng như Trân Cầm, những người tóc xõa, vai gầy, đi guốc mộc, đội nón lá, hi vọng tìm được Trân Cầm giữa phố đông, để chào nhau giữa con đường, để cho nhau nụ cười giữa phố phường ngựa xe. Nhưng hình bóng đó không còn tìm thấy được bởi người đã đi xa, mà phố xá bây giờ có ai dùng nón lá và guốc mộc. Ngỡ như là tuyệt vọng.

Nhưng rồi Trân Cầm lại trở về, với mái tóc bạc trắng vì những ngày tháng cực nhọc nơi xứ lạ. Tôi gặp Trân Cầm giữa phố, nỗi mừng vui pha lẫn chút xót xa. Cuộc hạnh ngộ rất ngắn nhưng làm cho tôi quá sững sờ. Dấu thời gian đã bắt đầu hiện diện trên nhan sắc. Hòn đá lăn không đóng rêu, thời gian làm rong rêu những bậc  thềm vắng. Thời gian làm rong rêu trái tim tôi, trái tim tù đọng mệt mỏi vì yêu người. Cả hai chúng tôi đã bắt đầu của tuổi già. Nhưng vẫn chưa được yêu nhau trọn vẹn.

***********

Tôi từ bỏ nghề giáo, nhảy vào nghề buôn, bởi nghề buôn chỉ cần chữ tín, người ta không xét lí lịch, thương trường không xét đạo đức hạng nào mà chỉ cần anh năng động và biết nắm bắt cơ hội. Tôi buôn bằng chất xám của mình, lấy tim óc đổi thành tiền bạc, lấy tiền bạc đổi thành ngựa xe, nhà cửa. Tôi trở thành anh nhà giàu trong thời kỳ đổi mới. Tôi lại có chức danh, có nhiều kẻ xoay quanh xu nịnh, có nhiều thứ trong tay, chỉ thiếu có tình yêu của Trân Cầm. Tôi chạy theo cơn lốc làm giàu suốt một thời gian dài, bỗng có lúc ngồi nhìn lại, trái tim bệnh hoạn mệt mỏi của tôi lên tiếng, nỗi khát khao về ngôi nhà trên đồi nhìn xuống cánh đồng hoa vàng trên thành phố đầy sương trắng của ngày xưa lại cháy bỏng trở về. Tôi lên Blao, mua trang trại này, trồng những khóm hoa vàng trên đồi, như để ghi nhớ một cuộc tình thời tuổi trẻ, một mối tình sẽ đi mãi suốt cuộc đời tôi. Một cuộc tình lãng mạn kéo dài qua hai thế kỷ.

Mới đây, tôi đọc được những bài viết của Trân Cầm ghi lại những ngày tháng năm nàng lao động ở xứ người, những nỗi cô đơn, nhớ quê nhà của cô ấy, bỗng tôi chợt có ý nghĩ lãng mạn cuối cùng, tôi sẽ bay qua xứ lạ đó. Tôi sẽ đi trên những con đường Trân Cầm đã đi, thở không khí Trân Cầm đã thở, để nghe trong bão cát vàng, trong gió tuyết những nỗi cô đơn của một kẻ xa nhà, để chia sẻ nỗi buồn của kẻ tha hương. Tôi sẽ đi nhìn những chiếc lá đỏ, những chiếc lá nàng đã từng nhìn, những cây phong lá đỏ của rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Tôi sẽ đứng nghe gió thổi, những ngọn gió đã từng thổi qua người nàng. Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa trên dốc núi, sẽ ngồi trên phiến đá nàng đã từng ngồi, nghe tiếng chuông chùa lặng lẽ giữa thinh không. Để cảm nhận được rằng, thế gian này có đó rồi mất đó. Sắc sắc không không.

Tôi không có được Trân Cầm trong cuộc sống lứa đôi, nhưng tôi đã có nàng trong mộng tưởng.

Tiếng chuông chùa sẽ cho tôi quên đi tục lụy, quên đi những ác tâm đã làm cho chúng tôi xa cách ngày xưa, quên hết mọi người để chỉ còn hai đứa chúng tôi, lại đi trong mưa trong mùa mưa tháng Sáu.

Thuở mới quen nhau. Trân Cầm có chép cho tôi bài thơ, trong đó có câu: Có trầu mà chẳng có cau, Thì đành không đỏ môi nhau kiếp này. Thật vậy, có trầu không cau đúng là quá vô duyên, tôi cũng quá vô duyên khi tưởng tượng đến một cuộc dầm mưa giữa tuổi năm mươi, khi cả hai đã bị dấu vết thời gian làm cho mệt mỏi, khi cuộc đời đã quật cho đến mệt nhoài. Nhưng hàng năm vẫn có tháng Sáu, và tháng Sáu vẫn có những cơn mưa. 

Thế nhưng chuyến đi của tôi đã không thực hiện được, khi hành lí đã chuẩn bị xong, chiếc vé máy bay đã nằm trong túi áo, mùa thu lá đã vàng thì tôi nhận tin Trân Cầm vừa qua đời . Cái chết đến đột ngột như một cơn gió độc thổi qua cõi trần gian này. Tôi không tiễn được nàng về chốn xa xôi ấy. Tôi không được mang những bông hoa cẩm chướng trắng mà nàng rất ưa thích đến bên tấm hình hài đã bất động rồi. Chúng tôi cũng chẳng có một đoạn đường ngắn ngủi để tiễn đưa nhau. Ước vọng của một thời cũng đã chấm dứt, tôi về đây để nghe gió thổi và lá rụng trên đồi. Mỗi buổi chiều ngồi lặng lẽ để nhớ những tàn phai và cuộc tình không có lời chia tay. Có lẽ ở bên kia của thế giới, mỗi buổi chiều nàng cũng giống như tôi ngồi nhìn chiều đang đi và tiếc cho một cuộc tình.

*******

Vệt sáng đã bắt đầu hiện lên ở chân đồi, ông bạn già của tôi ngừng kể, đôi mắt ông xa xăm nhìn về phía có ánh sáng vừa lên. Có tiếng kêu của con nai lẻ bạn, vang trong trảng cỏ. Ngày mai sẽ là ngày nắng đẹp. Tôi sẽ về Sài Gòn, về lại nơi loài người đang tranh nhau sống, đang cố sức để dìm nhau xuống. Chắc chắn sẽ có ngày tôi sẽ trở lại nơi này, ông bạn già của tôi ơi.

Sài Gòn, tháng Sáu 2002

DODUYNGOC

(1) Thơ Hồ Dzếnh

(2) Thơ Đỗ Duy Ngọc

(3)Thơ Bùi Giáng

(4) Thơ Nguyễn Đình Thi 

(5) Thơ Bùi Giáng



Sáng chợt thức giấc thấy đồng hồ đã hơn 11:00. Mưa. Sài Gòn mưa dầm dề như mưa xứ Huế. Cả đàn chim không một tiếng hót. Người cũng lười biếng như chim, chẳng buồn ngồi dậy dù đã cảm thấy đói sau một đêm trống rỗng. Giờ biết làm sao để có buổi ăn trưa đây? Mưa kiểu này là không xuống đường được rồi. Nhớ ngày xưa đợi mưa để được lang thang dưới mưa, được nhìn thấy những chiếc lá me bay trên đường Nguyễn Du, được nhìn thấy phố phường ngược bóng dưới những vũng nước, được châm một điếu thuốc dưới mưa bụi bay bay để trên đường về nhớ đầy. Giờ tuổi tác không cho phép những trò lãng mạn dại dột. Đứng bên cửa nhìn xuống sân sũng nước, định đốt một điếu thuốc lại chợt nhớ chỉ số huyết áp vừa đo, hơi cao, đành nhịn. Ăn thêm một cây kẹo chocolat vì đường huyết hơi bị tụt. Đã đến tuổi có lắm cái lo, tiếc tuổi trẻ đã chóng qua đi, tiếc cái thời hồn nhiên sống, hồn nhiên ăn, hồn nhiên chơi chẳng có gì phải bận tâm, chẳng có chi phải lo lắng. Giờ ăn món gì cũng nghĩ, uống thứ gì cũng ngần ngừ, không chỉ là sợ hoá chất, chất độc mà còn sợ đường, sợ mỡ, sợ đạm, sợ đủ thứ đe doạ sức khoẻ. Cuộc sống, miếng ăn, giấc ngủ chẳng còn là niềm vui, chẳng còn chi thú vị.

Mưa. Vẫn mưa. Khớp vẫn âm ỉ đau, bước đi vẫn cà nhắc. Thấy tự thương thân mình với chút tủi thân. Tuổi già đi sóng đôi với cô đơn. Lại thêm lẻ bóng, chẳng biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với ai. Những bữa cơm cô quạnh trong quán bên đường hay trong nhà hàng cũng chỉ làm sự trống vắng càng lớn thêm. Tới một tuổi nào đó, người ta cần có đôi để có chỗ dựa. Hụt hẫng vì chỉ còn một mình, tái tê vì mỗi đêm nhìn bóng mình lặng lẽ in trên vách. Giờ làm việc cũng lười vì chẳng còn động cơ nào thúc bách. Con cái lớn cả rồi, thành tựu cả rồi, thật ra giờ chúng chẳng còn cần chi mình nữa. Chẳng còn ai phải lo nên công việc đôi khi chỉ là niềm vui để lấp chỗ trống cho khây khoả. Tìm những thú vui qua ngày nhưng lại chỉ chọn những thú vui tốn hao. Mua sắm đủ thứ để lấp khoảng trống, thêm vài chiếc xe, thêm mấy cái lồng chim quý, thêm vài chiếc đồng hồ lạ, vài chiếc quạt máy xưa, đôi ba chiếc máy hát cũ với những chiếc dĩa có những giọng ca và bài hát rất cũ của một thời, tất cả cũng để tìm một đôi phút hân hoan rồi lại buồn tênh. Buổi sáng không tụ tập cà phê, không thuốc lá, không tô phở như thường ngày bỗng thấy vô vị và trống rỗng. Nỗi nhớ đầy tay mà bất lực ngay trong ý nghĩ. Rồi lại thêm một ngày. Một ngày nữa đang mất đi. Đã tháng mười, rồi cũng sẽ hết một năm. Tất cả héo dần đi kể cả những ý nghĩ lộn xộn hàng ngày. Thời gian đang bào mòn tất cả và ta cũng mòn đi theo thời gian.
7.10.2020
DODUYNGOC

 


Liêu xiêu chiều vỡ trên tay
Thế gian lận đận đời bày cuộc chơi
Giữa đường muốn khóc khơi khơi
Chân tay tê buốt tơi bời ruột gan
Héo mòn buộc với gian nan
Đường xa mỏi mệt sau ngàn bước đi
Quắt quay còn lại chút gì
Sau lưng đất động ầm ì nương dâu
Hoá ra đời có chi đâu
Chỉ là nắm bụi nát nhàu lòng nhau
Người ngồi ở lại rất đau.
Sài Gòn. 26.9.2020
DODUYNGOC
(Bức tượng Melancholy của Điêu khắc gia Albert Gyorgy ở bên hồ Geneva)


Buổi sáng mặt trời đi qua cửa sổ
Có sợi nắng rơi trên bình trà cổ
Có bông hồng héo lay lắt mặt bàn
Có người nằm yên nhìn như nấm mộ


Buổi sáng sương tan con chim thức giấc
Cất tiếng ru buồn nghe đầy tiếng nấc
Tẩu thuốc tàn rồi chẳng ấm bàn tay
Người bỗng bâng khuâng trong cơn tất bật

Buổi sáng lá rung tựa con mắt thở
Có nụ hoa vàng trầm ngâm hé nở
Có đốm nhang trầm đốt mở đầu ngày
Ngôi nhà vắng hoe ngồi lâu chợt sợ

Buổi sáng lặng lờ mở từng cánh cửa
Người đi xa rồi ta còn một nửa
Chung quanh trống trơn vây bủa hư không
Ta cắn vành môi để nghe máu ứa

Buổi sáng hắt hiu từng ngón tay nhỏ
Không tiếng dế buồn gáy nơi ngọn cỏ
Chén trà nguội dần đọng chút tàn hơi
Đời chẳng còn chi thôi đành buông bỏ

Buổi sáng qua đi ta còn ở đó
Lòng bịt bít bùng không nơi nhốt gió
Nhìn đốm máu đỏ chảy dưới cánh tay
Cuộn mình trong chăn ta nằm một xó
18.6.2020
DODUYNGOC
Ảnh: Thái Ngọc Sơn


Tôi còn nỗi buồn nhưng không muốn kể
Tôi có niềm đau nhưng mà mặc kệ
Người bỏ đi rồi sao tôi không quên
Vết thương chưa khô thấy mình quá tệ


Tôi vẫn vô tình đi ngang qua đó
Tôi luôn tần ngần trước con ngõ nhỏ
Có nhát dao nào đâm nhẹ vào lưng
Nắng rọi đỉnh đầu chói con mắt ngó

Tôi nghe sóng biển chợt nhớ một thời
Những bước chân trần với cuộc rong chơi
Giờ nhìn lên núi thấy rừng hiu hắt
Hát điệu nhạc buồn của kẻ mồ côi

Tường đã xanh rêu người không ngó lại
Cơn mưa ngập ngừng xô ngã bước chân
Còn nửa cuộc đời làm người thất bại
Tim hối đến đi lòng bỗng ngại ngần
9.6.2020
DODUYNGOC



Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được xưng tụng là Bà chúa thơ Nôm. Làm câu đối mà bằng tiếng Nôm không phải dễ dàng. Thông thường câu đối thường chứa điển tích Trung Hoa, dùng chữ Hán để thể hiện. Ở câu đối cũng như thơ Hồ Xuán Hương rặt Nôm, mà lại toàn những chữ Nôm độc đáo và ấn tượng. Vào thời kỳ của bà mà viết được như thế chẳng khác gì một cuộc cách mạng (Đỗ Duy Ngọc - Phê bình thơ và câu đối của Hồ Xuân Hương - Tiểu luận, Sài Gòn 1974)

Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thôn Tiên Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt đường, chiết tự họ Hồ của mình ra thành 2 chữ Cổ và Nguyệt. Hồ Xuân Hương ở với mẹ, có đi học, sáng dạ, thông minh, nhưng không được học nhiều, thích làm thơ. Khi Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Yên gặp Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa (1802-1804), bắt đầu cuộc đời mười năm lận đận, vợ cả ghen tuông, thân phận như nàng Tiểu Thanh. Dứt tình với Tổng Cóc, quan Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển cầu hôn, đám hỏi chẳng bao lâu thì mẹ mất, phải cư tang mẹ, đến đầu năm 1816 Hồ Xuân Hương mới về Yên Quảng được hai năm thì chồng bị bắt và kết án tử hình. Xuân Hương đi tu rồi trở về làng Nghi Tàm chết trong cô đơn, không một bài thơ phúng điếu.

Tự thuật và ứng khẩu
Câu đối vịnh cái Âm Hộ:
Khi khép tối om om, quân tử tò mò nhìn chăng thấy
Lúc mở ra toang hoác, anh hùng tấp tỉnh đứng coi

Ứng khẩu khi bị trượt ngã:
Hôm ấy, Hồ Xuân Hương cùng bạn bè ra phố dạo chơi, không may bà dẫm phải chỗ trơn trượt té sõng soài xuống đất. Người đi đường và bạn bè thấy vậy cười lăn cười bò, bà liền giơ tay trỏ lên trời đọc luôn đôi câu đối:
Giơ tay với thử, Trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem, Đất vắn dài

Hồ Xuân Hương khi du ngoạn qua cửa Gió ở Đèo Ngang, đã viết:
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá
Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút nuôi cho lọt khách cổ kim

Câu đối Tết:
Đêm ba mươi tống cựu, khép cánh càn khôn, một then đưa đẩy khìn khin khít khịt
Sáng mồng một nghinh tân, mở lò tạo hóa, hai cánh banh ra toác toạc toàng toang

Câu đối nhận xét về tình duyên của mình:
Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay

Hồ Xuân Hương và quan lớn:
Hôm ấy, một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh hồ Tây. Trời trong, nước xanh, cảnh vật đẹp đến nao lòng vì bao nhiêu tinh tú của đất trời dường như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi mà tâm hồn nhạy cảm của bà nhìn ra và quyết định dừng lại an cư lập nghiệp chứ không tiến vào kinh thành Thăng Long - nơi bao văn võ bá quan, dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều tìm vào - vì vị trí khuất nẻo so với kinh thành...Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to:
Võng đào quan lớn đi trên ấy
Váy rách bà con giặt dưới này
Ví cái võng điều của quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác quan thời nay là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực thì quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao cửa rộng, vợ nọ con kia, còn ô dù võng lọng, nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi gì cho dân đâu? Nghe câu đối, cả thầy, cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa, biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy...Chuyện này mà để lan truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghêng ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp mê hồn.

Đối đáp với Chiêu Hổ
Phạm Đình Hổ tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Chiêu Hổ người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: "Làm người con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời..." Tuy đọc nhiều sách, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ. Khi Gia Long lên ngôi, ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, dưới đây là những giai thoại đối đáp giữa hai người:

Những câu đối chào hỏi khi gặp gỡ:
Hồ Xuân Hương ra: Khấp như thiếu nữ vu quy nhật (Khóc như thiếu nữ vui ngày cưới)
Chiêu Hổ đối: Tiếu tự thư sinh lạc đệ thi (Cười như anh khóa lúc hỏng thi)
Chiêu Hổ hứng khởi lại ra: Người Cổ lại còn theo thói Nguyệt (Chữ cổ ghép với chữ nguyệt là chữ hồ, ý nói Hồ Xuân Hương đã lớn tuổi mà vẫn đa tình)
Hồ Xuân Hương đối: Buồng Xuân đâu đã nhạt mùi Hương (Chữ Xuân với ghép chữ Hương là tên, ý nói Hồ Xuân Hương này đâu đã phải là người “nhạt phấn phai hương”, đâu đã chịu già hom!)
Có thuyết nói cả 2 vế đều của Chiêu Hổ viết tặng Hồ Xuân Hương, vế sau thay chữ "đâu đã" bằng chữ "chi để". Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà, còn tách ra lại là sự trách khéo: "Đã tự coi là người cổ hủ, trọng nề nếp, gia phong lại còn thích thói hưởng nguyệt, xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi xuân thì còn hương sắc, mà không gìn giữ nền nếp, gia phong thì buồng xuân còn để lạnh đến bao giờ?

Lúc mới quen nhau, Chiêu Hổ còn ngại ngùng, Xuân Hương đùa:
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, nhắn nhe toan những sự gùm ghè, gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, chưa dám cho nên phải rụt rè.
Chiêu Hổ cả thẹn nổi máu nóng anh hùng phản công liều lĩnh: Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe, bảo nhe không được gậy ông ghè! ông ghè không được ông ghè mãi, ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!
Ta thấy Chiêu Hổ mất bình tỉnh, lời thơ hồ đồ, nóng nảy. Tuy nhiên chúng ta thấy hai người đừa bởn rất thân tình.

Một hôm, Chiêu Hổ đến chơi nhà Hồ Xuân Hương, khi đi qua sân, đụng phải quần áo của nàng đang phơi. Hồ Xuân Hương xuất thần đọc: Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau mỗi khi nắng cực
Chiêu Hổ đối lại: Thuyền rồng, mui vẽ, vém buồm lên rồi sẽ lộn lèo

Bữa nọ, Chiêu Hổ hơi men chếnh choáng ghé sang nhà Hồ Xuân Hương chơi, mượn cớ say rượu ông vừa nói chuyện vừa đưa tay quờ quạng lung tung, Hồ Xuân Hương biết Chiêu Hổ giả đò liền tức cảnh thành thơ:
Vẫn giả tỉnh vẫn giả say, sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày? này này chị bảo cho mà biết, chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Chiêu Hổ đáp: 'Nào ai tỉnh nào ai say, nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày? hang hùm ví bẳng không ai mó, ao có hùm con bỗng trốc tay?
Văn bản cổ nhất chép giai thoại này không gọi là thơ Chiêu Hổ mà ghi là thơ "Mắng người say rượu", các văn bản về sau dựa vào chữ hùm, hùm con nên cho rằng đó là của Chiêu Hổ đối đáp với Hồ Xuân Hương.

Năm 1804 sau khi thôi Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương vay tiền Chiêu Hổ để mở hiệu sách ở Phố Nam gần đền Lý Quốc Sư, Xuân Hương vay năm quan tiền. Chiêu Hổ cho mượn có ba, Xuân Hương trách:
Sao nói rằng năm lại có ba? trách người quân tử hẹn sai ra, bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, nhờ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ đáp: Rằng gián thì năm quí có ba, bởi người thục nữ tính không ra, ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt, cho cả cành đa lẫn củ đa.
Xuân Hương trách Chiêu Hổ là Cuội, nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa trên mặt trăng, có lẽ Chiêu Hổ cũng không giàu có lắm, nên mượn chuyện tiền quí với tiền gián mà trả lời. Ngày xưa một quan có mười tiền, tiền gián có 36 đồng, một quan bằng 360 đồng, do đó 5 quan bằng 1800 đồng. Tiền quí có 60 đồng; do đó 3 quan tiền quí bằng 60 X 3 = 1800 đồng. Xuân Hương tưởng mượn Chiêu Hổ tiền quí, nhưng Chiêu Hổ cho mượn tiền gián, trách Xuân Hương sao tính không ra.

Năm 1821, Phạm Đình Hổ dâng sách được vua Minh Mạng vời ra: Ông được bổ làm Hành Tẩu Viện Hàn Lâm. Xuân Hương năm ấy chồng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường, hay tin đã làm câu đối mừng Chiêu Hổ với lời đùa nhẹ nhàng:
Mặc áo Giáp, dãi cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý
Hồ Xuân Hương lấy những chữ trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý ý muốn chế diễu Chiêu Hổ chỉ đỗ Tú Tài, nhờ dâng sách mà được làm quan nay mặc áo đẹp ra vẻ ta đây.
Chiêu Hổ nổi nóng, đối đáp bằng lời mắng nặng nề: Làm đĩ Càn, tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn
vế đối lấy những chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn, Đoài mắng Xuân Hương là 'con đi càn dỡ lại còn tự phụ, cho mình khôn'. Những lời mắng nặng nề ấy đã chấm dứt mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ. Trong thư hồi âm, đoạn cuối ông viết hai câu kết để cắt tình đoạn nghĩa với "bà chúa thơ nôm":
Nay đã mần cha thằng xích tử
Rầy thì đù mẹ cái hồng nhan
Xích tử là con đỏ, trỏ dân chúng. Theo Lê Thước, thì hai câu này là của Nguyễn Công Trứ - thân hai câu này là vô nghĩa lý: tại sao đã được mần cha thằng xích tử, thì lại đù mẹ cái hồng nhan! Không thèm đù nữa, hay lại đù hơn bao giờ hết? Chẳng qua đây là đối chọi chữ chan chát cho thích. Những chuyện tục truyền như thế này, rất có thể không phải là sự có thật (có ý kiến cho Chiêu Hổ chỉ là nhân vật trong giai thoại, không phải là Phạm Đình Hổ), nếu mà có thì như vậy thật đáng buồn biết chừng nào, Chiêu Hổ thì có vợ con, yên nhà yên cửa, tốt thân tốt thế, quan lớn sống lâu! Còn Xuân Hương thì lận đận, long đong, chưa bề nào! Hạ những lời đùa như thế giữa hai người tài tử ai đáng hơn ai?

Đối đáp với học trò
Một hôm sau ngày mưa, Hồ Xuân Hương đến trường, giẫm phải hòn gạch dưới có bùn bắn lên tận cẳng chân (hồi đó con gái còn mặc váy) Hồ Xuân Hương phải ra cầu ao cúi xuống vén váy rửa cẳng chân. Một cậu học trò tinh nghịch trông thấy liền đọc một vế:
Nê nếnh do chi tầm hà xứ? (Đại ý: Bùn bắn lên cẳng chân để tìm cái gì trên ấy nhỉ?)
Hồ Xuân Hương liền đáp: Mạc tương thoá thủ tiếu anh hùng (Đại ý: Khi cúi xuống rửa tay thấy nó cười người anh hùng như cậu).

Đối đáp với nhà sư
Tương truyền khi Xuân Hương qua chùa chơi, vốn biết Xuân Hương nổi tiếng thơ phú, nhà sư liền cho chú tiểu mang ra 1 vế thách đối.
Vế ra như sau: Thông ba sáu bộ chân kinh, dẫu chẳng La Hán Kim Cương, cũng cao tăng đạt đạo
Hồ Xuân Hương liền bảo chú tiểu đưa bút và viết ngay vế đối lại bên cạnh: Dù hay ba vạn chín nghìn, không biết méo tròn ngang dọc, thì cũng đếch ra người

Đối đáp với Tổng Cóc (có thuyết khác nói cả 2 vế đều của Hồ Xuân Hương)
Trong thời gian theo cha về Sơn Dương dạy học, Hồ Xuân Hương được nhiều cậu Tú, anh Nho ngấp nghé chuyện riêng tư, trong những người đó có Tổng Cóc. Ông Tổng Cóc có tên thường gọi là Kình, quê ở làng Gáp, xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ). Khi đi lính lên chức Đội, gọi là Đội Kình. Khi làm Phó tổng được gọi là Tổng Kình. Tên chữ của Tổng Kình là Nguyễn Công Hòa. Cóc là tên gọi lúc còn bé. Gọi tên xấu xí thế cho tà ma bớt quấy. Sau này Hồ Xuân Hương có bài thơ Khóc Tổng Cóc nên dân làng mới gọi ông là Tổng Cóc. Tổng Cóc là con cháu quan nghè làng Gáp Nguyễn Quang Thành. Tương truyền Tổng Cóc kết thân với Tú Điếc làng Xuân Lũng và Nho Trâm người làng Kinh Kệ. Ba người quen biết Hồ Xuân Hương trong dịp họ đi thi Hương. Nhờ sự mối manh của họ, mà cụ Đồ Xứ người Nghệ An (đỗ đầu xứ nên khi dạy học họi là Đồ Xứ) đã dẫn con gái Hồ Xuân Hương về làng Sơn Dương cạnh làng Gáp để dạy học. Một hôm, nhân ngày Tết Nguyên đán, cậu Tú Kình cùng một số thư sinh đem biếu quà Tết cho cụ đồ Hồ Sĩ Danh, thân sinh Hồ Xuân Hương, bị Hồ Xuân Hương ra câu đối:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới
Tú Kình đối lại: Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào
Nhờ câu đối này, Tổng Cóc cưới Hồ Xuân Hương về làm vợ kế, đương nhiên bị vợ cả và con cái bất bình, nhưng vì “trai làm nên lấy năm bảy vợ”, nên họ phải ngậm đắng nuốt cay. Một lần vợ chồng có va chạm, Tổng Cóc giận dỗi viết thư trách móc để dưới gối rồi bỏ đi xa một thời gian, khi Tổng Cóc về thì Hồ Xuân Hương đã không từ mà biệt. Mãi lâu sau Tổng Cóc mới dò la biết Hồ Xuân Hương đang sống trong phủ Vĩnh Tường, tính đếm ngày tháng, Tổng Cóc biết Hồ Xuân Hương đã sinh đẻ. Ông đến phủ Vĩnh Tường chỉ dám lân la ngoài phố, chờ con sen trong phủ ra hỏi mới biết được con gái Hồ Xuân Hương đã chết khi sinh ra. Tổng Cóc đành tay không ra về, ông viết mấy câu đối tỏ vẻ nuối tiếc như sau:
Thảo lai băng ngọc kính (Nói đến tấm gương bằng ngọc)
Xuân tận hóa công hương (Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân)
Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Tấm gương trong trắng ví với người con gái trong trắng, nhưng khi hết xuân thì thợ trời cũng chịu”.
Độc bằng đan quế thượng (Chi bằng lúc ta vin cành quế đỏ)
Hỏa phóng bích hoa hương (Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm)
Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Chỉ biết dựa vào phúc đức, con cháu khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi”.

Đối đáp với ông đồ Bút
Khi tiếp chuyện một ông đồ tên là Bút ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Hồ Xuân Hương (có một thời cùng gia đình sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, nay là vùng vườn Bách Thảo, Hà Nội), ra vế đối: Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.
Ông đồ Bút đối lại: Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa
“Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra.

Đối đáp với Dương Trí Tản
Một lần về quê nội Quỳnh Đôi, Hồ Xuân Hương cũng đối đầu ngang ngửa với các sĩ tử, ông đồ- những người ngưỡng mộ bà lũ lượt kéo tới nhà để xem mặt, bắt...hồn thơ, xem có đúng "danh bất hư truyền" như người đời tán tụng không? Trước mặt họ là một người đàn bà nhan sắc chưa phải chim sa cá lặn, dung mạo cũng chẳng phô bày nhung lụa, phấn son, nhưng phong thái đoan trang, ngôn từ lịch thiệp, lại nổi tiếng về trình độ học vấn, giỏi thơ nôm, khiến ai cũng cảm thấy hài lòng, mến mộ. Cuộc thi tài diễn ra ngay tối đầu tiên, tất cả các sĩ tử, văn nhân đều bị đánh bại, riêng ông đồ Dương Trí Tản - tính tình ngang ngạnh, tự phụ, là ra vẻ bất cần. Chờ cho đám bạn bè thất trận đi vãn ông mới thủng thẳng tìm đến ra mắt người đẹp. Rít xong điếu thuốc lào, nhả khói mù mịt gian phòng, Trí Tản cố tình ứng khẩu lại bài thơ đã chuẩn bị sẵn:
Eo lưng thắt đáy thật là xinh, điếu ai hơn được điếu cô mình, thoắt châm thoắt bén duyên hương lửa, càng núc càng say tính với tình

Hồ Xuân Hương đối: Giương oai giễu võ thật là kinh, danh tiếng bao năm đã Tản mình, thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa, tài Trí ra sao hỏi tính tình?
Bài thơ tỏ rõ bản lĩnh nhanh nhạy, sắc sảo và cũng không kém phần thẳng thắn, quyết liệt của Hồ Xuân Hương, dùng chính cái tên của ông đồ rởm, gõ đầu trẻ không xong, còn đòi gõ đầu Hồ Xuân Hương? Mượn điếu bát để tỏ tình thân...gái, chưa được gái già này cho phép đã tính chuyện ái ân (hương lửa) trong khi Xuân Hương có cả đống người chạy theo tán tỉnh nơi kinh kỳ, đô hội còn không được nữa là người nghiện thuốc lào, suốt ngày hun khói mù trời, ăn nói ngạo mạn, xấc xược như ông ta. Xuân Hương là con người bằng xương, bằng thịt, thích cảm xúc êm dịu, tao nhã, chứ đâu phải cái điếu bát trơ khấc, để ông muốn bén duyên hương lửa, ân ái vợ chồng lúc nào là có thể đè ra như đè điếu được? Bên cạnh đó còn có cả họ tên của ông Dương cũng được lồng ghép vào. Vừa song phi đã ngã ngựa, ông Trí không dám giữ bộ mặt dương dương tự đắc nữa mà nhân lúc mọi người tản đi vì trời khuya, bèn bấm bụng rút lui, thua tài trí Xuân Hương và trở thành bằng hữu. Từ đó ông ta thôi ti toe, không còn giở thói đàn anh, bắt nạt, lấn lướt, lớp nho sinh, văn sĩ trong làng nữa.

Năm 1788, sau khi treo ba chữ “Cổ Nguyệt Đường” lên, khiến khách văn chương thành Thăng Long tò mò kéo đến tấp nập. Hồ Xuân Hương đã nổi hứng ra vế đối hiểm hóc:
Gái Cổ Nguyệt chơi Hồ cổ Nguyệt, Nguyệt Nguyệt bằng quân tử trượng phu.
Trong vế đối hai chữ ‘nguyệt” ghép lại thì thành chữ “bằng” (朋), chữ “bằng” ở đây có nghĩa là bằng hữu. Vế đối ngầm khoe bàn bè bằng hữu của Cổ Nguyệt Đường đều là bậc quân tử trượng phu.

Phải mấy năm sau, Dương Trí Tản mới đối lại được như sau: Trai Kỳ Sơn chơi núi Kỳ Sơn, Sơn Sơn xuất anh hùng hào kiệt.
Tuy nhiên, những người am tường Hán học bình luận rằng vế đáp của Dương Trí Tản chưa chỉnh so với vế đối của Hồ Xuân Hương, vì tuy vế sau hai chữ “sơn” ghép với nhau thì thành chữ “xuất”, nhưng vế trước chữ “Kỳ” không ghép được với chữ “sơn” để nên nghĩa như chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt”.

Cũng giai thoại này nhưng có thuyết khác lại chép vế ra rằng: Gái Vọng Nguyệt chơi giăng vọng nguyệt, (Nguyệt 月) (nguyệt 月) (bằng 朋) tể tướng công khanh. Ở đây có tên làng Vọng Nguyệt (làng Vọng), huyện Yên Phong, tỉnh bắc Ninh là làng nhiều người đậu tiến sĩ. Ý nói, gái làng Vọng Nguyệt chỉ chơi "giăng vọng nguyệt" là trăng rằm, và kết bạn (bằng 朋) với ai có tài làm tể tướng. Vế đối như sau: Trai Tam Sơn đứng núi Tam Sơn, (Sơn 山) (sơn 山) (xuất 出) anh hùng hào kiệt. Làng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn; nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng có 2 Trạng nguyên là Nguyễn Quang Quan và Ngô Miễn Thiệu.
Vọng nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong) xưa có tên là làng Ngột Nhì. Người họ Chu đến đây khai cơ lập nghiệp đầu tiên. Sau khi ông tổ họ Chu mất, mộ ông được đặt ở đồng Đống Tranh, nhìn xuống một cái ao bán nguyệt. Do vậy, làng được đặt tên tự là Vọng Nguyệt. Vọng Nguyệt nghĩa là trong trăng, đẹp và thơ mộng đến kỳ ảo. Đây là một làng cổ mang đầy đủ bản tính của quê hương Bắc Ninh trong truyền thống: anh hùng và trữ tình. Tính anh hùng được biểu hiện rõ trong câu chuyện dân gian và mối tình sử giữa chàng trai làng Vọng Nguyệt Chu Đình Dự và công chúa Lý Nguyệt Sinh. Họ gặp nhau trong ngày hội xuân và trai tài, gái sắc đã nên nghĩa trăm năm. Gặp khi giặc Tống xâm lấn nước ta, họ đã lập đội dân binh, góp phần vào chiến thắng hào hùng trên sông Như Nguyệt mùa xuân 1077. Nay, Vọng Nguyệt vẫn còn đền thờ Nguyệt Sinh công chúa, mối duyên tình kỳ ngộ giữa người con gái Vọng Nguyệt Chu Thị Bột và chàng thư sinh Tam Sơn Ngô Sử Toàn đã để lại cho người đời một đôi câu đối như trên mà sự kết hợp giữa chữ tình và chữ tài thật quả tùng lai ít thấy.

Gần đây, có người là Hồ Bá Quỳnh xin đổi lại câu của Dương Trí Tản như sau:
“Trai Nhân Sơn gặp tiên Nhân Sơn, sơn sơn xuất công hầu khanh tướng”
Về phía Tây Nam cách làng Quỳnh Đôi khoảng 3km có làng Nhân Sơn. Nay thuộc xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu gần thị trấn Cầu Giát. Ngay trong làng ấy có hòn núi gọi là Lèn Nhân Sơn rất đẹp. Núi Nhân Sơn nay đã bị phá đá nung vôi gần hết. Nhưng truyền thuyết vẫn còn vì đã đi vào lòng dân. Truyền thuyết kể rằng: Nhiều đêm trăng thanh gió mát người ta tưởng thấy các cô tiên thưởng nguyệt cạnh các ông tiên đánh cờ. Dưới chân núi có ngôi đền cổ nhân dân thường hương khói lễ vật phụng thờ. Câu đối này đảm bảo được chữ Nhân là người ghép với chữ Sơn là núi thì thành chữ Tiên (ông Tiên, cô tiên) và hai chữ sơn ghép lại thành chữ xuất như ông Dương Trí Tản đối.
Hồ Bá Quỳnh biệt danh là ông “vua hiến kế” (nguyên cán bộ Ủy ban vật giá tỉnh Nghệ An, ngụ xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) vị Tiến sĩ được coi là một trong những cha đẻ của ý tưởng “Hưu nông dân”, có hàng trăm tờ trình ở tầm kinh bang tế thế, quốc kế dân sinh... làm lợi cho cộng đồng nhiều tỉ đồng, nhưng lại không nuôi nổi vợ con

Hồ Xuân Hương và Khâm sai đại thần
Khi Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, tiến ra Bắc Hà, viên khâm sai lúc bấy giờ được lệnh đi kinh lý các tỉnh có gặp Hồ Xuân Hương để xin câu đối. Bà liền viết:
Thiên tử tinh kỳ đương bán diện (Che nửa mảnh rực cờ thiên tử)
Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ (Trấn ba góc, rõ tài tướng quân)
Câu đối trên có nghĩa đen là: Cờ xí của nhà vua treo khắp mọi nơi, che nửa mặt người. Uy danh của vị khâm sai rất to lớn, bao trùm cả ba cõi. Câu đối được treo lên, vua Gia Long nắc nỏm khen, bàn dân thiên hạ cười mủm mỉm, còn quan bé, quan to giật điếng người...vì phong cách nghịch ngợm của Hồ Xuân Hưng chẳng giấu vào đâu được, khen vua mà lại xỏ ngầm chết vua đấy. Bán diện nghĩa là khuôn mặt chia ra làm hai nửa theo chiều dọc, còn áp tam thuỳ...chỉ khác gì áp vào cái chỗ ba góc da còn thiếu ấy? Đến nỗi chúa dấu vua yêu một cái này thì tướng quân dại gì buông tha? Câu đối được hiểu theo nghĩa ngầm rằng:
Che nửa mặt, rực cờ Thiên tử
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân
Wikiquote
DODUYNGOC chép lại





Vừa rồi có người Thầy giáo cũ vốn là Thầy dạy học của anh ruột tui thời trung học, tui cũng gọi là Thầy, có hỏi tui về mấy câu đối nổi tiếng lâu nay. Trong quá trình tìm tư liệu để trả lời Thầy cho đầy đủ, tui tìm được mấy giai thoại về câu đối của Lê Quý Đôn. Xin chép ra đây mọi người cùng đọc

Lê Quý Đôn thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương, quê ở làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Một lần, Lê Danh Phương cùng các bạn thiếu niên thường ra cái ao rộng trước cổng làng để tắm. Bỗng có một vị quan lớn đi qua; có ý hỏi đường đến thăm nhà quan Thượng Thư Lê Phú Thứ. Cậu bé Lê Danh Phương thản nhiên đứng dạng hai chân, dang hai tay ra để cản đường. Rồi cậu nói: “Đố ông biết chữ gì đây? Nếu biết, cháu sẽ đưa ông về nhà, còn nếu không thì đợi đấy!” Vị quan lớn rất khó chịu và không muốn trả lời… Lê Danh Phương liền giải thích: “Chữ Thái (太), thế mà cũng không biết!”… Cuối cùng, vị quan lớn cũng tìm đến được nhà bạn. Ông rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé trần truồng hồi nãy, bây giờ lại đang ngồi im trên cái ghế đẩu ở trong vườn nhà quan Thượng. Khi nghe vị quan bạn thuật lại chuyện với một thái độ bực dọc, quan Thượng thư Lê Phú Thứ cảm thấy rất ngượng ngùng, xấu hổ với bạn; lập tức gọi Lê Danh Phương vào nhà để mắng, rồi ra điều kiện: cậu phải làm ngay một bài thơ với đầu đề "Rắn đầu biếng học" để xin lỗi cha và bác; nếu không làm được thì sẽ bị đánh đòn. Chỉ một lát sau, Lê Danh Phương đã viết xong bài thơ và thoát được đòn roi của cha.

Nội dung bài thơ như sau:
Chẳng phải Liu Điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha,
Thẹn đèn Hổ Lửa đau lòng mẹ,
Nay thét Mai Gầm rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da,
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo Hổ Mang danh tiếng thế gia

(Để thể hiện lời tự thú, tự trách, tự hứa của bản thân trước người cha và người bạn của cha mình, ngoài việc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nghiêm trang, ngắn gọn, chặt chẽ; ngoài việc sử dụng những yếu tố ngôn từ trong một số câu tục ngữ và đơn vị thành ngữ tiếng Việt rất tế nhị; ngoài việc sử dụng kết hợp từ thuần Nôm với một vài từ Hán - Việt và điển cố văn học khá hợp lý, Lê Danh Phương còn chú ý sử dụng nhiều danh từ tiếng Việt chỉ một số loài bò sát, nhất là một số loài rắn độc. Từ rắn là một danh từ chỉ động vật thuộc loài bò sát, thân dài có vảy, không chân, di chuyển bằng cách uốn thân. Trong bài thơ Rắn đầu biếng học của Lê Danh Phương, từ rắn đầu là danh từ đã được chuyển hóa thành tính từ để chỉ từ rắn trong rắn mặt - một khẩu ngữ; nói về hạng trẻ con không chịu nghe theo những lời dạy dỗ của cha mẹ, bất chấp cả sự răn đe của người trên và trở nên rất bướng bỉnh, khó bảo. Tương tự, từ liu điu là một danh từ chỉ loài rắn nhỏ, có nọc độc ở hàm trên, đẻ con, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái đã được tác giả sử dụng trong câu phá đề theo biện pháp tu từ ẩn dụ để chỉ hạng người không được học hành, bình thường. Từ hổ lửa là một danh từ chỉ loài rắn độc có khoang, màu đỏ như màu lửa được tác giả dùng trong câu thực thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành tính từ thể hiện một phản ứng tâm lý hổ thẹn của con người; ở đây là người mẹ. Từ mai gầm là danh từ chỉ chung loài rắn độc còn có tên là cạp nong, cạp nia. Rắn cạp nong thân có nhiều khoang đen - vàng xen kẽ. Rắn cạp nia thân có nhiều khoang đen - trắng xen kẽ, cỡ nhỏ hơn cạp nong. Từ mai gầm là danh từ được tác giả sử dụng trong câu thực thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành động từ thể hiện thái độ giận dữ, bực tức của con người; ở đây là người cha. Từ ráo trong rắn ráo là danh từ chỉ loài rắn lành, cỡ trung bình, lưng màu nâu, bụng màu vàng, ăn ếch nhái được tác giả sử dụng trong câu luận thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành động từ ráo mép chỉ thói quen nói dối rất xấu của người con trước cha mẹ. Từ lằn trong thằn lằn là danh từ chỉ loài động vật thuộc nhóm bò sát, thân và đuôi dài phủ vảy, bốn chi khỏe, sống ở bờ bụi, ăn sâu bọ được tác giả dùng trong câu luận thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ để chỉ hậu quả ở việc xử phạt của người cha đối với con mình về chuyện biếng học. Từ trâu là danh từ chỉ rắn hổ trâu - một loài rắn hổ mang rất lớn, rất khoẻ, rất độc, da màu đen được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ ấp Trâu; quê hương Mạnh Tử (Trung Quốc). Tương tự, từ lỗ là danh từ liên quan đến nơi ở của rắn, được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất cũng theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ nước Lỗ; quê hương Khổng Tử (Trung Quốc). Từ hổ mang là danh từ chỉ loài rắn độc có tập tính ngẩng đầu, bạnh mang để đe dọa kẻ địch được tác giả dùng trong câu kết thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ chỉ một trạng thái tâm lý của con người (xấu hổ mang danh). Bên cạnh việc dùng hai từ địa danh (Trâu, Lỗ) chỉ quê hương của Mạnh Tử, Khổng Tử; tượng trưng cho Nho học, khi viết bài thơ Rắn đầu biếng học, Lê Danh Phương còn lựa chọn những từ trong một số câu tục ngữ Việt và trong một số đơn vị thành ngữ tiếng Việt để đặt vào những vị trí cần thiết ở đầu đề và cả trong tám câu thơ của bài thơ: từ Rắn đầu trong đầu đề và trong câu thừa đề có trong thành ngữ "Rắn đầu rắn mặt"; từ liu điu trong câu phá đề có ở tục ngữ: "Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu"; từ giống trong câu phá đề có trong thành ngữ "Giống nào ra giống ấy"; từ đau lòng trong câu thực thứ nhất có trong thành ngữ "Đau lòng xót ruột"; cụm từ nay thét mai gầm trong câu thực thứ hai xuất phát từ thành ngữ "Nay thét mai gào"; từ ráo mép trong câu luận thứ nhất có trong thành ngữ "Ráo mồm ráo mép"; cụm từ năm ba trong câu luận thứ hai bắt nguồn từ câu tục ngữ "Năm bà ba chuyện"; cụm từ siêng học trong câu kết thứ nhất bắt nguồn từ câu tục ngữ "Siêng làm thì có, siêng học thì hay"; cụm từ hổ mang danh trong câu kết thứ hai có trong thành ngữ "Xấu hổ mang danh"; và từ thế gia trong câu kết thứ hai có trong thành ngữ "Thế gia vọng tộc". Nhờ phối hợp sử dụng ngôn từ và thể loại hết sức nhuần nhuyễn, tinh tế,

Lê Danh Phương qua bài thơ Rắn đầu biếng học đã nói lên đầy đủ những khía cạnh trong nội dung lời tự thú, tự trách, tự hứa của mình: tuy bản thân vốn sinh ra từ một gia đình có học, nhưng cậu lại ương bướng, ngang ngạnh, khó dạy bảo, không chăm lo học hành; và tự nhận thấy với những lỗi ấy chắc chắn cậu sẽ bị cha xử phạt nặng. Những lỗi của cậu đã làm cho mẹ rất đau lòng, xót ruột mỗi khi thắp đèn cho cậu học, mỗi lần nhóm lửa nấu cơm cho cậu ăn. Những lỗi của cậu không chỉ gợi niềm đau xót, hổ thẹn âm thầm, thường xuyên ở mẹ, mà còn dẫn đến thái độ bực tức, lo lắng, giận dữ ở cha. Dù mẹ có buồn, dù cha có giận và thậm chí nhiều lần đã bị cha xử phạt nghiêm khắc, nhưng cậu vẫn “lếu láo”; nghĩa là vẫn học bài một cách qua loa, đại khái, cốt cho có, cho xong. Mãi đến lúc này, trước một lỗi rất nặng (vừa biếng học, vừa vô lễ), cậu mới thực sự biết nhận lỗi và biết hứa từ nay chăm chỉ học hành để xứng đáng con nhà quyền thế, để xứng danh với truyền thống học phong của gia đình. Cả quan Thượng và vị khách chẳng những hết giận, mà còn tỏ ra rất thán phục về tài làm thơ của cậu bé)

vế đối:
Những muốn Tự Do cho mới nhà,
Thơ câu dại ý cóc mò tha,
Sách lề Đường Luật còng lưng mẹ,
Thầy thưởng Trường Ca mát bụng cha,
Song Thất sao quên câu tuấn kiệt,
Tứ Ngôn chăng nhớ bậc tài ba,
Vững lòng Lục Bát mà vui đạo,
Kim Cổ Phong lưu thi Việt gia
(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
(Tự Do, Đường Luật, Trường Ca, Song Thất, Tứ Ngôn, Lục Bát, Cổ Phong là các thể loại thơ. Trong bài thơ này,Cóc dùng với nghĩa là con cóc, ý nói thơ dở, thơ con cóc; Song Thất cũng có thể hiểu là cửa sổ (song) trong nhà (thất); Tứ Ngôn có thể hiểu là ý tứ (tứ) cao lớn (ngôn, vì theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, "ngôn" còn có nghĩa là cao lớn); Lục Bát cũng có thể hiểu là sông Lục, núi Bát thuộc tỉnh Bắc Ninh (bao gồm Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) quê hương những làn Quan họ, một cái nôi của thơ ca Việt Nam. Ngoài ra, Lục Bát cũng có nghĩa là "lục tìm chén bát" để ăn cơm, "có thực mới vực được đạo")

Một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm ông Lê Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn trực tiếp thử tài. Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới.

Ông khách nói: "Ta nghe cháu còn bé mà đã hay chữ, nhà cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là: Tam xuyên (三川)!"
Vế đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét sổ ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên(川). "Tam xuyên" (三川) lại có nghĩa "ba con sông". Lê Quý Đôn chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông khách rất vui vì tìm được vế đối rất hiểm, liền hỏi: "Sao, có đối được không, cháu bé?"

Lê Quý Đôn lễ phép thưa: "Dạ, cháu xin đối là: Tứ mục (四目)!".
"Tứ mục" (四目) có nghĩa "bốn con mắt". Chữ đối lại thật chuẩn, chữ "tứ" (四) viết quay dọc lại, cũng là chữ "mục" (目).

Sinh thời Lê Quý Đôn nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy.

Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ: "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn" (Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi). Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao, cụ lại đọc "chi". Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi: "Bẩm, "chi" nào ạ?" Cụ thở than rằng: "Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?"

Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại (Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó)
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ (Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu)

Thấy câu đối hay và lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc rằng: "Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ "chi" anh ơi". Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại, bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì. Có thuyết khác nói giai thoại này là do cụ già viết cho Cao Bá Quát.

Tuy bị cụ già làm cho bẽ mặt nhưng Lê Quý Đôn vẫn chưa bỏ được tính kiêu ngạo, sau đó ông đến cầu siêu cho cha ở ngôi chùa làng.

Nhà sư trụ trì thấy ông thì mừng rỡ mà rằng: "Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo, chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đối thế này, xin quan chỉ cho:

Hạ bất khả hạ, thượng bất khả thượng (dưới không thể dưới, trên không thể trên)
Chỉ nghi tại hạ, bất khả tại thượng (đúng nên ở dưới, không thể ở trên)

Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra, đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên. Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo.

Qua hai lần gặp cao nhân, Lê Quý Đôn đã bớt kiêu ngạo hơn nhưng cái tính tự mãn chưa thể sửa ngay được trong một sớm một chiều, ông hạ chữ "nghi nhất tự lai vấn" xuống nhưng lại viết mấy chữ: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn” vào cái bảng, hễ đi đâu thì cho thằng đầy tớ đi trước cầm. Một hôm qua đò, ông lái đò nhìn thấy dòng chữ trên rất khó chịu liền nói: "Tôi ra câu đối ông đối được thì để bảng này cầm đi, nếu không đối được thì đập cái bảng đi!"

Lê Quý Đôn đồng ý, thời gian đối là thời gian đò qua sông. Lê Quý Đôn bảo: "Ông xuất đối đi". Ông lái đò nhìn vào khoang thuyền, trên bếp đang nấu thịt con hôn trong nồi ba ông đọc luôn:
Con Ba Ba nấu nồi ba, tam tam chi cửu thật là chín chưng

Lê Quý Đôn nghĩ nát óc cho đến khi đò sang sông mà vẫn không đối được, ông lái đò đập cái bảng ấy đi, từ đó cái tật coi thường người khác của ông mất hẳn vì ông hiểu rằng "mình hay nhưng có người hay nữa".

Câu một có lẽ chúng ta đã rõ ông lái đò chơi chữ “Ba ba” với hai nghĩa (số 3 và con Ba Ba) Câu hai chia thành hai phần: “Tam tam chi cửu (chơi tiếng Hán hoàn toàn có nghĩa là : ba lần ba là chín, và cửu vừa là số 9 vừa là tính từ “chín”); “thật là chín chưng” nghĩa tiếng Việt hoàn toàn như “chín ngấu, chín mùi, chín rục...

1. Gần đây có người là Diên Minh đối như sau: Chim Đa Đa đậu nhánh đa, vô vàn trú thất khéo mà lạc nhau
(Vế một dùng “Đa đa” với hai nghĩa (chim Đa Đa và nhiều), đạt tiêu chuẩn của vế xướng. Vế hai với phần một: “Vô vàn/trú thất”với từ Việt là “vô vàn”, từ Hán là “trú thất” (Thất : động, lều, chỗ trú đơn giản - còn có nghĩa là mất, thất lạc); phần hai thuần Việt “khéo mà lạc nhau”. Vô vàn:(无穷多: nhiều nhiều, đọc trại ra cho dễ nghe của nguyên từ “vô vạn” là từ Hán. Do đó, câu đối của Diên Minh có thể nói là đạt yêu cầu được 90% (vế một 50% + vế hai 40%)

2. Vế đối khác 1: Chim cô cô đáp nhà cô, đơn đơn như nhất líu lô một mình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Wikipedia, chim cô cô có 2 loại: Cô cô đầu xám (Cochoa Purpurea ) và Cô cô xanh (Cochoa viridis). Cô cô đầu xám được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, và Việt Nam. Chim Cô cô đầu xám là một loài chim màu sắc rực rỡ, thích sống yên tĩnh, nó thường hay đứng bất động một mình trong các tán cây. Chữ cô được dùng trong từ "nhà cô" có thể hiểu theo nghĩa danh từ (như cô giáo, cô gái, cô cậu...) hoặc theo nghĩa tính từ (cô thân độc mã, cô quạnh...). Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, chữ "cô" còn có nghĩa là một mình, chữ đơn cũng còn có nghĩa là một mình. Đơn đơn như nhất dùng ý nghĩa 1x1=1 để đối với 3x3=9 của vế ra. Có thể thay cụm từ "Đơn đơn như nhất" bỡi "Nhất nhất như nhất" mà vế đối không thay đổi ý nghĩa. Vế đối tả một con chim cô cô đậu một mình trên một ngôi nhà cô độc (hoặc ngôi nhà của cô giáo "hay cô gái, bà cô" chỉ ở một mình)

3. Vế đối khác 2: Biển mười mười cấp anh mười, thập thập đẳng bách sướng cười trăm vui (Thiền Long) ("Con ba ba" là danh từ chung chỉ con vật thuộc loài ba ba. "Nồi ba" cũng là danh từ chung; Phần đầu vế đối: "Biển mười mười" là danh từ chung chỉ biển số đăng ký cho các xe có số thứ tự 1010. Trên thực tế Biển số 1010 được gọi theo các cách: "một không một không" hoặc "mười mười" hoặc "một nghìn không trăm mười"; "Anh mười" chỉ chung người anh thứ 10; Phần hai vế đối (số hán việt) : thập = 10; bách = 100; thập thập đẳng bách: 10X10=100, phần thuần việt "sướng cười trăm vui" : diễn tả trạng thái đạt niềm vui lớn "trăm vui" vì biển số đẹp, chữ "trăm" lặp lại nghĩa chữ "bách" đối chữ "chín" lặp lại nghĩa chữ "cửu")

4. Vế đối khác 3: Đường hai hai qua nước hai, nhị nhị thành tứ đúng bài tư duy (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Đường 22 là quốc lộ Xuyên Á từ Tây Ninh qua Cam pu chia là nước thứ hai sau Việt Nam)

Vế đối khác 4: Mười mười đúng cả vừa mười. Thập thập như bách đúng rồi trăm nguyên. (Nguyễn Sư Giao)





Ngày trước, những nhà giàu sang, phú quý, nhà quan lớn, tiệm buôn bán lớn thường có câu đối ở ban thờ hay ở trước cửa hiệu. Những câu đối này như lời giới thiệu gia thế hoặc ước vọng của chủ nhân. Giới thiệu một số câu đối tiêu biểu ở ba miền.

- Câu đối gắn trước của hiệu của một số gia đình ở huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng
Gia đình có cửa hiệu mang tên Mộc Lợi:
Mộc gia tiên đức sáng cơ nghiệp (Cái đức đời trước của gia đình họ Mộc an dựng nên cơ nghiệp)
Lợi phát tài nguyên chấn gia thanh (Nên lợi lộc tiền tố đời nay làm uy danh gia tộc mình thêm)

- Gia đình có cửa hiệu mang tên Kim Lợi:
Kim ngọc mãn đường tích thiên tứ (Vàng ngọc đầy nhà là do thụ hưởng được ơn của trời)
Lợi lộ hanh thông vạn đại xương (Con đường lợi lộc có tốt đẹp là do gia tộc: muôn đời làm điều tốt)

- Câu đối treo ở cửa nhà anh thợ mộc ở Tiền Giang
Cuối thế kỷ XIX, ông Nguyễn Minh Triết ở làng Đông Mỹ Thượng (Cai Lậy, Tiền Giang) viết đôi câu đối cho anh thợ mộc hay dùng bùa trừ yểm hại nhà chủ, để anh ta treo bàn thờ tổ sư:
Anh linh thiên tải hộ (Anh linh nghìn năm phù hộ)
Hiển hách vạn thu truyền (Hiển hách vạn thủa lưu truyền)
Câu đối này đọc qua thì thấy câu đối rất hay, tứ sâu, nghĩa đẹp. Nhưng đọc lái thì…"tải hộ" thành "tổ hại"; "thu truyền" thành "thiên trù" (trời trừ). Làm ăn như thế thì chỉ tổ hại hoặc hại đến tổ tiên, sẽ bị trời trừ, trời úm.

- Câu đối khắc tại nhà Nguyễn Đăng Tại làng Đại Mão-Trung Thôn, Bắc Ninh
Thôn Đại Mão có tên chữ là "Đại Mão Trung" tên nôm "Làng Giữa", thuộc xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trong làng có cụ Lê Nho Thầm là con của cụ Lê Nho Cúc, thường gọi là cụ giáo Cúc. Ông Thầm có người con gái lớn là Lê Thị Đăng sau khi tốt nghiệp Trung cấp sư phạm thì đi dạy học và xây dựng gia đình cùng với Nguyễn Đăng Tại người thôn Lam Cầu, Nguyễn Đăng Tại là Phó Giám đốc Công ty Thông tin tín hiệu Bắc Giang. Nhận thức và cũng là để giáo dục cháu con về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người với gia đình và xã hội, tại cổng nhà, Nguyễn Đăng Tại tự tay viết đôi câu đối nói về cái cổng, nơi phân giới giữa xã hội và gia đình :
Nhất phiến ám vân, phụ tử tôn tằng xuất quá tuân pháp luật
Song long giới địa, công hầu tao mặc nhập nội thị gia phong
Tạm dịch nghĩa:
Trên có nóc che trời, cha con cháu chắt ra ngoài nhất nhất phải tuân theo Pháp luật của Nhà nước
Hai cột ngăn cách giữa trong nhà - ngoài đường, bất kỳ ai dù là công hầu khanh tướng khi vào tới nhà cũng phải tuân theo nền nếp của gia đình

- Những câu đối ghi chép trong sách "Tam xã đăng khoa lục" ở xã Tứ Trưng
Tam xã đăng khoa lục là cuốn sách ghi chép các nhà khoa bảng của ba xã Kẻ Rưng là Văn Trưng, Lăng Trưng và Hiến Trưng, xưa thuộc huyện Bạch Hạc phủ Tam Đái trấn Sơn Tây nay là xã Tứ Trưng, gồm ba thôn Văn Trưng, Vĩnh Trưng (trước là Lăng Trưng) và Thế Trưng (trước là Hiến Trưng) thuộc huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc, ngoài ra còn có thôn Bảo Trưng (trước là Nhủ Trưng) nay đã cắt sang xã bên. Hiện nay còn lại đôi câu đối ca ngợi ba xã có nhiều người thi đỗ làm quan:
Câu đối của nhà thờ họ Nguyễn:
Đồng thế đồng triều tam Tiến sĩ
Nhất gia nhất nhật lưỡng vinh qui
Nghĩa là:
Cùng thời ba vị Tiến sĩ làm quan cùng triều
Một nhà hai người thi đỗ về làng vinh quy một ngày
Câu đối ở nhà thờ họ Nguyễn nhưng có ý nghĩa đối với cả xã. Ba vị tiến sĩ là hai cha con cụ Nguyễn Tiến Sách, Nguyễn Đình Toản và cụ Đỗ Hi Thiều
Câu đối ở nhà thờ họ Đặng:
Bách thế xưng thần lịch niên dữ quốc
Bát thôn cư thủ do tộc nhi hương
Nghĩa là:
Làm quan trăm đời nhiều năm giúp nước
Giữ đất tám thôn nhờ họ nên làng
Vế trên của câu đối họ Đặng cũng như các họ khác trong xã có nhiều người nối đời làm quan. Còn vế dưới nói về nghiệp võ của họ Đặng

- Câu đối treo ở ban thờ gia đình ông Phạm Vũ Ngọ ở xóm 3 Đôn Thư huyện Thanh Oai
Xuân hoa mãn mục, hỷ khí doanh môn
Tử đệ tân cần, xuân phong nhập hộ
Vào cuối đời Nhà Trần (trước sau năm 1375), có ba anh em một nhà ở đất Ái Châu thiên cư ra Bắc tìm đất lập nghiệp, trong đó Phạm Tiên Công chọn vùng Thời Trung – Đôn Thư, sau đã định cư ở Trang Thời Trung (tức xã Phương Trung bây giờ) và trở thành Thủy Tổ của Phạm Tam Chi nơi đây. Sau khi nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, song cũng phải đến năm Gia Long thứ 6 (1807), khoa thi Hương đầu tiên sau một thời gian gián đoạn mới lại được tổ chức. Khoa thi đó ở Đôn Thư có hai chú cháu cùng đi thi là cụ Phạm Đình Dư (đời thứ 6) và cụ Phạm Vũ Quyền (đời thứ 7), cả hai cụ đều thi đỗ. Phạm Vũ Quyền khi dự thi tuổi còn thấp, còn chưa có tên trong sổ đinh, phải mượn tên của chú ruột là Phạm Vũ Phác. Tư nghiệp Phạm Vũ Phác sau được phong Tế Tửu. Tế tửu Phạm Vũ Phác (tức Phạm Vũ Quyền) khi về hưu trí, được vua ban áo bào, được cấp tiền làm nhà dưỡng lão và được mang đôi biển “Hồi tị – Túc Tĩnh” về quê sử dụng như ở nhiệm sở khi còn đương chức. Cụ nghỉ hưu ở quê, dân làng thường gọi cụ là “Cụ Tế”, năm cụ qua đời, nhà vua gửi viếng đôi câu đối:
“Sự nghiệp tam triều vọng
Văn chương nhất quốc sư”

- Những câu đối khắc tại 1 số ngôi nhà cổ ở làng Phú Mộng - thành phố Huế
Nhà vườn Phú Mộng là cách gọi chung cho các ngôi nhà vườn hiện diện trong khu vực Phú Mộng phường Kim Long thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. "Phú Mộng viên" là vườn của ông Hoàng Xuân Bậc, ngôi nhà xưa nay vốn là phủ thờ Tôn Thất Thuyết. "An Lạc Viên" lại là ngôi nhà vườn theo một cách riêng của ông Võ Văn Long, nơi du khách có thể đọc thấy ý tứ của gia chủ qua việc chọn cây, bày cảnh và thưởng thức tài nữ công gia chánh của mẹ con bà chủ vườn. Bà Mai Thị Kim Hoàn và cô con gái Mai Chi đã bày trên chiếc bàn tre góc vườn những lẵng bánh trái được làm y hết hoa quả thật. Không ai nghĩ những đào, lê, táo, lựu... kia lại được làm từ... bột cộng với tài hoa gia chánh của phụ nữ Huế. Trước cổng ngôi nhà vườn bà Phạm Thị Túy - xưa là nhà ở của thượng thư bộ lễ Phạm Hữu Ðiền, có đôi câu đối:
Nhập thất hoán hiệp tương đức mỹ
Thường môn thảo mộc cộng tri xuân
Tạm dịch:
Vào nhà, cái lớn nhất là đạo đức và vẻ đẹp
Ở ngoài cửa, màu xanh hoa lá cỏ cây cùng nhau làm nên cảnh sắc
Trong gian giữa nhà ông Võ Văn Long là hai câu:
Ngũ hoa đài phán hương sơn vĩ
Thốn thảo thừa hoang cẩm thượng y
Tạm dịch:
Mùi hương của đám đài hoa rụng ẩn mình trong ngàn lau lách
Sắc màu của thảm cỏ hoang như một chiếc áo gấm

- Câu đối khắc tại ngôi nhà cổ độc đáo tại Tiên Cảnh, Tiên Phước, Quảng Nam
Huỳnh Thúc Kháng hiệu Mính Viên, Mính Viên tức "vườn chè", nghĩa rộng hơn là người sinh ra tại xứ "vườn chè". Nơi ấy, một vùng đồi núi bát úp dựa lưng vào dãy Trường Sơn. Có thời gian "Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an" đã lui gót về quê nuôi chí. Căn nhà xưa nay đã trở thành di tích tại thôn 5, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Trong nhà còn lưu đôi câu liễn bị mối mọt thời gian gặm nhấm dần nhưng tâm niệm và khí tiết của chủ nhân đầu tiên, xuất thân nhà nho trong họ của cụ Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn đó: "
Bách tải triệu bằng bồi phước trạch
Nhất sinh trì thủ trọng can trường
Năm 1939, Ngô Đình Diệm lúc đó là thượng thư, vào Quảng Nam chơi với anh mình là tổng đốc Ngô Đình Khôi, nghe tiếng ngôi nhà tìm đến thương lượng. Hôm đó buổi trưa. Tri huyện Tiên Phước Phạm Xuân Chánh dẫn đầu đoàn người ngựa đi trước, Thượng thư Ngô Đình Diệm đi sau. Ông Chánh mới nói: "Cụ thượng muốn mua lại căn nhà!" Người cháu bên họ ngoại của Huỳnh Thúc Kháng là Nguyễn Huỳnh Anh lúc đó là chủ sở hữu ngôi nhà đã từ chối rồi chỉ cho mọi người câu đối treo trên cột. Kể xong ông đọc luôn:
"Tổ đức càn khôn đại
Tôn công nhật nguyệt đường"
Căn nhà ông cố để lại coi như được dựng nên từ phước đức ông bà, không thể bán!

- Những câu đối khắc trong các ngôi nhà cổ ở Hội An có nội dung khuyên con cháu học hành
Canh độc lưỡng đồ, độc khả vinh thân canh khả phú (Nông học đôi đường, học sớm vinh thân nông sớm phú)
Kiệm cần nhị chí, cần năng sáng nghiệm kiệm năng thành (Kiệm cần hai chữ, cần cù sáng nghiệp kiệm thành công)
Thập niên song hạ vô nhân vấn (Mười năm đèn sách không ai hỏi)
Nhất cử thành danh thiên hạ tri (Thi trúng thành danh thiên hạ hay)
Thư sơn hữu lộ cần vi kính (Núi sách có đường, biết cần cù sẽ tìm ra đường ấy)
Học hải vô nhai khổ tác chu (Biển học vô bờ, khổ luyện sẽ là con thuyền đưa về bến thành công)
Quân tử tâm năng khuất năng thân tùy cơ ứng biến (Lòng người quân tử phải biết duỗi co tùy lúc và phải biết tùy cơ ứng biến)
Thiên hạ sự vô nan vô dị hữu chí cánh thành (Việc trong thiên hạ không khó cũng không dễ miễn có chí tất sẽ thành công)

- Những câu đối khắc trong nhà ông Trần Công Vàng, P. Phú Cường, Tx. Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương
Chánh tâm vi tiên, minh đức triệu cơ truyền thế viễn
Trung lập bất ỷ, thánh ngôn thuỳ huấn lịch niên tân
Nghĩa là:
Trước hết tâm phải chính, làm sáng đức để xây dựng cơ nghiệp lâu dài
Tự lập, không ỷ lại, lời thánh nhân truyền dạy mãi với thời gian
Và:
Sáng nghiệp duy nan, tổ phụ tu thường tân khổ
Thủ thành bất dị, tử tôn nghi giới xa hoa
Nghĩa là:
Sáng lập nên sự nghiệp khó khăn, tổ phụ phải trải qua nhiều cay đắng
Giữ lấy không dễ, con cháu chớ nên xa hoa

- Câu đối ghi trong cuốn Gia Phả họ Trương ở Đáp Cầu - Bắc Ninh
Yến dực di mưu vinh Bắc địa (Cánh Én đưa tin từ đất Bắc dành cho đời sau sự vinh hiển)
Hồng cơ biệt phái nhẫn Trương môn (Chim Hồng đặt để nhà họ Trương mềm dẻo) (Biệt phái: có phái riêng từ cội gốc dấy lên)
Nghĩa bóng (ý tại ngôn ngoại – ý vượt ra ngoài lời) của câu đối này vô cùng thâm thúy, vô cùng ảo diệu và uyên bác. Nước Yên dành máu từ đất Bắc (vinh=máu), Hồng hạc mang hình bởi họ Trương. “Hồng Hạc” trong vế sau của câu đối là hình ảnh con chim Hồng (chim Lạc) đã được khắc họa trên trống đồng -một dạng biểu tượng quốc huy của người Bách Việt cổ. Ở đây cùng ngầm ý rằng: người họ Trương từ thời đại Hùng Vương, Hồng Bàng đã tham gia phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng cơ đồ Bách Việt. Họ Trương có gốc gác từ Thanh Hà quận ở Trực Lệ hay Phúc Kiến, đều thuộc nước Yên của đất Bách Việt cổ phía nam sông Dương Tử, di cư về phương Nam vì nhiều lý do và giai đoạn khác nhau trong lịch sử.

- Câu đối ghi trong Gia Phả họ Phùng ở Nam Cường
Qua khỏi cầu đường sắt Yên Xuân, rẽ phải khoảng 1km bên bờ hữu ngạn sông Lam là xóm 1, xã Nam Cường, Nam Đàn, Nghệ An. Đền thờ các tiên tổ họ Phùng có hai tòa khá khang trang, đẹp đẽ, ở tách riêng ngoài xóm, nằm giữa đồng ruộng thoáng đãng. Đền thờ xưa thuộc làng Xuân Trạch, xã Hạ Khê, tổng Phù Long, huyện Hưng Nguyên, nay thuộc xã Nam Cường, huyện Nam Đàn. Gia phả dòng họ Phùng ở Nam Cường được lập vào năm 1788, do Thượng tướng, Quận công Phùng Viết Đán biên soạn. Trong Gia Phả có ghi chép 1 câu đối nội dung như sau:
“Phù Long sinh hào kiệt phụ quốc công cần lưu quốc sử
Phùng tộc hiển phúc thần độ dân ân đức thấu nhân tâm”

- Câu đối trong cuốn Lều Chõng của Ngô Tất Tổ
"Thuỷ ứng Chu hoa tam bạch hậu,
Trường trưng Thương quả thập hoàng sơ".
Chu đối Thương, (Nhà Chu nối tiếp sau nhà Thương và trước nhà Tần ở Trung Quốc) Hoa đối Quả, Tam đối Thập, Bạch đối Hoàng, Hậu đối Sơ. Từng chữ một đối nhau chan chát, Câu này được tác giả cho là "Thần Cú".

- Câu đối trong cuốn Bút Nghiên của Chu Thiên
Vế ra: Ba Sĩ ngồi một Kỷ, đội đức Đường Nghiêu (“Ba chữ sỹ 士 đè trên chữ kỷ 几 thì thành chữ Nghiêu 堯”)
vế đối: Một Bách xách hai Cung, đáng tài Lý Bật (“Chữ Bách 百 kẹp ở giữa hai chữ Cung弓, gọi là chữ Bật 弼”)
Đường Nghiêu là những vị vua giỏi trong lịch sử Trung Quốc. Chữ Nghiêu có ba chữ Sĩ ở trên chữ Kỹ là ghế: ba sĩ ngồi một ghế trong truyện cũng để tả cảnh ba người có học cùng đến cầu hôn). Lý Bật là vị tướng giỏi đời Lý- Đường được phong tước vương ngang với Quách Tử Nghi. Chữ Bật có một chữ bách ở giữa và hai chữ cung ở hai bên
Hoặc câu đối chữ nôm :
Vốn giòng thi lễ đôi tám xuân thu, gặp khách thư sinh đem lòng dục dịch
Trong câu này có lấy tên ngũ kinh là : Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu
Câu này đuoc đối lại: Đệ tử Trương Chu mười năm Khổng Mạnh, thấy nàng nhan sắc nên phải thưa trình.
Trong câu đối lại có lấy tên họ các bật thánh hiền là : Khổng Tử, Mạnh Tử và Trương Tử, Chu Tử, Trình Tử. Ba vị sau là ba vị danh nho đời Tống.

- Câu đối “mừng đám cưới” trong sách “Giai-Thoại Câu Đối” của Quỳnh-Liên-Tử Bảo Vân Bùi Văn Bảo (1917 - 1998)
Bùi Văn Bảo hiệu Bảo Vân và Bê Bình Phương sinh tại Thái Bình. Tốt nghiệp lớp Sư phạm năm 1940, trường Bưởi ở Hà Nội, Việt Nam. Vào Sài Gòn viết thêm cho báo Tự Do (mục Ðàn Ngang Cung) cho Ca Bắc (ở Sài Gòn) năm 1956 nghỉ viết báo, soạn sách giáo khoa tiểu học và xuất bản báo Tuổi Xanh cho thiếu nhi. Năm 1975 di cư sang Canada lại soạn sách dạy tiếng Việt cho trẻ em và viết thơ và văn cho nhiều báo ở hải ngoại. Trong bài thơ "Giữ gìn tiếng Việt" có hai câu mở đầu mà nhiều người biết là:
Chỉ sợ đàn con quên Việt Ngữ
Ðừng lo lũ trẻ kém Anh Văn
Trong tác phẩm Giai Thoại Câu Đối có có ghi chép về 1 đôi câu đối mừng đám cưới như sau rất độc đáo như sau:
“Tơ hồng vương vấn, cho nên em về làm dâu ông Hoa-Thịnh-Đốn
Nguyệt lão xe duyên, thành ra anh đi ở rể bà Trưng-Nữ-Vương”

- Câu đối của danh nhân Nguyễn Sinh Khiêm khắc tại nhà thuốc Đông Cát - thành phố Huế tỉnh Thừa Thiên
Nguyễn Sinh Khiêm (1888 - 1950) còn có tên Nguyễn Tất Đạt, là anh ruột của Nguyễn Tất Thành, người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Khoảng năm 1936-1939, ông thường ghé vào tiệm thuốc bắc thầy Đoàn Ngọc Phách (cháu nội thầy Cảnh, ở Sịa) ở chợ Kệ đàm đạo và cân thuốc. Năm 1943-1944, ông có đi lại vùng Kim Long, thường lui tới tiệm thuốc bắc Đồng Cát (của thầy Hườn, Kim Long). Gia đình này quen gọi thầy Nghệ là Cụ Cố Đạt. Nhìn tiệm thuốc có tên Đồng Cát, ông lấy 2 chữ đầu làm đôi câu đối:
Đồng chí, đồng tình, kiêm đồng đạo
Cát tâm, cát sự, tịnh cát tường

- Câu đối khắc tại Nhà Thuốc Đông Y Gia Tuyền Trần Ngọc Chấn
Nhà Thuốc đông y gia truyền Trần Ngọc Chấn phòng 6 ngõ 84 Hoàng Đạo Thành- Kim Giang- Thanh Xuân- HN. Theo gia phả họ Trần còn ghi chép lại được thì Cụ thượng tổ khởi nghiệp y đời thứ nhất là Cụ Trần Hữu Tạo (1580 - 1650) đến Lương y Trần Ngọc Chấn (1916-1995) là đời thứ 13, lương y Trần Ngọc Tấn (con trai lớn của cụ Chấn) là đời thứ 14 và đến bác sỹ Trần Thịnh là đời thứ 15 liên tục kế thừa. Lương y Trần Ngọc Báo (1873-1963) Đời thứ 11 có sở trường trị bệnh nhi khoa, thuốc suy dinh dưỡng cho trẻ nhỏ, đặc biệt có kinh nghiệm chữa bệnh đậu mùa, dập được nhiều vụ dịch tiêu biểu như vụ Cụ cứu trăm người dân xã Quảng Nạp huyện Thanh Ba - Phú Thọ do vậy vì cảm ơn đức của Cụ chức sắc và dân làng đã tặng Cụ đôi câu đối chữ Hán:
"Hạc toán tràng sinh, quế tử lan tôn bằng hậu ấm
Long chân đế vượng, kim tinh ngọc kiểm khế linh thuyên"
ý nghĩa:
Tuổi hạc bền lâu, con quế cháu lan nương bóng cả
Lộc tài thịnh vượng, vàng dòng ngọc nén chứa đầy kho

- Những câu đối ghi chép trong tập sách Hán Nôm ở tư gia cụ đồ Nguyễn Tòng Mậu
Nguyễn Tòng Mậu là thầy đồ định cư tại ven sông Cái Cối, xã An Hữu, đối diện đình thần An Hữu - đình Rạch Chanh, tại nhà cụ hiện có 1 tập sách quý. Đó là một tuyển tập gồm nhiều tác phẩm rất đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung. Chữ trong tập sách hoàn toàn là chữ viết tay, phần lớn tương đối dễ đọc vì thống nhất về nét viết, kiểu chữ và phong cách trình bày. Tuy nhiên, khoảng mươi trang về cuối trình bày không ổn định và chữ viết khó đọc, có thể là do người khác viết thêm vào. Trong tập sách này có ghi chép lại 1 số câu đối khá hay như sau:
* Câu đối cháu ngoại khóc ông:
“Nhớ thuở ông còn ông dắt cháu, cháu biết chững; ông nâng cháu, cháu biết cười; nhấc công đức ấy mà cân, nội ngoại hai bề, yêu thương một lòng coi cũng thế.
Bây giờ cháu đến cháu hỏi ông, ông chẳng thưa; cháu tìm ông, ông chẳng thấy; nghĩ cảnh tình này mà ngán, âm dương đôi ngã, nhớ thương chút dạ biết bao nguôi.”
* Câu đối của Trung Bắc và Học báo:
“Hơn mười năm một ngọn bút ngôn đàn, vẫy vùng ngoài bắc trong nam, dốc nhiệt thành gây dựng lối văn ta, công ấy dễ cùng cây cỏ mục.
Trong sáu tháng hai lần tang báo quán, ngao ngán người còn kẻ khuất, mở di thảo ngậm ngùi màu mực cũ, sầu này theo với nước mây xa.”
* Câu đối do ông Nguyễn Mạnh Bỗng điếu ông Phan Kế Bính, ông Bỗng đã trích chọn những sự kiện, công việc, chí hướng, tính cách của ông Phan Kế Bính, sắp đặt chúng trong một cấu tứ huyền diệu của loại câu đối mà viết nên những dòng ca ngợi công lao người đã khuất và bày tỏ tấm lòng kính trọng, nể phục của ông:
“Tình nặng với giang sơn, khi bôn tẩu, khi hô hào, Nam Bắc hai Kỳ, làng báo sinh nhai, mấy độ quốc dân tâm đã mệt.
Công to cùng học giới, nào dịch phiên, nào trước tác, lâm lang mấy bộ, nhà Nho sự nghiệp, ngàn năm văn học sử còn ghi.”
* Câu đối Tết:
“Cũng muốn trồng nêu e quỷ khiếp
Rắp toan nổ pháo sợ trời kinh”
* Câu đối hôn sự:
“Bình giai lão rượu đào dâng rót, vách đề thơ ghi tạc trăm năm
Khay hợp hoan trầu quế bưng mời, sân nổ pháo vui mừng hai họ”

- Câu đối do nhà thơ Lê Khả Sĩ viết tặng nhà thuốc Nguyễn Hữu Toàn ở Hải Phòng
Lương y Nguyễn Hữu Toàn là cháu nội của Y Gia Nguyễn Hữu Hách, được sự đồng ý của cụ Hách và gia đình (sau khi cụ mất), Lương y Nguyễn Hữu Toàn đã thành lập “Phòng khám đông y Nguyễn Hữu Toàn”. Năm 1995, Nguyễn Hữu Toàn đã làm được phần mềm hỗ trợ cho chẩn đoán, điều trị bằng thuốc đông y; quản lý theo dõi bệnh nhân và kiểm chứng hiệu quả chữa bệnh của từng bài thuốc. Sử dụng phần mềm này, thầy thuốc có thể kiểm tra, thống kê kết quả chữa bệnh trong nhiều năm đối với từng loại bệnh, từng bài thuốc vào bất cứ thời gian nào một cách dễ dàng chỉ mất vài chục giây. Năm 2000, Hội Đông y Việt Nam cùng Sở Y tế Hải Phòng, Thành hội đông y Hải Phòng đã thăm quan và biểu dương sáng kiến của chương trình này. Nhà thơ Lê Khả Sĩ có tặng nhà thuốc đôi câu đối nội dung như sau:
Hữu Nghĩa Hữu Tình Để Đức Độ Hoá Niềm Vui Hậu Thế
Toàn Tâm Toàn Ý Lo Yên Lành Cho Sự Sống Nhân Dân

- Những câu đối khắc tại di tích vườn An Hiên thành phố Huế
Di tích vườn An Hiên tọa lạc tại thôn Xuân Hòa, xã Hương Long, ở khu vực tả ngạn sông Hương thuộc ngoại ô thành phố Huế. Nhà rường này nguyên là phủ An Hiên do ông Phạm Đăng Thập xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, Đầu thế kỷ XX, ông Thập để phủ lại cho ông Tùng Lễ về làm giám thủ nhà thờ Đức Quốc Công. Năm 1934 ông Tùng Lễ bán lại cho ông bà Tuần phủ Nguyễn Đình Chi và Đào Thị Xuân Yến. Nằm giữa hai trụ và sát lối ra vào có 2 con dơi sãi cánh nhìn xuống cổng miệng ngậm câu đối bằng chữ Hán khảm sành màu xanh viết trên tàu lá chuối thả dọc theo cổng đọc được như sau:
Bình Sơn ái đãi vân thiên đóa
Hương Thủy trừng ngưng nguyệt nhất huyền
Tạm dịch:
Bình Sơn mờ mịt mây nghìn đóa
Hương Thủy trong veo nguyệt một vầng
Từ cổng chính đi theo con đường đất dài 34m sẽ thấy bức bình phong lớn nằm uốn mình hơi chếch về hướng tây che chắn nhà thờ chính. Mặt ngoài bình phong ở hai bên chữ Thọ có câu đối bằng chữ Hán viết màu sơn đen trên nền đỏ đọc được như sau:
Xuân Thủy liên vân nhạn tân cạnh độ
Hòa phong nhập thụ hoa tín tài văn
Tạm dịch:
Mây rợp sông xuân chập chờ nhạn liệng
Cây vờn gió nhẹ thoang thoảng hoa đơm
Gian giữa nhà thiết bàn thờ phật Thích Ca và bàn thờ gia tiên, hai cột trước gian thờ treo đối diễn chữ chân pha thảo:
Thử chí tại cao sơn lưu thủy
Kỳ nhân như thủy trúc bích ngô
Tạm dịch:
Chí ấy ở non cao nước chảy
Người kia như trúc biếc ngô xanh
Trong gian thờ có bức trướng gấm thêu câu đối:
Hồng Lĩnh nãi Hà Bắc chi hùng, quốc tráng phiên hà tư trọng thọ
Long Cương thi ngộ châu chi thắng, gia liên phiệt duyệt xuất danh thần
Tạm dịch:
Cõi Bắc có Hồng Lĩnh hào hùng, đất nước cõi bờ thêm trọng thọ
Quê ta có Long Cương thắng cảnh, nếp nhà dòng dõi nẩy danh thần

vi.m.wikiquote.org


Buổi chiều rất lạ ngồi bên ghế đá
Nghe gió thở dài gọi tên một người
Có vết đau nào còn hằn trên má
Sóng vỗ miên man tựa tiếng ai cười


Buổi chiều rất lạ nghe tiếng chuông xa
Có tiếng cầu kinh từ những căn nhà
Hoa phượng rỏ máu thấm con đường nhỏ
Chẳng còn tiếng ve khi trời vào hạ

Buổi chiều thật lạ với lắm bôn ba
Ta đợi chờ ai giữa mấy sân ga
Người đã đi qua không lần ngó lại
Trong những chua ngoa mong chút thật thà

Buổi chiều thật lạ phố chẳng còn ai
Trong cơn mộng mị chợt giấc mơ bay
Cây rớt lá vàng mùa thu chưa tới
Có kẻ thẫn thờ nghe những tàn phai

Buổi chiều rất lạ chỉ toàn ghế trống
Bè bạn ra đi biết bao trông ngóng
Có tiếng dương cầm buồn hơn nước mắt
Ta ngồi buồn thiu như người mất bóng

Buổi chiều rất lạ thèm bàn tay ai
Bên khung cửa nhỏ ấm cả bờ vai
Bờ môi không son giờ thành nỗi nhớ
Một khúc bi ca cây ngã đường dài
8.6.2020
DODUYNGOC


Chiều chờ một tiếng gõ cửa
Không có ai chỉ cơn gió trở mình
Đốt thêm một cối thuốc
Bình trà cạn
Dòng nước mỏi mệt chảy trong hồ cá
Ta có hơn gì đâu

Tiếng còi xe vọng lại ở hàng hiên
Thèm một bàn tay
Thiếu một hơi thở
Quá khứ như mới hôm qua giờ đã tắt
Cuộc chia ly đột ngột
Chẳng ngoái đầu nhìn lại

Vẫn còn đó biển sâu và những con ốc nhỏ
Vẫn còn đó tiếng sóng vỗ của ký ức
Ta lún sâu vào cát
Chôn chân ở đấy nhìn mặt trời lặn phía bên kia
Có tà áo nào bay chấp chới
Màu áo của hôm qua
Gắn chặt với nụ cười

Chiều vỡ vụn của tiếng ly vỡ
Ngột ngạt máu chảy
Thời gian ăn mòn thịt da
Những đoá hoa rực rỡ như cuộc tình một thời
Màu hoa và máu đỏ
Cũng héo mòn theo bóng chim

Sông chẳng còn chảy và rừng đã cháy
Một mình với giường chiếu lạnh
Soi gương thêm tóc bạc
Ai gõ nhịp đời ta
Những bậc thang đi lên đi xuống
Không còn ai để chờ
Ta nằm ngửa nhìn trần nhà
Nghe máu chạy dưới da

Người mang đến tuyệt vọng
Chín trong ý nghĩ
Và người đi
Để lại nỗi đau đầy dấu vết
Mây quằn quại giữa hoang vu
Chẳng còn ai để tin
Chiều gục trên vai đầy gai nhọn
Con chim thổ huyết hót tiếng cuối cùng
Đêm bùng vỡ.
22.5.2020
DODUYNGOC

Nghe lại bài hát cũ



Mười một năm rồi không có Mạ

Giữa đời thui thủi một mình con

Đêm nay thắp nén nhang nhớ Mạ

Con ngỡ quanh đây Mạ vẫn còn


Mạ ơi cho con nắm bàn tay

Cho con ôm Mạ tấm thân đầy

Cho con được khóc trên vai Mạ

Được thấy trên môi Mạ mỉm cười


Mạ ơi con nhớ cơm Mạ nấu

Cá kho canh mít đọng đến giờ

Những giọt mồ hôi bên bếp lửa

Gần hết cuộc đời vẫn cứ mơ


Con nhìn ảnh Mạ giữa khói nhang

Gió thổi hàng hiên đêm sắp tàn

Đêm nay con thức vì nhớ Mạ

Nhà trống buồn đâu đứng xếp hàng


Mười một năm rồi không có Mạ

Chỉ còn di ảnh giữa bông hoa

Tưởng chỉ âm thầm rơi nước mắt

Tủi thân cô lẻ chợt khóc oà

10.5.2020

DODUYNGOC


Ta đi về lại con đường cũ
Dưới cầu con nước vẫn trôi xuôi
Bốn lăm năm vụt qua như mộng
Nhớ ngón tay ai bỗng ngậm ngùi


Tháng tư mặt đất như lò lửa
Tóc chẳng còn xanh mắt chớm mờ
Ký ức bềnh bồng đầy hơi thở
Cờ dựng hai hàng giết giấc mơ

Tháng tư còn đó vết dao đâm
Cha mẹ người thân lạnh chỗ nằm
Đã bốn lăm năm ngồi ngó lại
Cúi mặt buồn hiu lệ chảy thầm

Bốn lăm năm cây đời héo rũ
Suốt đường đi nhớ hoài chuyện cũ
Ngực miệt mài ủ mãi vết thương
Giữa chợ chiều thân không áo mũ

Tháng tư này ta chẳng còn nhau
Tiếng kinh buồn đâu xoá đớn đau
Con chim thống thiết kêu đầu ngõ
Thiên thu chờ đẩy đời qua mau

Tháng tư về trên dãy mồ hoang
Những mộ bia chẳng được thẳng hàng
Bao nhiêu xương cốt vùi trong đất
Suốt tháng năm dài thiếu nén nhang

Ta biết đi đâu, người về đâu?
Bốn lăm năm bao cuộc bể dâu
Đứng ở chân trời thương góc biển
Cuối đời trằn trọc suốt đêm thâu

Bốn lăm năm rồi ta trở lại
Muộn phiền đeo đẳng mãi trên lưng
Đi qua vườn cũ nghe lá thở
Bỗng nhớ dáng ai nhớ quá chừng
30.4.2020
DODUYNGOC

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget