Latest Post


Ngày 21.7 vừa qua, tổ chức Kỷ lục Guinness thế giới đã đến Việt Nam để xác lập kỷ lục Tô phở bò ăn liền lớn nhất thế giới. Tô phở “khủng” này có đường kính 2,1m, nặng hơn 1,3 tấn, các nguyên liệu gồm 1.963 vắt phở bò ăn liền; 1200 lít nước dùng phở; 100 kg thịt bò organic; 22 kg gia vị phở; 8 kg dầu phở bò.

Trước đó vào tháng 5.2018, một chảo cơm chiên lớn nhất Việt Nam có đường kính 3m và dày 5mm, chiều cao 0,4m, nặng khoảng 300kg với quá trình chế biến diễn ra trong vòng 2 giờ, do 20 đầu bếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của Vua đầu bếp Thanh Cường.

Dịp Giỗ Tổ Hùng Vương 2017 (10.3 Âm lịch), bên cạnh nhiều sản vật từ phương Nam, Công viên Văn hóa Đầm Sen (Sài Gòn) làm chiếc bánh chưng nặng 2,5 tấn để dâng lễ và thiết đãi khoảng 1.000 du khách tham quan tại công viên dịp này. Đây là 1 trong những chiếc bánh chưng có khối lượng khủng nhất Việt Nam.

Năm 2014, chiếc bánh chưng có kích thước 2,5mx2,5mx80cm, khối lượng nặng 5,7 tấn gói tại đền Quốc Mẫu Âu Cơ, xã Hùng Cường, Kim Động, Hưng Yên đã được tổ chức kỷ lục Việt Nam xác nhận là chiếc bánh chưng lớn nhất cả nước.

Chiếc bánh khoái có chu vi hơn 9m, nặng 200 kg với 20 kg bột, 5 kg thịt, 5 kg tôm nõn, 5 kg chả lụa, 120 quả trứng, 82 kg rau. Các đầu bếp Huế mất 2 tiếng để làm bánh.

Ngày 1.5.2018, tại TP Đà Nẵng, chiếc Bánh Xèo lớn nhất Việt Nam được chế biến với sự tham gia của gần 1.000 thanh niên công nhân.
Chiếc bánh xèo kỷ lục được làm từ khoảng 139 kg bột gạo xay, 50 kg tôm đất, 50 kg thịt heo, 100 kg tôm hùm,… và khi hoàn thành có đường kính lên đến 3,68m. Tuy được phóng lớn nhưng chiếc bánh xèo này vẫn giữ nguyên thành phần nguyên liệu, hương vị, nhờ việc chọn lựa kỹ càng nguồn nguyên liệu sạch từ những làng nghề truyền thống lâu đời xứ Quảng như: Rau sống từ làng rau Trà Quế, gạo Phong Thử, hải sản Cù Lao Chàm, bánh tráng Đại Lộc…

Bánh xôi chiên phồng ghi tên vào kỷ lục Việt Nam với chu vi bánh 187cm, đường kính 59,5cm và chiều cao 41,5cm.

Cây chả quế có đường kính 1,2 m, dài 2,5 m, sau khi nướng nặng 310 kg. 40 người thợ đã dùng 240 kg thịt lợn nạc, 60 kg thịt mỡ, 30 kg gia vị để làm ra cây chả quế này.

Tô mỳ Quảng Phú Chiêm này phục vụ cho 600 người ăn với các nguyên liệu: 105 kg mì Quảng, nước nhân gồm 18kg thịt ba chỉ, 25 kg tôm đất, 5kg cua đồng, rau sống được lấy từ làng rau Trà Quế,…

Đĩa bê thui Cầu Mống có đường kính 4,5m, cao 0,65m, phần đế 0,05m và được khảm sành cổ thời nhà Nguyễn. Nguyên liệu để thực hiện món ăn này là: bê thui, mắm nêm, các loại rau gia vị đi kèm.

Tô mì Quảng làm từ 10 con gà, 50 kg mì dành cho 250 người ăn.
Các đầu bếp đã phải mất hơn 4 giờ để chế biến.

Những cái kỷ lục này chỉ càng cho thấy người Việt hôm nay mang cái bệnh huyênh hoang khoe khoang những cái chẳng mang lại cái tích sự gì. Người ta khoe những sáng tạo có ích cho đời sống, những phát minh có lợi cho nhân loại, những thành tích khác người, những khả năng phi thường do rèn luyện mà có. Đó là những kỷ lục đáng tự hào. Thế giới cũng có những kỷ lục tào lao, không giống ai nhưng thường là do cá nhân và họ không là đại diện cho quốc gia.

Nước ta nên dẹp những thứ kỷ lục mà ai cũng làm được khi họ muốn làm này đi. Đã gọi kỷ lục là phải độc đáo không ai có, không ai bắt chước được. Chứ ba cái tào lao này, bất cứ ai có nguyên liệu thì đều làm được lại mang tiếng kỷ lục thế giới thì nghe có hơi buồn cười và phung phí không đúng chỗ.

Trong ngôn ngữ giao tiếp và hành chính của người Việt chúng ta hiện nay, nhiều từ đã bị sử dụng không chính xác, bị biến nghĩa hoặc ghép từ một cách kệch cỡm. Điều này thể hiện tư duy tạm bợ và tinh thần thiếu trách nhiệm trong sử dụng ngôn từ. Việc đưa ra những khái niệm không chính xác này tạo thành một thói quen chấp nhận sự mù mờ trong định nghĩa từ, dễ gây hiểu lầm và tranh cãi, khiến cho văn bản kém tính chính xác. Đây là một bài chúng tôi sưu tầm, liệt kê các trường hợp sử dụng từ sai trong tiếng Việt hiện nay.
1.- Sai vì không hiểu nghĩa gốc Hán Việt.
CHUNG CƯ. Từ kép nầy được thành lập theo văn phạm Hán Việt ví tính từ đứng trước danh từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ chung Hán việt không có nghĩa là chung chạ mà có nghĩa là cuối cùng. Vậy chung cư 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở cuối cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ chung cư thành chúng cư 衆居 thì mới ổn.
KHẢ NĂNG. “Khả năng” 可 能 là năng lực của con người, có thể làm được việc gì đó. Thế mà người ta đã viết và nói những câu đại loại thế nầy: Hôm nay, khả năng trời không mưa. Khả năng con bò nầy sẽ chết vì bị bệnh… Nghe thực là kỳ cục và đáng xấu hổ. Tôi cho rằng, người ta đã nhầm lẫn giữa hai từ khả năng 可 能 (capacité, capable) với khả dĩ 可 以 (possibilité, possible). Nhưng thôi, chúng ta nên dùng từ thuần Việt là có thể, đúng và dễ hiểu, còn từ khả năng chỉ nên dùng để nói về năng lực mà con người mà thôi.
QUÁ TRÌNH. Quá 過 là đã qua, trình 程 là đoạn đường. Quá trình là đọan đường đã đi qua. Nói thế nầy là đúng: “Quá trình thực hiện công việc đã gặp nhiều trở ngại. Nhưng tôi lại thấy trong sách báo câu đại loại thế nầy: “Quá trình thực hiện công tác sắp tới của tôi là sẽ rất thuận lợi”.Thực là sai lắm rồi. Trong trường hợp nầy, phải dùng chữ tiến trình, đúng cho cả 3 thì quá khứ, hiện tại và tương lai.
HUYỀN THOẠI. Người viết, kể cả những người có bằng cấp cao, không chịu học tiếng Hán, mà lại thích dùng tiếng Hán để tỏ ra “ta đây” nên nhiều tiếng được dùng sai nghĩa một cách thực buồn cười. Thí dụ, tôi rất thường nghe đài truyền hình, truyền thanh và báo chí nói “huyền thoại Pelé” “huyền thoại Maradona”.. Người có học nghe thực chướng tai, nhưng người nói chẳng ngượng miệng chút nào. Tại sao nghe chướng tai? Huyền 玄 là màu đen, nghĩa bóng là sâu xa, mờ ảo, không có thực. Thoại 話 là câu chuyện. Vậy huyền thoại là câu chuyện mờ mờ ảo ảo, không có thực, do truyền miệng mà ra. Thí dụ chuyện bà Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, chuyện ông Thánh Gióng cỡi ngựa sắt đi đánh giặc Ân là những huyền thoại. Đằng nầy, ông Maradona, ông Pélé có thiệt 100% sao gọi là huyền. Và 2 cầu thủ đó là con người sao gọi là thoại được. Nếu muốn dùng chữ huyền thoại để đề cao 2 cầu thủ đó thì phải nói thế nầy: “Cái tài của 2 ông nầy tưởng như chỉ có trong huyền thoại”. Ông bà mình thường nói: “Dốt thì hay nói chữ, có đúng trong trường hợp nầy hay không?”
HÔN PHU, HÔN THÊ. Hôn là cưới, phu là chồng, thê là vợ. Trong chữ phu và chữ thê đã có nghĩa của chữ hôn rồi cho nên gọi hôn phu và hôn thê là để chỉ người chồng người vợ là phi lý. Gọi hôn lễ (lễ cưới) hôn phối (lấy nhau) thì được. Còn nói hôn phu, hôn thê thì có thể hiểu 昬夫,昬妻 là nguời chồng u mê, người vợ u mê cũng như nói hôn quân 昬君 là nhà vua u mê vậy.
2.- Sai vì cố ý sửa nghĩa gốc Hán Việt
ĐỘC LẬP Độc 獨 là riêng một mình, Lập 立 là đứng. Vậy theo nghĩa gốc Hán Việt, độc lập là đứng riêng rẻ một mình, không đứng chung với ai cả. Rõ ràng từ nầy là sai nếu dùng để diễn tả tình trạng của một quốc gia không lệ thuộc nước khác. Ngày nay, các quốc gia như thế đâu có đứng riêng một mình mà đều có liên hệ với nhau trong các tổ chức quốc tế. Vậy từ độc lập là sai. Tôi thấy Cụ Trần Trọng Kim, Cụ Dương Quảng Hàm dùng từ tự chủ để thay thế từ độc lập. Như thế là rất hay. Có người bảo với tôi rằng từ độc lập là do ông Tôn Dật Tiên đặt ra nên không thể bỏ được. Tại sao vậy? Ông Tôn Dật Tiên thì liên quan đến ngôn của Tàu chứ có liên quan gì đến ngôn ngữ Việt Nam. Tàu dùng sai thì chúng ta đâu có buộc phải theo cái sai của họ.
PHONG KIẾN.封建 Phong kiến gồm 2 chữ phong tước 封爵 (ban quan tước) và kiến địa 建地 (ban đất để dựng nước). Phong kiến chỉ chế độ hoàng đế phong tước cho người có công và cấp cho một vùng đất rất rộng để thành lập quốc gia, với quân đội, luật lệ và chế độ thuế má riêng biệt. Chế độ nầy hiện hữu ở đời nhà Chu bên Tàu với nước của thiên tử và nước của các chư hầu; từ nhà Tần trở đi thì chế độ phong kiến bị bị bãi bỏ và được thay bằng chế độ trung ương tập quyền. Chế độ phong kiến cũng tồn tại ở vài nước Âu châu như Pháp, chỉ vào thời Trung cổ mà thôi. Ở Việt Nam không bao giờ có chế độ phong kiến (féodalité) mà chỉ có chế độ quân chủ chuyên chế (royalisme absolu) mà thôi. Gọi chế độ quân chủ ở Việt Nam bằng từ phong kiến là sai. Có tài liệu còn bảo rằng sự cúng tế đình chùa là tàn tích của phong kiến thì càng sai hơn nữa.
TIÊU CỰC, TÍCH CỰC 消極, 積極 Hiện nay, người ta gán vào hai từ nầy ý nghĩa tốt xấu hết sức rõ rệt. Hành động nào tốt thì được gọi là tích cực; trái lại, hành động xấu thì gọi là tiêu cực. Thực ra, suy từ nghĩa gốc Hán Việt thì sự gán ép như thế là sai. Tich cực, tiêu cực tự nó không có sẵn tính chất tốt hay xấu mà chỉ ấn định cường độ của hành động mà thôi. Thí dụ, trong một đoàn đi làm việc phước thiện thì ai tích cực là tốt và ai tiêu cực là không tốt. Nhưng trong một bọn côn đồ đi tổ chức ăn cướp thì đứa nào tích cực lại là đứa xấu nhất. Trong truyện Tam quốc của Tàu, Từ Thứ, mưu sĩ của Lưu Bị bắt buộc phải về phục vụ dưới trướng của kẻ thù là Tào Tháo. Từ Thứ đã giữ thái độ tiêu cực nghĩa là không hiến mưu kế gì cho Tào Tháo. Thái độ tiêu cực nầy của Từ Thứ, từ cổ chí kim luôn luôn được khen ngợi; vậy tiêu cực có xấu đâu.
3.- Sai vì không phân biệt được tiếng Hán Việt với tiếng thuần Việt (tiếng Nôm).
QUỐC GIỖ. Tôi có đọc được câu nầy: “Ngày giỗ tổ Hùng vương là ngày quốc giỗ”. Nói như vậy là sai. Giỗ là tiếng Nôm chứ không phải là tiếng Hán Việt nên không thể đặt sau tiếng quốc được. Hãy bỏ tiếng ngày quốc giố mà dùng tiếng thuần Việt là ngày giỗ cả nước, vừa đúng, lại vừa dễ hiểu, Nơi tiếng Hán, ngày giỗ là kỵ nhật 忌日.Ở một vài tỉnh của Trung Việt, người ta gọi ngày giỗ là ngày kỵ. Ta nên dứt khoát chỉ dùng từ Nôm là ngày giỗ để cho thống nhất toàn quốc.
GÓA PHỤ. Tôi đã gặp vài lần chữ góa phụ trong sách vở báo chí để chỉ người đàn bà có chồng đã chết. Gọi như thế là sai vì tính từ góa là tiếng Nôm, không thể đặt trước danh từ phụ được. Phải gọi người đàn bà góa (toàn Nôm) hay người quả phụ (toàn Hán Việt) thì mới đúng.
ĐỆ NHẤT THÁC. Ở ngõ đi vào của một địa điểm du lịch, có hàng chữ to tướng dùng để quảng cáo “Nơi đây có đệ nhất thác”. Viết như thế là sai. Đặt 2 chữ đệ nhất (tiếng thêm nghĩa) trước chữ thác (tiếng chính), là theo văn phạm Hán Việt thì cả hai chữ đều phải là tiếng Hán Việt mới được. Ở đây, tiếng thác là thuần Nôm, thế là bậy rồi. Không có` tiếng Hán Việt nào có nghĩa thác nước. Thác theo tiếng Hán là bộc bố 瀑 布, nhưng đó lại là tiếng Hán thuần túy nghĩa là chưa được Việt hóa thành tiếng Hán Việt nên chưa thể dùng được. Trong trường hợp nầy, nên viết “Nơi đây có thác đẹp nhất”, vừa đúng, vừa dễ hiểu lại vừa hấp dẫn khách du lịch.
4.- Sai vì không phân biệt được văn phạm Hán Việt với văn phạm Nôm.
X QUANG. Mỗi lần có chuyện phải vào bệnh viện là tôi rất khó chịu khi nhìn thấy cái bảng “Phòng X quang” Tôi khó chịu vì cái chữ X quang nầy phạm đến 2 lỗi. Một là lỗi về ngữ pháp và một lỗi vể kiến thức khoa học. Về ngữ pháp, quang là tiếng chính, X là tiếng bổ nghĩa. Đặt tiếng bổ nghĩa trước tiếng chính thì đích thị sử dụng văn phạm Hán Việt rồi. Mà muốn dùng lối văn phạm nầy thì cả 2 chữ đều phải là tiếng Hán Việt. Ở đây X là một mẫu tự latin thì sai quá đi rồi. Về khoa học, quang 光 có nghĩa là sáng, ở đây chỉ tia sáng. Tia sáng là tia kích thích được tế bào thị giác để tạo ra ấn tượng sáng. Trong chuỗi sóng điện từ, các tia nầy chỉ chiếm một khoảng rất nhỏ bé với độ dài sóng từ 400 nano mét đến gần 800 nano mét mà thôi. Trong khi đó, tia X (với độ dài sóng từ 0,1 đến 10 nano mét) cách tia sáng khá xa, không kích thích được tế bào thị giác thì chắc chăn không phải là tia sáng rồi. Cho nên dùng chữ QUANG cho tia X là sai be bét về vật lý sơ đẳng của lớp 12 trung học. Tôi chẳng hiểu ông “đại giáo sư tiến sĩ” nào đã bày ra cái tên X QUANG đó. Tại sao không dùng chữ “TIA X” như trước đây ở miền Nam, vừa hay, vừa đúng, vừa đại chúng, vừa thuần túy Việt Nam. Không lẽ người ta muốn dùng chữ “X QUANG” để chứng tỏ ta đây biết “nói chữ” hay sao?
BÊ TÔNG HÓA con đường. Bê tông là từ phụ, hóa là từ chính. Đây cũng là văn phạm Hán Việt. Để thành lập từ kép thì cả 2 từ đơn đều phải tiếng Hán Việt. Ở đây bê tông lại là tiếng Pháp (béton) phiên âm ra, do đó nói bê tông hóa là sai. Ngoài ra, nghĩa cũng sai vì từ bê tông hóa được dùng phải được hiểu là con đường đà được biến hóa thành một khối bê tông. Vì vậy, không nên nói bê tông hóa mà nói một cách bình thường: tráng bê tông con đường, vừa đúng lại vừa dễ hiểu.
Còn một lô HÓA rất bậy bạ trong sách vở báo chi, trong chương trình truyền thanh, truyền hình như : nghèo hóa, giàu hóa, no hóa, đói hóa, khôn hóa, dại hóa, vân vân. Tội nghiệp cho ngôn ngữ Việt Nam!
NỮ NHÀ BÁO Tôi còn nhớ, trong chiến tranh I rắc, sau khi lính Mỹ bắn nhầm nhân viên tình báo của Ý bảo vệ người nữ phóng viên vừa được bọn bắt cóc trả tự do, các đài truyền hình ở Việt Nam loan tin nhiều lần và nhắc đi nhắc lại nhóm từ nữ nhà báo. Thực là quá tệ! Nhà báo là tiếng Nôm nên phải dùng văn phạm xuôi và phải nói “nhà báo nữ” Còn muốn dùng văn phạm ngược thì phải dùng 3 từ Hán Việt: “nữ phóng viên” hay “nữ ký giả”. Ban biên tập các đài truyền hình không biết điều nầy sao?
TRIỀU CƯỜNG. Từ lâu rồi, tôi thấy xuất hiện rất thường xuyên hai từ triều cường khi người ta nói đến thủy triều trên song.. Hai chữ nầy có thể thay đổi vị trí trước sau và có hai ý nghĩa khác nhau. Cường triều 強 潮 gồm tính từ đứng trước danh từ thì tương đương với một danh từ và có nghĩa là con nước lớn (haute marée). Triều cường 潮 強 thì lại là một mệnh đề gồm một danh từ triều và một động từ cương và có nghĩa là con nước đang lớn lên (la marée monte). Lúc nào cũng dùng chữ triều cường thì có thể sai hơn phân nửa trường hợp rồi. Nhưng tại sao không nói con nước lớn (danh từ) và con nước đang lên (mệnh đề) vừa đúng lại vừa phù hợp với trình độ và thói quen của đại chúng.
HẠT NHÂN. Đây là từ vật lý học chỉ các hiện tượng xảy ra bên trong cái lõi hay cái nhân của nguyên tử. Miền Nam trước đây gọi là hạch tâm. Hạch 核 là cái hạt, tâm 心 là cái lõi hay cái nhân bên trong . Hạch tâm là cái nhân của hạt. Đó là từ ghép theo văn phạm Hán Việt vì cả 2 từ đều là Hán Việt. Bây giờ người ta chuyển sang dùng 2 từ Nôm thì phải theo văn phạm nôm và phải gọi là “nhân của hạt” hay nhân hạt, cũng như bên ngoài gọi “vỏ hạt” chứ không thể gọi là “hạt vỏ” được. Gọi phản ứng hạt nhân, là sai với văn phạm rồi. Cần phải sửa lại: phản ứng nhân hạt mới đúng. Tuy nhiên, theo tôi, nên giữ từ phản ứng hạch tâm thì hay hơn nhiều. Từ nầy không phải là từ của giới bình dân nên cứ giữ tiếng Hán Việt, không cần chuyển sang tiếng Nôm.
TẶC. Từ Hán Việt nầy đang được dùng một cách rất bậy bạ và rất thường xuyên như bọn tôm tặc, vàng tặc, cà phê tặc, để chỉ những tên ăn trộm. Dùng như thế là phạm vào 2 điều sai. Thứ nhất là sai về ngữ pháp: một từ đơn thuần Việt không thể ghép với một từ đơn Hán Việt để thành một từ kép. Thứ hai là sai về nghĩa. Tặc 賊có nghĩa là ăn cướp, đạo 盜 mới có nghĩa là ăn trộm, thí dụ đạo văn 盜文 là ăn trộm văn của người khác. Tại sao người ta không nói một cách giản dị và đúng là: bọn trộm tôm, trộm vàng, trộm cà phê. . . Cũng cần nói thêm về một từ đang được nhiều báo đem dùng. Đó là từ đinh tặc để chỉ bọn rải đinh trên đường phố. Đinh là một từ có gốc Hán Việt 釘 nhưng đã được Việt hóa hoàn toàn rồi nên ghép với từ tặc thì không ổn. Vả lại, nói đinh tặc là sai nghĩa vì từ đó có nghĩa là bọn ăn cướp đinh; thôi bỏ từ đó đi và nên nói một cách giản dị là “bọn rải đinh” thì hơn.
Còn vô số những từ sai khác cùng nguyên nhân trên đây như:
Lớp trưởng, phải sửa lại trưởng lớp,
Nhóm trưởng, phải sửa lại trưởng nhóm
Siêu rẻ, phải sửa lại rất rẻ
Siêu bền, phải sửa lại rất bên
Vi sóng, phải sửa lại vi ba hay sóng ngắn
Vân vân…
5.- Dùng từ vô nghĩa
Bệnh viện DA LIỄU. Lần đầu tiên, thấy bảng chữ nầy, thú thật tôi không hiểu là cái gì. Sau hỏi người bạn bác sĩ mới biết đó là “nhà thương chữa bịnh ngoài da và bệnh hoa liễu”. Trời đất! Da là từ thuần Việt. Hoa liễu là từ Hán Việt, sao lại nhập chung một cách kỳ cục như thế. Xét về nguồn gốc, chữ Hán Hoa liễu 花柳 có nghĩa là ổ điếm chứ không phải là một bịnh. Về sau, người ta dùng nhóm từ kép “bịnh hoa liễu” để chỉ cái bịnh lây qua đường tình dục cho những người hay lui tới các hoa liễu. Dùng riêng chữ hoa liễu cho một bịnh đã là sai rồi. Bỏ luôn chữ hoa, chỉ còn chữ liễu thôi thì càng tệ hơn nữa. Riêng chữ liễu 柳 thì có nghĩa là cây liễu. Bệnh viện da liễu tức là bệnh viện chuyên chữa cho bịnh ở da của cây liễu !!!
ĐẠI TRÀ. Tôi nhớ sau năm 1975, một người bạn dạy sử địa kể rằng, lần đầu tiên đọc sách giáo khoa từ miền Bắc đưa vào gặp câu: “Cây chè được trồng đại trà ở vùng nầy”. Anh ta hơi hoảng vì dạy sử địa bao năm mà bây giờ không hiểu đại trà là gì. Đại là lớn, còn trà là gì? Anh về lật nhiều tự điển kể cả tự điển Hán Việt ra tra thì chẳng thấy chữ đại trà ở đâu cả. Hỏi thăm mãi anh mới rõ trồng đại trà là trồng rộng rãi khắp nơi. Có lẽ ai đó nổi hứng bịa ra từ vô nghĩa đó để thay thế từ dễ hiểu và có sẵn, rồi sau đó những người khác bắt chước nói theo. Ngôn ngữ mà biến chuyển như thế thì cũng đáng buồn.
SỰ CỐ. Lại một từ vô nghĩa nữa nhưng đang được dùng một cách rộng rãi để chỉ một sự rắc rối vừa mới xảy ra. Trong tiếng tiếng Hán Việt có từ kép cố sự 故事 có nghĩa là chuyện cũ chứ làm gì có từ sự cố. Cái nghĩa mà hiện nay người ta gán cho từ vô nghĩa đó thực là lạ lùng, không thể chấp nhận được.
HOÀN CẢNH. Trong một bài báo, người ta viết: “Cô ây sống hoàn cảnh lắm”. Đố các bạn biết người ta muốn nói gì? Xin thưa, muốn nói “Cô ấy đang sống trong hoàn cảnh bi thảm”!!! Các bạn có chịu nổi với cách viết văn như thế đó không ?
ĐÔI CÔNG. Kể từ giải túc cầu thế giới tại Nam Phi, đài truyền hình ở Việt Nam bịa ra một từ mới, đó là từ đôi công và rất thường được lặp đi lặp lại. Theo dõi nhiều trận, tôi mới hiểu ý của các ông trời đó muốn nói: 2 đội chơi đôi công nghĩa là cả 2 đội đều chơi tấn công. Đôi là một cặp (tiếng Nôm), công là tấn công (tiếng Hán Việt). Vậy đôi công là một từ bậy bạ do người kém hiểu biết bịa ra mà hiệu quả rõ ràng là làm xấu đi ngôn ngữ của dân tộc mình. Có người nghĩ rằng, cứ bịa ra những từ mới là làm giàu cho ngôn ngữ. Quan niệm như thế là sai; cũng như muốn làm giàu thì kiếm được thực sự nhiều tiền chức không phải cứ nhét vào tủ các thứ giấy tờ bậy bạ mà gọi làm giàu được.
XÂY DỰNG. “Anh Hai tôi quyết định xây dựng với người yêu của mình” Các bạn đừng tưởng rằng 2 người quyết định đi xây nhà để ở nhé. Không, 2 người quyết định làm đám cưới dó. Viết văn như thế thì hết chỗ để phê bình rồi.
6.- Dùng sai nghĩa từ thuần Việt.
NGƯỠNG. Người ít học cũng biết ngưỡng là một giới hạn rất xác định, một gạch ngang rõ nét, và bước qua vạch ngang đó thì mọi việc sẽ thay đổi một cách căn bản. Thí dụ, ngưỡng cửa là một đường ngang, bên trong là phòng, bên ngoài là sân hay mái hiên chứ không còn là phòng nữa. Một thí dụ khác: khi lượng glucose trong máu tăng lên và vượt qua ngưỡng 1% thì đường thoát ra ngoài theo nước tiểu, còn dưới cái ngưỡng đó thì không hề gì. Ngưỡng có nghĩa rõ ràng như thế và học sinh nào cũng biết. Thế mà mổi đêm, trong mục dự báo thời tiết, xướng ngôn viên cứ lải nhải; nhiệt độ đạt ngưỡng từ 32 đô đến 35 độ. Nghe chịu hết nổi. Tôi không trách người xướng ngôn vì bản tin không phải do người xướng ngôn viết mà do các đấng đại trí thức trong ban biên tập viết nên.
KIÊU NGẠO. Có người nhờ tôi giải thích một câu nói trong sách báo nào đó :”Thằng A hay kiêu ngạo người khác.” Tôi không giải thích được vì không rõ câu nầy có nghĩa: “thằng A thường tỏ ra kiêu căng với người khác”, hay là “thằng A thường chế nhạo người khác”. Chắc chắn cả 2 cách giải thích đều không ổn vì dùng từ kiêu ngạo như thế là sai rồi thì không thể có cách nào giải thích câu nói cho đúng được.
TRAO ĐỔI. Từ nầy có nghĩa là đưa qua đưa lại các vật với nhau. Ngày nay người ta lại dùng từ nầy một cách sai lầm để thay thế cho từ bàn bạc hay thảo luận. Thí dụ: “Để thực hiện chỉ thị, tôi đã trao đổi với đồng chí chủ tịch”
7.- Dùng từ thiếu chính xác
CHẤT LƯỢNG. Chất 質là cái khối chứa bên trong một vật (matière,) lượng 量là tính chất của cái gì có thể cân đo đếm được (quantité). Vậy chất lượng hay khối lượng là cái chất bên trong của một vật có thể đo lường được ( masse). Thí dụ: “khối lượng hay chất lượng của một vất là 1 kilo gramme”. Thế mà ngày nay người ta dung từ chất lượng để chỉ cái tính tốt xấu của một vật, không thể đo đếm được (qualité). Thí dụ: “Chất lượng của nước giải khát nầy kém lắm, uống không ngon má cò có hại cho sức khỏe nữa”.
CẢM GIÁC. 感覺 Đó là sự nhận biết của cơ thể do ngoại giới tác động vào các giác quan của cơ thể. Thí dụ: “Gió về khuya gây cảm giác lạnh. Tiếng đàn gây cảm giác êm đềm”. Ngày nay, người ta thường dùng từ cảm giác thay cho từ cảm nghĩ. Thí dụ: ‘Với tình hình nầy, anh có cảm giác thế nào?”. Thực là sai một cách trầm trọng.
THỐNG NHẤT. Thống nhất 統一 là làm biến mất tình trạng chia rẻ bắng cách gom các thứ về một mối. Ngày nay người ta lại thường dùng từ thống nhất để diễn tả sự đồng ý, cùng chung quan điểm. Thí dụ, người ta đã nói: “Để thực hiện tốt chỉ thị, tôi cần thống nhất đồng chí chủ tịch”. Nói như vậy là sai.
GIẢI PHÓNG . Giải phóng 解放 là một từ thường dùng trong lĩnh vực chính trị để chi công cuộc cởi bỏ áp bức, trói buộc cho con người. Ngày nay, người ta lại dùng một cách sai lầm từ nầy cho vật chất. Thí dụ: người ta nói giải phóng mặt bằng thay cho từ đúng là giải tỏa mặt bằng.
ĐĂNG KÝ. Đăng ký 登記 là chép vào sổ một vật được đưa đến. Thế mà ngày, người ta nói: “Tôi đã đăng ký đi nước ngoài” Nghe như người ta sẽ gói tôi lại rồi đem gởi ra nước ngoài. Với con người, không thể nói đăng ký mà phải nói: ghi danh hay ghi tên mới đúng.
8.- Từ vựng lộn xộn.
LÁI XE. Đó rõ ràng là một động từ, hay đúng hơn là một từ kép gồm một động từ và một túc từ. Tuy nhiên, ngày nay người ta cũng dùng từ nầy để chỉ người lái xe, tức là danh từ. Vì vậy, người ta có thể nói: “Sáng nay, lái xe đang lái xe gặp một lái xe khác cũng lái xe, cả hai lái xe cùng lái xe về nhà.” Thực là buồn cười. Trước đây ở miền Nam, lái xe dứt khoát chỉ là động từ, còn danh từ phải là người lái xe hay muốn nói gọn hơn thì dùng từ phiên âm Quảng Đông (?), tài xế cũng được rõ ràng minh bạch.
YÊU CẦU. Đây là một động từ. Thí dụ: “Tôi yêu cầu anh đi ngay”. Sau 75, tôi gặp ngay trong giáo án (tài liệu chính thức để dạy học) 2 chữ: mục đích và yêu cầu. Động từ yêu cầu đã biến hẳn thành danh từ.
NGHIÊN CỨU SINH. Sinh 生 là tiếng Hán Việt. Dùng làm động từ thì sinh có nghĩa là sống, còn dùng làm danh từ thì sinh có nghĩa là con người đang sống. Thí dụ học sinh là người đi học, giáo sinh là người đi dạy. Nguyên cứu sinh là người đi nghiên cứu. Rõ ràng như vậy, thế mà tôi đã nghe người ta nói và đã thấy người ta viết những câu như “Con tôi được đi nghiên cứu sinh tại Trung quốc” Như thế là nói bậy vì lấy một danh từ làm động từ!
ẤN TƯỢNG. Theo cụ Đào Duy Anh, ấn tượng 印象(impression) là cái hình tượng do ngũ quan cảm xúc mà còn in sâu vào óc. Vậy ấn thượng là một danh từ của tâm lý học. Thế mà ngày nay người ta đem dùng làm tính từ như “cảnh đó rất ấn tượng”, và cả động từ nữa, như “tôi rất ấn tượng cảnh đó”. Hết sức bậy bạ
THẦN TƯỢNG. 神像 Từ nầy có nghĩa là hình tượng cao quý như thần. Vậy đây là danh từ nhưng, cũng như chữ trên đây, thần tượng được dùng như tính từ như “người đó rất thần tượng”, rồi cả động từ nữa “anh có thần tượng đồng chí đó không?”
TRÊN. Rõ ràng đây là một giới từ, bây giờ lại trở thành danh từ. Thí dự: “Cần phải báo cáo cho trên rõ” hay “trên bảo, dưới không nghe”.
LÀM TỐT. Tốt là một tính từ bổ túc nghĩa cho danh từ, như hạnh kiểm tốt, sức khỏe tốt. Ngày nay tốt được dùng làm trạng từ bổ túc nghĩa cho động từ, như làm tốt, học tốt, thay vi nói làm giỏi, học giỏi.
LÃNH ĐẠO. Tôi không tìm thấy chữ nầy trong các tự điển Hán Việt nhưng lại có trong tự điển của Tàu hiện nay 领导 và có nghĩa là điều khiển, hướng dẫn con đường đi. Vậy rõ ràng đây là một động từ. Tuy nhiên ngày nay người ta lại dùng làm danh từ. Thí dụ: “Lãnh đạo đã chỉ thị như thế”
Sự rối loạn về từ vựng trong ngôn ngữ thực là điều rất đáng tiếc. Từ đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của tiếng Pháp, ngôn ngữ Việt Nam dần dần được minh bạch về từ vựng nên trở nên sáng sủa và rõ nghĩa, nay có biểu hiện rối rắm về từ vựng và trở nên tối tăm, có lẽ do mấy ông đi học bên Tàu về. Tiếng Tàu thì rất lôi thôi về từ vựng, ai cũng rõ điều đó.
9.- Cóp tiếng Tàu đang dùng.
LƯU BAN. Học sinh kém quá không được lên lớp thì gọi là lưu ban. Trong tiếng Tàu hiện nay, ban 班 là lớp học nhưng với tiếng Hán Việt (gốc từ tiếng Tàu đời Đường) thì ban không phải là lớp học mà có nghĩa rất xa lạ (ban phát, hạng thứ, đem quân trở về). Do đó, dùng tiếng lưu ban để nói học sinh không được lên lớp thì không ổn chút nào. Dùng chữ lưu cấp 留級 thì gần đúng nghĩa hơn. Nhưng thôi, lưu ban, lưu cấp làm chi. Mình đã có chữ thuần Việt đã dùng từ lâu là ở lại lớp, rất hay vì phụ huynh học sinh nào cũng hiểu được.
TRANH THỦ. Đây là từ mới được đưa vào Nam sau 1975, và có nghĩa là lợi dụng tình hình để làm được việc gì đó. Thí dụ: “trong chuyến đi tham vừa qua, anh ấy đã tranh thủ kiếm chác được chút ít” Tôi đã cố tìm hiểu xuất xứ của từ nầy và nhận ra rằng từ tranh thủ không có trong tiếng Hán Việt nhưng hiện nay đang được dùng bên Tàu.
Việc đem tiếng Tàu hiện nay, phiên âm Hán Việt rồi nhập vào ngôn ngữ Việt Nam là đều điều không hợp lý vì nó sẽ làm rối rắm ngôn ngữ của mình. Nên nhớ tiếng Hán Việt có nguồn gốc tiếng Hán ở đời Đường chứ không phải là tiếng Tàu ngày nay, đã khác khá nhiều với tiếng Tàu đời Đường, về phát âm cũng như về ý nghĩa. Thí dụ,大家 , tiếng Hán Việt đọc đại gia và có nghĩa là người hay gia đình có vai vế trong xã hội, trong khi đó tiếng Tàu hiện đại đọc là dà jià và có nghĩa là tất cả mọi người. Một thí dụ khác: 東西 tiếng Hán Việt đọc là đông tây và có nghĩa là 2 phương hướng, trong khi tiếng Tàu hiện đại đọc là dòng xì và có nghĩa là hàng hóa. Cho nên tiếng Tàu ngày nay phải được xem là ngoại ngữ đối với ngôn ngữ Việt Nam và không nên nhập một cách bừa bãi vào tiếng Việt.
10.- Đảo ngược từ kép làm sai nghĩa.
ĐIỂM YẾU Từ kép nầy gồm 2 tiếng đơn ghép theo văn phạm Nôm có nghĩa là cái điểm không mạnh. Có người đem đảo ngược lại thành yếu điểm theo văn phạm Hán Việt thì lại có nghĩa hoàn toàn khác hẳn: điểm rất quan trọng.
THẤP ĐIỂM. Từ nầy thường được dùng sai một cách thực buồn cười. Cao là tiếng Hán đã được Việt hóa, nên có thể dùng theo văn phạm Hán hay Nôm cũng đều có một nghĩa duy nhất là “ở phía bên trên”. Thí dụ: điểm cao và cao điểm cùng một nghĩa. Trong khi đó thấp lại có hai nghĩa khác nhau tùy theo tiếng Hán hay Nôm. Theo tiếng Nôm thì thấp có nghĩa là ở bên dưới, nhưng với tiếng Hán thi thấp có nghĩa là ẩm ướt.. Vì vậy, khi nói điểm thấp thì đó là chỗ ở dưới thấp, nhưng khi đảo lại thành thấp điểm thì có nghĩa là nơi ẩm ướt. Thực là buồn cười khi đọc báo thấy: “giao thông giờ cao điểm, giao thông giờ thấp điểm” hay “dùng điện lúc cao điểm và dùng điện lúc thấp điểm”
11.- Đảo tư kép bừa bãi và không cần thiết.
XA XÓT. Tôi đọc được cách đảo kỳ cục trong một tác phẩm bán rất chạy trong thời gian gần đây. Nguyên câu đã viết là: “…ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ….”. Đảo từ như thế là bừa bãi, chẳng nhằm lợi ích gì. Với văn vần thì có thể tạm chấp nhận sự đảo từ cho hợp thi luật; nhưng với văn xuôi thì không thể đảo từ một cách bừa bãi được.
Còn rất nhiều từ kép bị đảo xuôi đảo ngược vô tội vạ nữa: Nguy hiểm / hiểm nguy; đơn giản / giản đơn; khai triển / triển khai; từ chối / chối từ; bảo đảm / đảm bảo; bền vững / vững bền; minh chứng / chứng minh; phục hồi / hồi phục; biệt ly / ly biệt; tha thướt / thướt tha; thẩn thờ / thờ thẩn; tranh đấu / đấu tranh; thơ ngây / ngây thơ; xúc cảm / cảm xúc; quang vinh / vinh quang; kinh hoảng / hoảng kinh; ái ân / ân ái …..
Ôi thôi, nhiều quá, quá nhiều, không sao kể hết ngay tức thì được.
Có lẽ trên thế giới, không ngôn ngữ nào có các từ bị đảo ngược lung tung như ngôn ngữ Việt Nam hiện nay.
Cứ cái đà nầy, tôi e có ngày mình sẽ đọc được một câu thế nầy: “Người sĩ-chiến sinh-hi ngoài trận-mặt để vệ-bảo quốc-tổ, dân-nhân ở phương-hậu phải tỏ lòng ân-tri với các hùng-anh sĩ-liệt”!!!
12.- Ghép từ bừa bãi.
KÍCH CẦU. Đó là nhóm từ “kich thích nhu cầu tiêu thụ” được ghép cho ngắn lại làm cho nghĩa trở thành hết sức tối tăm. Nghe từ ghép “kích cầu”, tôi cứ tưởng công việc của mấy ông công chánh đang thực hiên ở dưới sông. Cách ghép nấy nghe rất chướng tai nhưng lại rất phổ biến hiện nay.
GIAO HỢP. Có một chuyện ghép từ rất khôi hài mà người ta thường hay kể lại. Chuyện thế nầy: Đồng chí giám đốc phài một nữ nhân viên qua một xí nghiệp bạn với lời dặn đò cẩn thận: “Cô hãy sang đó và cố gắng thuyết phục cho họ chịu giao hợp nhé”. Ý đồng chí giám đốc muốn nói giao hợp có nghĩa là giao thiệp và hợp tác; không biết cô nữ nhân viên có hiểu đúng ý đồng chí giám đốc hay không
13.- Dùng từ dao to búa lớn
CHIẾN. Đá bóng chỉ là một trò chơi thể thao thuần túy thế mà các xướng ngôn viên và bình luận viên của chúng ta luôn luôn gọi đó là cuộc chiến. Cuộc chiến thì phải có đổ máu, phải có quyết tâm tiêu diệt kẻ thù hay ít ra làm cho kẻ thù phải khốn đốn. Một hôm đi ngang qua sạp báo tôi thấy một tờ báo chạy một cái tựa rất lớn ở trang nhất: “nội chiến ở bán đảo Ibérique”. Tôi giật mình không hiểu tại sao giữa hai nước anh em Tây ban nha và Bồ đào nha lại nổ ra chiến tranh. Tôi vội vã móc tiền ra mua ngay tờ báo đó rồi chạy nhanh về nhà để đọc. Đọc xong, tôi ngã ngửa, Thì ra, trong một cuộc bốc thăm do FIFA tổ chức, hai đội tuyển bóng tròn của Tân ban nha và Bồ đào nha gặp nhau trong cuộc chơi play-off. Thế mà người ta dám gọi là nội chiến. Xin chào thua cách dùng ngôn từ Việt Nam ngày nay.
CHIẾN ĐẤU. Tôi đã từng nghe nói: “Chúng ta phải cương quyết chiến đấu với tư tưởng sai trái”. Nghe thực đáng sợ.
NGÀI. Đã có lúc, nhân danh lập trường giai cấp, lập trường ta bạn thù, người ta gọi các lãnh tụ của nước tư bản bằng thằng nọ thằng kia. Bây giờ, chúng ta chơi với tư bản thì ai người ta cũng gọi bằng “ngài”. Ngài thủ tướng, ngài đại sứ, ngài nghị sĩ, vân vân. Nghe có vẻ nịnh bợ quá đi thôi.
THAM QUAN. 參觀 Đi chơi để ngắm cảnh thì gọi là tham quan, có nghĩa là tham dự vào một công cuộc xem xét, nghiên cứu. Gọi thế mới hách chứ.
NGHIÊN CỨU SINH. Đi học thêm ở ngoại quốc, chuyện quá tầm thường, nhiều khi lợi dụng làm chuyện bậy bạ, lại tự tâng bốc mình là đi nghiên cứu.
14.- Dùng từ Hán Việt thay từ Nôm một cách kỳ cục.
KHẨN TRƯƠNG Một đồng nghiệp của tôi định cư tại Uc từ năm 1975. Cách đây vài năm, thầy về Việt Nam lần đầu tiên và dùng tàu hỏa ra Hà nội thăm quê. Giữa khuya, tàu đến ga Đồng hới thuộc tỉnh Quảng bình. Đang ngủ say, bỗng thầy giật mình tỉnh dậy vì tiếng loa “… hành khách khẩn trương lên”. Thầy hoảng hồn phóng xuống giường, chạy ra khỏi buồng của toa xe vì tưởng xe trật đường rầy hay có hỏa hoạn xảy ra. Nhưng không, nhân viên trên toa tàu chỉ nhắc nhở hành khách nào xuống tàu ở ga nầy thì nhanh lên, thế thôi! Tội nghiệp, thầy Phụng hoảng hồn cũng phải vì ở miền Nam trước đây, ngươi ta ăn nói một cách giản dị và chỉ hay dùng tiếng Hán Việt trong văn chương và khi có việc nghiêm trọng mà thôi.
BÁO CÁO. Một người bạn đã nói với tôi: “Báo cáo anh, chiều nay tôi phải lên xe về Hà nội”. Tôi nghe chữ báo cáo thì cứ tưởng anh ta đang nói với một vị tư lệnh trên chiến trường.
15.- Thay từ Hán Việt thông dụng bằng từ Nôm bất hợp lý.
MÁY BAY LÊN THẲNG. Cái loại máy bay có thể bay lên mà không cần phi đạo, ngày trước người miền Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ người có học đến người thất học, đều gọi bằng một cái tên rất gọn là trực thăng. Sau 1975, người ta sửa lại là máy bay lên thẳng, không hiểu lý do tại sao.
LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ. Ngày trước miền Nam có một binh chủng đặt tên là Thủy quân lục chiến. Đó gần như là một danh từ riêng. Sau 75 thì sửa lại là lính thủy đánh bộ cho có vẻ nôm na, dù thủy và bộ vẫn là tiếng Hán Việt. Có người bảo rằng cái gì của ta thì dùng tiếng Hán Việt mới bảnh, còn cái gì của kẻ thù thì dùng tiếng Nôm để làm giảm giá trị. Nếu quả đúng như thế thì đó thực là một quan niệm hết sức sai lầm và xúc phạm một cách trầm trọng đến giá trị tiếng thuần Việt của dân tộc mình.
16.- Chưa có được những từ thỏa đáng cho khoa học và kỷ thuật hiện đại.
COMPUTER dịch là máy vi tính là không thỏa đáng. Máy vi tính có nghĩa là máy dùng làm những phép tính rất nhỏ. Chức năng của computer không phải chỉ như thế. Xin để dành cho các nhà chuyên môn về kỷ thuật và các nhà ngôn ngữ nói chuyện với nhau để chọn từ cho chính xác.
INFORMATION TECHNOLOGIE dịch là tin học, cần xét lại 2 điểm. Thứ nhất, tecgnologie là một kỷ thuật, dịch bằng một chữ học trơ trọi thì không ổn. Thứ hai, muốn dùng từ kép “tin học” thì 2 từ đơn phải đều là tiếng Hán Việt. Nhưng tin là tiếng Nôm còn tín mới là tiếng Hán Việt. *ON LINE, OFF LINE, dịch là trực tuyến và ngoại tuyến thì e không ổn. Ở tiếng Mỹ, on và off là 2 từ đối nghịch nhau thì dịch sang tiếng Việt cũng cần 2 từ đối nghịch nhau mới được. Cho nên dùng 2 từ trực và ngoại thì chẳng ổn chút nào. Một lần nữa, chúng ta chờ đợi sự bàn bạc giữa các chuyên viên kỹ thuất và ngôn ngữ.(Magazine)




Trong chương trình Game show Ai là triệu phú trên đài VTV3, một giảng viên đại học đã không trả lời được câu hỏi liên quan đến nhóm Tự lực văn đoàn và các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Khái Hưng. Cô giảng viên này đã tiết lộ rằng chưa bao giờ nghe nói tới tên của nhóm này và bảo rằng tên Nhất Linh gợi trong cô đến một gánh cải lương. Xem đến đó bỗng dưng tôi thấy buồn một cách khủng khiếp, tôi cảm thấy tội nghiệp cho cô giáo ấy, tội nghiệp cho những sinh viên đang được cô ấy dạy dỗ và cũng tội nghiệp cho cả một thế hệ.
Lâu nay, báo chí và mọi người khi bàn đến vấn đề giáo dục thường đổ lỗi cho học sinh, nhất là khi bàn đến môn Văn học. Nhiều ý kiến cho rằng học sinh bây giờ thực dụng, chỉ lo học những môn sẽ thi vào các trường đại học mà lơ là những môn học khác. Rằng thì là học sinh bây giờ không còn tôn trọng văn chương, thi phú mà chỉ chuộng khoa học kỹ thuật và ngoại ngữ.....
Chẳng có mấy ai nhìn lại người Thầy và suy nghĩ cho kỹ xem người Thầy đã làm gì để cho nền giáo dục nước nhà sa sút trầm trọng đến như vậy. Chẳng có mấy người đặt vấn đề trách nhiệm của người Thầy đối với thảm họa giáo dục hiện nay.
Tôi đã có thời gian gần 25 năm đi dạy học qua hai chế độ và tôi có thể mạnh dạn mà phát biểu rằng ở trong nhà trường hiện nay, rất nhiều Thầy Cô giáo đã chọn lầm nghề và đã sai lầm khi còn đứng trên bục giảng. Hiện nay tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp rất phổ biến, hầu như tỉnh thành nào cũng có xảy ra, tại sao chúng ta không đặt thêm vấn đề Thầy Cô giáo đang ngồi nhầm chỗ.
Theo quan niệm giáo dục từ xưa đến nay, người dạy học phải có kiến thức cao hơn học sinh một cái đầu. Và khi đi dạy học, chỉ cần sử dụng hai ba phần kiến thức của mình có. Nói gọn lại là người dạy học phải trang bị một số kiến thức nhất định về môn học mà mình đang phụ trách, đồng thời phải có một số vốn kiến thức phổ thông mà bất kỳ người nào được gọi là trí thức trong xã hội cũng cần phải có.
Thế nhưng, than ôi ! !!!! rất nhiều người làm nghề dạy học mà chẳng có số vốn kiến thức gì ngoài mấy trang giáo án được viết lại từ sách hướng dẫn giảng dạy, hay lơ thơ số vốn kiến thức đã được học lỏm bõm ở nhà trường đại học. Và từ đó, họ như những cái máy bật lên khi vào lớp để nhồi vào những con robot đang hối hả ghi chép một cách thụ động để đối phó với trường với lớp, với cha với mẹ, với thầy với cô. Thế nên mới có chuyện cô giảng viên đã nói ở trên suy nghĩ rằng cái tên Nhất Linh gợi cho cô một cái gánh hát cải lương; và nhiều học sinh lẫn lộn giữa vua Càn Long viết chiếu Cần Vương.
Đối với người thầy, ngoài kiến thức đã được học ở nhà trường, phải được trang bị thêm rất nhiều từ cuộc sống và tự học. Tự làm cho kiến thức càng ngày càng phong phú và tiếp thu những cái hay cái mới đang thay đổi hàng ngày là trách nhiệm của người thầy. Bởi có được số vốn kiến thức như vậy thì người thầy mới có tự tin để giảng dạy và có sức thuyết phục đối với học trò. Có một lần tôi hỏi một cô giảng viên đại học dạy môn văn học Việt Nam hiện đại là khuynh hướng sáng tác của nhà văn VN hiện nay là gì và giới trẻ thường đọc loại sách nào? Cô ấy trả lời tỉnh rụi: Bận lắm Thầy ơi, có thì giờ đâu mà theo dõi với khảo sát. Tôi tự nghĩ thế thì cô giáo ấy dạy gì cho sinh viên?
Kiến thức bị thiếu hụt, một số người thầy hôm nay lại tự đánh mất nhân cách. Nghề dạy học rất cần sự phẩm hạnh, bởi ta gọi đó là những nhà mô phạm. Thế nhưng, những hiện tượng nhan nhản xảy ra trong các trường học mà báo chí liên tục đưa tin đã cho chúng ta thấy rằng đạo đức của nhiều người thầy hôm nay đang ở trong tình trạng báo động. Theo một cuộc khảo sát đã được công bố trong năm vừa qua thì ngành giáo dục lại là ngành có số người ăn nhậu, rượu bia nhiều nhất. Đó có phải là một nghịch lí chăng ?
Hiện tượng cô giáo bắt học sinh liếm ghế, thầy giáo dụ học sinh vào nhà trọ để cưỡng dâm, cô giáo đi chấm thi tráo bài tráo điểm, thầy cô đi học sử dụng tài liệu lúc đi thi, ban giám hiệu ăn hối lộ, sửa bài sửa điểm để ăn tiền, cả hội đồng thi rắp tâm để cho thí sinh tự tung tự tác vì đã nhận phong bao, phong bì, bán đề thi, làm bài thi hộ ..v..v...không chỉ là hiện tượng cá biệt mà nhiều nơi đã trở thành một hệ thống.
Đó là chưa kể đến những chuyện bình thường là những mánh khóe để bắt học sinh phải học thêm để cải thiện đời sống. Cứ đầu năm học, các thầy cô của những môn chính thường tổ chức cuộc thi khảo sát trình độ. Và kết quả thường là rất bi đát, thế là trong kì họp phụ huynh đầu năm, thầy cô giáo báo cáo tình trạng và khuyên phụ huynh nên cho các em đi học ngoài giờ để nắm vững kiến thức. Chỉ cần đi học thêm, kì họp phụ huynh cuối học kì một đã thấy những báo cáo khởi sắc hơn và các phụ huynh có cảm tưởng con cái mình học giỏi hơn qua những kết quả của kì thi học kì.
Nếu khó khăn thì nên kiếm nghề khác để sống, không nên kiếm chác bằng cái nghề dạy học.
Trong các kì thi dạy giỏi hay các buổi dự giờ, thầy cô giáo thường tổ chức như là một vở kịch khôi hài. Các câu hỏi được soạn rất kĩ lưỡng, và có khi được dạy trước đó nữa kia. Em nào sẽ giơ tay phát biểu, người giỏi giơ tay phải, người yếu tay trái....Buổi học chuẩn bị sẵn như vậy mà vẫn có những giờ dạy cười ra nước mắt. Nhà trường dạy các em phải trung thực và thật thà dũng cảm, nhưng thầy cô, đúng ra phải là tấm gương sáng thì lại đi dạy cho học sinh những dối trá và những báo cáo láo. Trách chi khi ra đời, các em lại tiếp tục làm những báo cáo không trung thực.
Không những thế, người thầy lại hèn nhát, không dám nói lên chính kiến của mình, không dám đấu tranh với những sai trái diễn ra trước mắt mình, cuối cùng trở thành những kẻ đồng loã với thối nát. Có khi họ lại đánh mất liêm sỉ của người mệnh danh trí thức, trốn tránh trách nhiệm với học sinh, đứng về phía kẻ ác để đày đoạ chính học trò của mình, truy tố kẻ lương thiện, lập phe cánh để ủng hộ cường quyền. Một số thầy cô trở thành kẻ hèn, vì quyển lợi được chia cũng có, vì sợ bị đì, bị mất việc cũng có mà cũng có khi vì đang phấn đấu để vào đảng vào đoàn để được lên lương, lên chức.
Những người cỏn chút lương tâm, còn chút liêm sỉ dám đấu tranh sẽ vị cô lập, sẽ bị bạc đãi và rất khó để sinh hoạt bình thường trong tập thể. Họ trở thành kẻ cô đơn. Điều đó nói lên thực trạng thối nát tồn tại ở trong môi trường giáo dục.
Bỗng dưng tôi chợt nhớ đến nhân vật giáo Thứ trong Sống mòn của nhà văn Nam Cao và tôi có cảm tưởng những ngừơi làm nghề giáo có cái vẻ hèn hèn và cam chịu.
Thiếu kiến thức, thiếu nhân cách, những người làm nghề dạy học vừa không được học trò nể phục mà còn làm cho học trò xem thường, bất kính. Lỗi đó là bởi tại chúng ta, những nhà giáo không đủ điều kiện để làm nghề.
Tiên trách kỷ, hậu trách nhân.
Sao chúng ta không soi lại mình mà cứ trách mãi học trò.
Lại nói đến chuyện dạy môn Văn
Trong các môn học, Văn học là một môn rất khó dạy. Bởi tuy người thầy giáo dạy môn văn học không phải là nhà văn, nhà thơ sáng tạo văn chương, nhưng họ là những ngưởi truyền thụ văn chương, do vậy họ phải là một người có tâm hồn nghệ sĩ. Bởi dạy Văn học không chỉ truyền đạt kiến thức mà chủ yếu là truyền sự rung động trước tác phẩm. Tức là người dạy Văn là người phải có cảm xúc về tác phẩm và truyền cảm xúc đó đến với học sinh. Người thầy như là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn chương trong mỗi tâm hồn của những đứa học trò. Và muốn được như thế thì người dạy phải có sự rung cảm sâu sắc và bằng ngôn ngữ và kĩ thuật diễn đạt làm cho học trò rung động theo. Chẳng cần nhồi nhét chi cho nhiều, chẳng cần thuộc chi cho lắm ba cái đại ý và bố cục bài này chia làm mấy phần, một giờ dạy và học văn tốt là một giờ mà qua đó những tần số cảm thụ cùng rung lên và tự động tác phẩm đó, câu thơ đó, đoạn văn đó tự động thấm sâu vào tâm hồn của người học và trở thành hành trang đi suốt cuộc đời của chúng.
Dạy Văn mà giảng khô cứng, máy móc, chỉ mục đích truyền kiến thức, lúc nào cũng lên gân giáo dục này nọ thì làm sao chuyên chở những rung động văn chương.
Thật ra, trong chương trình học, không phải bài nào cũng làm ta rung cảm, không phải bài nào cũng hay, đôi khi quá dở nữa là khác. Gặp những tác phẩm như thế thì cũng chẳng biết trách ai, bởi không thể dạy tốt những tác phẩm như vậy vì không thể tìm được chỗ nào để gọi là văn chương mà rung cảm. Thôi thì đành trách sao mấy người sọan chương trình thiếu trình độ quá vậy?
Người ta hay bảo văn học là nhân học, là có ba chức năng hiện thực, thẩm mỹ và giáo dục, trong đó giáo dục là quan trọng nhất. Vì thế nên nhiều thầy cô cứ ép mà giáo dục. Dạy Kiều đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán, cái ghen của Hoạn Thư, sự tráo trở của nhân vật Sở Khanh, sự bất lực của nhân vật Thúc Sinh... thì giáo dục cái gì mà cũng lồng ghép vô chuyện chống chế độ phong kiến với áp bức một cách xơ cứng và ngô nghê. Chuyện gì cũng phải có giáo dục, cố ghép cho nó một cách khiên cưỡng và làm người nghe nhàm chán và bất phục.
Dạy mà người nghe cảm động, học trò rớt nước mắt thương cho số phận nàng Kiều, thương cho cái Tý phải ăn cơm thừa của chó, cảm thương cho số phận Chí Phèo, xót cho chị Dậu phải đem sữa cho người khác bú khi con mình đang đói...tức là đã giáo dục rồi, cần chi phải lên gân đánh đổ thực dân phong kiến và lũ cường hào, ác bá, cần chi phải kêu gọi vùng lên. Mà thời bây giờ, giáo dục không khéo sẽ khiến cho những học sinh khá đặt ra câu hỏi gắn liền với những câu chuyện hiện thực đang diễn ra ở xã hội, người thầy sẽ chẳng biết cách trả lời. Bởi bây giờ có nhiều số phận đớn đau hơn Chị Dậu, nhiều kiếp người còn khốn nạn hơn Chí Phèo năm xưa.
Khi người ta yêu, người ta cảm thì tự khắc người ta sẽ có thái độ thôi, cần chi gắn gậy vào và bắt ép người ta phải có tính giai cấp, phải đấu tranh.
Đừng trách học sinh không thích học Văn mà hãy suy nghĩ sao chúng ta dạy Văn dở quá nên chúng nó chẳng yêu Văn.
Vì chúng ta biến văn chương thành chính trị và nhiều người dạy Văn chương chẳng khác nào những nhà đang rao giảng chính sách. Dạy bài văn nào cũng phải kết luận yêu chủ nghĩa xã hội, phấn đấu trở thành con người mới XHCN thì còn chi là văn chương?
Bao giờ chương trình Văn học trong nhà trường đều là những tác phẩm văn chương đích thực và người dạy Văn có cảm xúc và truyền được rung cảm đến cho học trò như những người ca sĩ diễn đạt được bài nhạc của người nhạc sĩ tài hoa, đọc xong câu chuyện như vừa được xem một vở kịch đời, thì lúc đó chắc chắn học trò sẽ yêu thích môn văn học và chúng sẽ tự động yêu văn chương thi phú.
Để nhớ những năm làm thầy. 
DODUYNGOC. 
18.4.2007

Chắp Tay Nỗi Nhớ (*)


Sóng vẫn vỗ ngàn đời tháp cổ
Mưa vẫn về thiếu bóng Diễm xưa
Trên quán trọ trăng vẫn già như cũ
Và bên đời chú dế gọi không thưa

Anh đến trần gian từ hạt bụi
Lắng tự nhân gian những ngậm ngùi
Làm chiếc lá quay hoài trong gió chướng
Lúc trở về hạt bụi hóa kim cương

Từ giữa thinh không làm cánh vạc
Kẻ độc hành xuyên suốt đêm trăng
Hàng long não ngày xưa không còn lá
Có còn chi nối tiếc nguyệt như rằm

Sóng vẫn vỗ ngàn đời tháp cổ
Mưa vẫn về thiếu bóng Diễm xưa
Trên quán trọ trăng vẫn già như cũ
Và bên đời chú dế gọi không thưa

Kẻ lãng du đi về phố cũ
Vẫy tay chào chốn trọ mù tăm
Vết trầm luân sáu mươi năm nếm đủ
Chốn trăm năm nắm đất chọn chỗ nằm

Hạt bụi lại về với hư vô
Tiếc thương chi còn lại nấm mồ
Trên vai nhật nguyệt không còn nặng
Tháng Tư về tôi chấp nguyện Nam Mô.

DODUYNGOC
Sài Gòn - 1.4.2007
* Đây là bài thơ của tác giả Đỗ Duy Ngọc sáng tác nhân ngày giỗ của Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài thơ đã được anh Trịnh Công Hà, em trai cố nhạc sĩ đọc tại lễ giỗ ông tổ chức ở San José, Mỹ.



Lần đổi tiền thứ hai năm 1978, Hân chẳng có bao nhiêu tiền để đổi. Lúc đấy Hân đang thất nghiệp, chạy đầu này đầu nọ, chẳng ra việc gì, ai kêu gì làm nấy, bữa đói bữa no. Có thằng bạn thân vượt biên, trước ngày đi có cho một ít, ăn được vài tuần cũng hết sạch. Loay hoay mãi mà chưa biết cách gì để sống. Sách vở bán đã hết. Áo quần cũng chỉ còn bộ đồ mặc trên người, cũng chỉ còn đôi giày da mòn long đế. Gia sản chỉ có bấy nhiêu. Căn phòng càng ngày càng vắng đồ đạc, càng thưa thớt người. Lần lượt từng người đi. Kẻ về quê, người đi đâu mất biệt. Đôi lúc có kẻ lướt về rồi lại đi. Tất cả tản mác để tiếp tục sống, để tiếp tục tồn tại.
Đang là cuối đông. Sài Gòn bỗng lành lạnh với những cơn gió lạ. Cả xã hội nghèo, thiếu ăn. Chén cơm trắng là giấc mơ của bao người. Ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép. Chẳng ai giúp được ai. Hân co ro dưới gió trên đường Trương Minh Giảng. Con đường quen thuộc cả chục năm nay, Hân thuộc từng con hẻm, từng lối rẽ, từng cái ổ gà nho nhỏ trên nền xi măng của vỉa hè. Vẫn biết là chẳng đi đến đâu, chẳng giải quyết được gì cho cái bụng rỗng đã ba hôm rồi, nhưng anh vẫn đi. Nằm nhà xót bụng không chịu được, ra đường với chút hi vọng gặp ai đó, gặp một dịp may nào đó, lượm được đồng bạc ai đánh rơi. Biết đâu? Cũng còn vài người quen, cũng còn vài thằng bạn. Nhưng Hân ngại. Anh tiều tuỵ quá. Đói rách quá, ngại gặp mọi người. Gia đình nào cũng nghèo nhưng đến bữa cũng có bữa cơm dù là bo bo, bột mì hay cá hẩm thịt ôi. Hân chỉ cần có gì bỏ bụng. Lấp đầy khoảng trống của bao tử đang kẻu ầm ĩ. Nhưng Hân không dám đến nhà ai. Đói nhưng cái bệnh sĩ vẫn bám vào anh. Hân đi dọc căn phố, những cửa hàng ngày xưa sầm uất thế, rộn ràng thế bây giờ đìu hiu và buồn tẻ. Đã gần chập chọang chiều mà căn phố vẫn hiu hắt vì không có điện. Những giọt mưa lác đác, hắt vào anh. Hân tay ôm ngực tay loay hoay tìm điếu thuốc. Túi rỗng. Hân thèm một hơi thuốc trong mưa. Hân cúi xuống, mắt lướt trên nền xi măng, anh lượm được hai cái tàn thuốc. Anh lượm mảnh giấy báo, xé hai tàn thuốc, gói mấy sợi thuốc vào mảnh giấy báo rồi se lại. Ánh lửa soi sáng một vùng mặt, khói vờn lên. Bụng đang đói gặp hơi khói làm đầu anh lâng lâng như say. Những bóng người loang thoáng, chập chờn. Bụng anh thắt lại. Hân có cảm giác có dòng nước mắt đang âm ỉ chảy từ đôi mắt cận.
Hân băng qua ngã tư. Góc cây xăng Trần Quang Diệu với Trương Minh Giảng cũ có một bà cụ già bán bánh ít nhân đậu. Bà cụ người Bắc đã già lắm. Lưng còng, lúc nào người cũng quấn trong hai ba lớp áo, đầu quấn khăn. Hàng của bà chỉ chục cái bánh lá đặt trên cái thúng cũng cũ kỹ như bà. Một bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Bà bán vào buổi chiều, ít thấy khách mua nên nhiều lúc bảy tám giờ tối vẫn còn thấy bà ngồi dưới đèn đường, bóng bà đổ trên đường nhìn hiu quạnh lắm. Hân lâu lâu cũng ghé bà, mua một vài cái ăn qua cơn đói. Hôm nay Hân nghĩ giá có vài cái bánh này, chắc cũng đỡ cho cái bụng. Nhưng anh chẳng còn đồng bạc nào trong túi. Ngang qua, Hân đi luôn dù chân như muốn níu lại. Hân đi đến hẻm Trường Lê Bảo Tịnh. Anh quay lại, dùng dằng mấy bước rồi sà xuống cái thúng bánh tả tơi của bà cụ. Cụ ạ! Cụ cho con hai cái được không? Mời cậu. Cậu mua giúp. Ế quá. Nhưng cụ ơi! Hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không? Bà cụ ngần ngừ, chép miệng: Khổ thế cơ à? Ối giời thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Hân đứng lên, anh thấy chóng mặt, cái đầu hơi quay quay, anh lại đành ngồi xuống. Dạ vậy thôi cụ ạ. Vốn cụ chẳng bao nhiêu mà cháu lại ăn thiếu thì khổ cho cụ quá. Bà cụ đưa đôi mắt hấp hem nhìn Hân, móm mém: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?
Đêm đó nhờ hai cái bánh ít, Hân ngủ được một giấc ngon.
Mấy hôm sau đó, có việc ở Biên Hoà, anh xuống làm phụ mộc gần chục ngày. Về lại Sài Gòn mấy bữa, ghé góc đường lại không thấy bà cụ. Rồi ngày qua tháng lại, thời gian trôi đi, lúc thì quên, khi nhớ tìm mãi chẳng thấy bà cụ đâu.
**********
Cuối năm ấy, một người bạn cho một suất vượt biên, trả tiền sau. Hân liều làm một chuyến vì đang bế tắc quá. Lênh đênh gần nửa tháng ngoài biển, máy hư, tàu vô nước, cuối cùng cũng cặp được vào đảo Pulau Bidong đảo nhỏ ở phía nam biển Đông, thuộc bang Terengganu của Malaysia.
Đảo này được biết đến chủ yếu vì đây mở trại tạm cư cho người Việt tỵ nạn trong những đợt vượt biên liên tiếp của thuyền nhân từ năm 1975 đến năm 1991. Đến 30 tháng 10năm 1991 khi trại đóng cửa thì nơi đây đã tiếp đón 250.000 người tỵ nạn.
Hân ở đảo gần một năm vì chẳng có thân nhân nào bảo lãnh, anh vốn lớn lên từ cô nhi viện, tứ cố vô thân nên chẳng biết cậy nhờ ai. Sau đó anh gia nhập đạo Tin Lành và rồi một hội thánh ở Mỹ bảo lãnh Hân qua Mỹ. Những năm tháng ở Mỹ, anh cật lực vừa học vừa làm, cuối cùng cũng có một việc làm ồn định, một bằng cấp kha khá, một căn nhà vừa ý. Hai lần lập gia đình đều đổ vỡ, không có đứa con nào, anh nghĩ chắc ở thế cho đến già. Số thế rồi thì chấp nhận vậy. Đi làm về, một mình trong căn nhà trống, nhiều đêm anh nhớ Việt Nam, đôi khi thấp thoáng bóng của bà cụ và hai chiếc bánh anh còn thiếu nợ hiện ra trong giấc mơ. Nhưng anh vẫn chưa về, thật ra cũng chẳng còn ai để về. Chẳng còn chi níu kéo để về. Nhưng Việt Nam vẫn về trong giấc mơ của Hân. Có một cái gì đó không giải thích được cứ gọi anh về.
Năm 2002, nhân chuyến công tác ở Thái Lan, anh về lại Sài Gòn năm hôm. Thành phố chẳng còn như cũ, nhiều nhà cao tầng, phố xá đông đúc hơn, người ta có vẻ giàu hơn, hàng quán nhiều hon. Buổi chiều anh về lại con đường Trương Minh Giảng cũ, con phố này có vẻ ít đổi thay, trường đại học ngày xưa của anh giờ trông tàn tạ, những bức tường ám rêu, cái cổng trường vẫn thế. Ngôi chợ cũ khang trang hơn, phố sầm uất hơn. Hân đi dọc con đường mấy chục năm trước thường đi, vỉa hè không còn loang lổ, lát gạch đẹp hơn. Đứng ở bên này ngã tư Trần Quang Diệu nhìn qua xây xăng, anh thoáng thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu xanh đang ngồi ở dưới cột đèn đường. Lạ nhỉ? Hai mươi mấy năm rồi, cụ còn sống sao? Cụ vẫn ngồi bán ở đây sao? Hân nhớ hai chiếc bánh còn thiếu nợ bà cụ. Anh vội băng qua đường. Một chiếc xe bus trờ tới, che tầm mắt của anh. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Mới thấy đây mà? Hay chỉ là ảo ảnh. Hân đi tìm quanh quất mà chẳng thấy gì. Anh đứng ngay chỗ bà cụ hay ngồi ngày xưa, miệng lẩm bẩm: Cụ ơi! Con về tìm cụ trả tiền hai chiếc bánh. Chắc cụ chẳng còn trên đời này nữa đâu. Nhưng con vừa thấy cụ. Hay cụ nhắc con nhớ món nợ năm xưa. Nhưng con biết làm sao trả. Cụ ơi! Mong cụ siêu thoát. Món nợ này con suốt đời nợ cụ.
Mấy ngày còn lại ở Sài Gòn, Hân cứ quanh quất ở cây xăng Trần Quang Diệu, hỏi thăm về bà cụ bán bánh ít hơn hai mươi năm trước ở chỗ này. Mấy hôm rồi chẳng ai biết, chẳng biết thêm tin tức gì. Hôm cuối cùng ở Việt Nam, anh gặp được một anh chàng xe ôm, anh biết rất rõ bà cụ vì anh là con rể của bà cụ. Hân mừng quá, ngồi trên xe để anh xe ôm chở về nhà mà anh cứ ôm bụng anh chàng xe ôm mà nói: Mừng quá, mừng quá. Chắc là bà cụ khiến anh gặp tui. Mừng quá! Anh xe ôm kể đêm qua thấy cụ về bảo chiều mai ra góc cây xăng, có người muốn gặp. Hân nói với lên: Thế là cụ bảo ra gặp tui đấy. Bà cụ linh thiêng thật.
Xe chạy vào mấy cái hẻm ngoằn nghèo. Con hẻm càng vào sâu càng hẹp lại. Căn nhà ở cuối con hẻm ứ nước, cạnh bãi rác. Nhà sơn tróc loang lổ, nghiêng ngiêng như muốn ngã. Nhà tù mù một cái bóng đèn vàng hiu hắt. Một người đàn bà đi ra sau tiếng kêu của anh xe ôm. Hân bước vào nhà, đập vào mắt anh là chiếc bàn thờ be bé thắp ngọn đèn đỏ quạch soi tấm ảnh nho nhỏ của bà cụ. Bà cụ đang nhìn anh, mắt nheo nheo với nụ cười hóm hỉnh. Anh nhớ câu cuối cùng của bà nói với anh hơn hai mươi năm trước: Khổ đã khổ rồi. Cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gởi cho tôi cũng được. Trông cậu xanh quá. Chắc đói lắm rồi hử?
Hân xin ba cây nhang, đốt lửa, ánh sáng bùng lên soi khuôn mặt của người đàn bà nhầu nhĩ, chắc tại nghèo. Hân chắp tay vào ba cây nhang: Cụ ơi,con xin lỗi cụ, con đắc tội với cụ, con mang nợ cụ hai chiếc bánh cứu con qua cơn đói mà bây giờ con mới trả được cho cụ thì cụ đã chẳng còn. Con không quên được hai chiếc bánh của cụ đâu. Và vì không quên nên con mới nhìn thấy cụ, con mới tìm được nhà cụ để trả món nợ ân tình.
Hân ra ngoài cửa, ánh sáng cuối cùng của buổi chiều hắt lên ánh sáng kỳ dị vừa nhờ nhờ vừa tăm tối trên cánh cửa loang lổ. Anh rút hết số tiền trong ví, trong túi xách, anh không đếm là bao nhiêu nhưng cũng được một bó bằng cườm tay. Anh xin chiếc dĩa, đặt hết lên đấy và vái một lần nữa. Cụ ơi! Con xin gởi cụ. Đã biết trễ rồi nhưng có còn hơn không. Con đội ơn cụ và mong cụ tha lỗi cho con.
Hân bước ra con hẻm, ánh đèn đường vừa bật, anh lại ra con đường cũ. Cây xăng đang tấp nập. Khoảng sáng chiếu ở dưới đèn đường, anh lại thấy nụ cười và dáng lom khom của bà cụ. Nhưng lần này cụ không có bóng đổ.
15.7.2005
DODUYNGOC


(Viết khi nghe tin Phú Guitarist vừa qua đời)

Điệu Blue nức nở
Gục đầu bên phím đàn
Nốt cuối cùng tắt thở
Một cuộc đời vừa đi
Giọng hát còn vang xa
Tiếng kèn rơi hấp hối
Điệu Blue cuồng si
Ánh đèn bay chấp chới
Rượu tràn trên lối nhảy
Nốt nhạc chảy liên hồi
Mấy ngón tay lẩy bẩy
Đưa gió về trùng khơi
Buông đàn ngưng hơi thở
Giai điệu gãy nửa chừng
Điệu Blue vừa mở
Cửa đã khép đời ngừng
Một đời ôm đàn hát
Giờ buông hết xuôi tay
Cổng thiên đường bát ngát
Mở ra lúc cuối ngày
9.8.2018
DODUYNGOC



Tiếc bóng người đi qua
Không ngoái đầu nhìn lại
Tiếc những điều ái ngại
Chưa có dịp nói ra
Tiếc bao chuyện gần xa
Giờ chỉ là quá khứ
Nỗi buồn như máu ứ
Chắn hơi thở đi về
Tiếc vừa được cận kề
Đã nói lời ly biệt
Giữa buổi chiều sức kiệt
Mưa ướt đẫm nỗi buồn
Gió động chạy cuống cuồng
Rủ đi tìm nỗi nhớ
Những cơn đau cắc cớ
Nhắc nhở lại bùng lên
Tiếc những thứ không tên
Trộn nhau thành vết xước
Tiếc người giờ đi ngược
Không kịp để nhìn nhau
Tiếc dồn thành nỗi đau
Chiều mưa ngồi ôm ngực
Góc bàn nghe ký ức
Xào xạc với chiếu giường
Bỗng nhìn mình trong gương
Thấy tàn phai ẩn hiện
Còn biết bao là chuyện
Chưa kịp nói một lần
Hoa nở rụng tràn sân
Lá úa vàng trước ngõ
Ta chỉ là cọng cỏ
Héo hắt ở ven đồng
Đợi nước cuốn ra sông
Chờ giờ về với biển
Không trông lời đưa tiễn
Chẳng ngóng cái vẫy tay
Người sẽ chẳng có hay
Ta rơi vào im lặng
9.8.2018
DODUYNGOC



Đó là rẻo đất nhỏ, sát con sông. Một miếng đất trời mưa nước sông dâng lên bì bõm. Nắng thì bụi. Dân tứ xứ nghèo khổ không đất cắm dùi giạt về đây, lèo tèo chục căn, gọi là nhà nhưng chỉ là những vá víu, tạm bợ. Lâu ngày thành xóm nhỏ. Xóm chỉ có con đường độc đạo hình hành kiểu đi lâu thành đường. Tính theo đường chim bay thì cách thành phố chỉ chục cây số, nhưng là tương phản cực kỳ. Xa xa kia là những cao ốc mọc lên như nấm, thay đổi hàng ngày. Còn ở đây, cuộc sống như đứng lại, nghèo vật vã. Có người ở thì có chợ. Một cái chợ xép, dăm ba hàng quán lèo tèo, chủ yếu bán ba thức ăn rẻ tiền cho đám công nhân cũng nghèo phía xa kia chiều chiều tan ca đi ngang qua mua vội ba miếng thịt bèo nhèo với mấy con cá ươn hay bó rau nho nhỏ. Người trong xóm làm đủ nghề, đánh cá ven sông, lượm bọc nilon, bán nước trà đá ngoài quốc lộ. Cũng có người hành nghề ăn xin, bán vé số. Vài người bán mua ở chợ xép. Góc sát bờ sông có bãi rác, ruồi nhặng bay vo vo, nước nhỉ ra tanh tanh, lờm lợm. Người ta sống quen với nó nên cũng chẳng có cảm giác gì. Giang hồ đặt tên xóm là xóm Sầu ven đô. Cái còn sót lại hình ảnh của chốn quê ở xóm nhỏ này là mấy bụi tre gai ở cạnh sông, những cây tre cao, lá xanh biếc, ngọn vươn cao lên trời lắt lay theo gió. Mùa mưa, gió thổi từ sông lên, ào ạt, lung lay những căn nhà xiêu xiêu, khiến không gian lành lạnh như mùa đông ở miền Trung.
Lão xuất hiện trong khu chợ ven đô này vào buổi chạng vạng cuối mùa đông. Trời nặng như chì, ẩm ướt, những ngọn gió chiều thổi u u, lành lạnh. Chợ chiều đã tan, những sạp hàng chổng chơ trong cái chợ tồi tàn. Những con đường cũng vắng ngắt nên chẳng ai biết hay chú ý đến lão. Mọi người chỉ nghe loáng thoáng tiếng trống lạ gõ trong gió chiều chập choạng, nhưng ai cũng đang lo chuyện nhà, chuyện cửa nên chẳng ai quan tâm.
Sáng hôm sau người ra chợ sớm thấy lão nằm co quắp trên sạp thịt, chỗ rộng rãi và có vẻ sang nhất chợ. Người lão run bần bật, chân tay co quắp lại trong bộ đồ bộ đội bạc màu, rách bươm. Lão ôm khư khư cái ba lô cũng bạc màu rách nát như bộ đồ của lão.
Người lão như xác khô, da đen mốc, cặp mắt trô trố nằm trong hốc sâu. Lão nói lắp bắp bằng cái giọng trọ trẹ của người miền ngoài, rất khó nghe. Nhưng đàn bà vốn kiên nhẫn, sự xuất hiện của lão cũng là sự lạ ở vùng đất nghèo ven đô này, nên các bà hỏi vặn mãi cũng hiểu ra nhiều điều. Đại khái lão là bộ đội trước chiến đấu ở Campuchia. Trong một trận chiến đấu hay hành quân gì đó, lão bị thương, lạc đơn vị và bị mất trí nhớ.
Lão đươc đưa về một khu an dưỡng mấy chục năm. Một ngày đẹp trời, lão yêu cầu cho lão về quê, nhưng có ai biết quê lão ở đâu, lão cũng chắng nhớ. Không cho về thì lão trốn. Và từ chỗ an dưỡng ở Bình Phước, lão lang thang suốt mấy tháng, vạ vật kiếm ăn từ cơm thừa canh cặn nơi hàng quán bên đường cho đến những đống rác. Cho đến ngày lão trôi giạt đến khu chợ ven đô này.
Lão bảo chốn này giống quê lão, cũng có ngôi chợ nhỏ lèo tèo, cũng có giòng sông, cũng có mặt trời đẹp và to như quê lão, cũng có rác rến, cũng có con đường đất, cũng có bụi tre gai, giống lắm. Và lão ở lại làm như đã về được quê nhà. Nhưng có lúc lão lại khóc tu tu, hỏi mọi người sao không thấy Mạ của lão, Mạ lão bán rau ở chợ mà, sao tìm hoài không thấy?
Thấm thoát thế mà gần chục năm lão trú ở vùng này. Lúc đầu thì suốt ngày quẩn quanh ở chợ, ai nhờ gì thì làm, khiêng vác, quét dọn, đổ rác, gọi giúp người này, nhắn giúp người kia. Làm xong việc người ta lại cho ít tiền, có khi lại cho tấm bánh, chén cơm.
Một thời gian sau, thấy có mấy người dựng mấy cái lều ở chỗ đống rác, gần cái cống nước đen ngòm, lão cũng kiếm được mấy tấm ni lon, mấy cái bao cũ, che được cái lều be bé rúc ra rúc vô, lão gọi đó là cái nhà của lão. Mọi người dựng lều được thì lão cũng dựng được, cũng chẳng thấy ai có ý kiến gì.
Sống lâu với dân chợ, thật thà, chất phác, không tham của ai, chẳng giận hờn ai, chưa bao giờ gây gổ, nặng lời với ai, dân chợ thương, quyên góp cho lão được ít tiền làm vốn đi bán vé số. Thế là hàng ngày, từ mờ sương, lão lên đường đi vào thành phố, sẩm tối lại về. Cũng có nhiều hôm bị mấy đứa bất lương gạt tiền, cũng có khi lại bị bọn cướp cạn giật mất xấp vé. Về lão khóc tu tu, lại quanh quẩn ở chợ thời gian, mấy bà, các cô ở chợ lại góp cho lão số vốn, lão lại đi.
Dù đi đâu, dù mưa hay nắng, dù bán được hay không, lão luôn về khu chợ với túp lều của lão trước khi chương trình thời sự ở trên truyền hình phát tin tức. Lão về để canh giờ gõ trống. Cứ đúng bảy giờ tối là lão gõ trống. Chiếc trống con con có dây đeo trước bụng. Lão gõ rất bài bản, bắt đầu những tiếng rời rạc nhưng rất đanh, sau đó là những tiếng dồn dập. Tay đánh, miệng lão phát ra âm thanh của tiếng súng tạch tạch bùm..tạch tạch bùm. Rồi lão hét: Tiến lên! Tiến kên các đồng chí. Rồi lại bắn. Rồi lại hô: Các đồng chí xung phong, xung phong...Lão diễn trò này đúng mười lăm phút không sai. Cuối cùng chấm dứt là báo cáo: Đồng chí Huy đã hi sinh, Đồng chí Thân hi sinh, đồng chí Toàn đã hi sinh và sau đó là lão ngã vật ra, nằm im một lát và rổi trở lại bình thường, đem cất cái trống vào chỗ của nó. Chuyện này diễn ra đều đặn mỗi ngày, không sớm hơn, cũng chẳng trễ hơn. Cũng từng đó động tác, từng đó lời nói, không thừa, chẳng thiếu. Chuyện lão đánh trống diễn ra từ khi lão về đây cho đến bây giờ. Lúc đầu thì mọi người còn để ý, con nít còn bu xem, riết rồi chán, chẳng ai thèm coi nữa. Nhưng lão diễn đâu phải để mọi người xem, lão diễn như một nhu cầu bí mật nào đó thôi thúc lão, bắt lão phải làm, không làm không được, đó là một bồn phận không thể nào quên.
Người ta đoán đó là trận đánh diễn ra ở bên Campuchia của lão, xảy ra lúc bảy giờ tối, đồng đội lão chết hết, mình lão còn sống và bị thương bởi mảnh đạn vào đầu khiến lão chẳng còn nhớ gì ngoài trận chiến đấu cuối cùng.
**********
Hôm nay lão chuẩn bị vào phố với xấp vé số trên tay. Nghe nói tuần trước ở Sài Gòn người ta tụ tập đông lắm. Nghề của lão càng đông người càng dễ làm ăn. Người ta tụ tập, ca hát, vui đùa dễ động lòng và phấn khích để mua vé số. Mấy năm theo nghề lão rút ra được kinh nghiệm ấy. Lão lấy làm lạ khi nhiều người bán vé số như lão lại ưa bán ở bệnh viện. Lão nghĩ nơi ấy buồn tẻ quá, ai cũng đang lo cho sinh mạng, bệnh tật của mình hoặc người thân, tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện mua số. Thế nên, lão chỉ bán ở chỗ nào vui, quán nhậu, chỗ hội hè, tụ điểm ca nhạc... Toàn chỗ vui, đời buồn lắm rồi, kiếm chỗ rộn ràng cho bớt tẻ.
Lão đi đến Bưu điện thành phố và Nhà thờ Đức Bà thì nắng đã lên. Hôm nay nắng đẹp. Những sợi nắng vàng óng ấm áp của buổi sớm mai làm lão khoan khoái sau khi đi một chặng đường dài với một chuyến xe bus ngắn. Lão thấy vui, lẩm bẩm một khúc quân hành bỗng dưng xuất hiện trong đầu lão. Ngồi nghỉ trên ghế đá, lão ngước nhìn khuôn mặt của tượng Đức Mẹ trước nhà thờ, đôi mắt mới buồn làm sao, nhìn như có giọt nước mắt. Có một chút ký ức thoáng hiện trong đầu lão. Ngôi nhà thờ ở gần dòng sông. Đôi mắt của Đức Mẹ. Đôi mắt và những giọt máu của Chúa Jesus trên ngôi thập giá. Đứa bé quỳ bên mẹ, nhìn lên. Tiếng cha giảng. Amen! Như ánh chớp, hình ảnh thoáng qua rồi mù tăm.
Nghe kể ngoài này đông người lắm mà, sao chẳng thấy. Có mấy xe du lịch chở khách nước ngoài. Mà nước ngoài thì chẳng ai mua vé số. Lão nhìn quanh, công an, cảnh sát áo xanh áo vàng , trật tự dân quân ở đâu mà lắm thế. Nhìn đâu cũng thấy. Kiểu này chắc phải dời chỗ khác thôi. Mấy ông ấy cũng chẳng bao giờ mua vé số, mở miệng là xua đuổi, là chửi thề, chẳng trông mong gì đám ấy.
Lão đứng lên định đi thì bắp gặp nó. Nó nằm chỏng chơ cạnh lão từ nãy giờ mà lão không để ý. Một chiếc điện thoại có bao màu hồng, nhìn rất sang và đẹp. Lão cầm lên, ngắm nghía. Mở nắp, có mấy nút, lão chẳng biết ấn nút nào. Cái này chắc đắt tiền. Tội nghiệp ai lại đánh rơi ở đây. Chắc bây giờ chủ nhân của nó đang lo lắng đi tìm. Lão nghĩ hay là ngồi đây đợi một lát, có khi họ trở lại mình trả cho người ta. Lão có cần xài mấy cái này đâu. Lão có ai để gọi mà có ai gọi cho lão để nhận. Nhưng phải công nhận nó đẹp, người ta nghĩ ra nhiều thứ quá. Bỗng thấy nó rung, rồi có chuông reng, lão luống cuống, chẳng biết làm gì, mắt nhìn vào nút xanh nút đỏ mà chẳng biết bấm vào đâu. Chuông tắt. Rồi lại kêu, lại rung. Lão bó tay. Hay là đến hỏi anh chàng áo xamh đằng kia, anh ta nhìn mình trô trố, xem cái mặt dữ dằn quá. Lại sợ. Hình như tay anh ta còn có cái gậy. Hắn nổi hứng phang mình một cái thì chết mẹ. Thôi vậy. Cứ để nó reng rồi lại tắt. Lão ngồi mân mê cái điện thoại. Nghe chúng nó bảo còn chụp hình được như máy ảnh. Hay nhỉ. Làn đầu tiên trong đời lão cầm trên tay cái thứ hiện đại này. Lão đưa lên mắt nhìn như người đang chụp ảnh. Đen thui thùi lùi, có thấy gì đâu. Lão xoay lai, nhìn thêm lần nữa, cũng chẳng thấy gì ngoài một màu đen. Đúng lúc ấy thì lão bỗng thấy mình bị xốc nách đứng lên và một giọng nói giận dữ bên tai lão: Chụp hình gì đấy, lão già. Lão chưa kịp nói gì đã bị hai gã thanh niên lực lưỡng kéo lên, lôi đi xềnh xệch. Đi theo sau là thằng mặc áo xanh nhìn lão hồi nãy, cái gậy trong tay hắn khua khua. Lão la lên: Làm chi rứa. Làm chi rứa. Tui bán vé số mà. Tui chụp hình mô. Đem tui đi mô đây? Lão vùng vẫy chân tay, miệng lão la nhưng hai tên thanh niên vẫn kéo lão đi. Lão nghe nhói ở chân như bị hòn đá nhọn đâm vào. Mấy du khách đứng nhìn, có người đưa máy hình lên, nhưng đã có mấy anh áo xanh đưa tay bịt ống kính, ra dấu không cho chụp.
Lão bị quăng lên xe đậu bên kia đường. Trên xe cũng có mấy người bị bắt như lão. Mặt ai cũng ngơ ngác, đầy lo âu và sợ hãi. Ở góc xe, có một thanh niên mũi đang rỉ máu, đưa tay chào và cười với lão. Có quen không? Nhìn mặt không quen. Lão gượng cười lại, có cảm giác cái chân đau, lão nhìn xuống chân mình, thấy có một vệt máu chảy, chắc là bị xây xát do hòn đá nhọn lúc bị kéo lê trên đường.
Xe đổ người xuống ở góc công viên Tao Đàn, bên phía đường Huyền Trân Công chúa. Lão nhận ra ngay vì có nhiều lần lão đến đây bán vé số nhân mấy trận đá banh. Người bị bắt khá đông, ngồi dài dài trước sân. Kẻ đứng, người nằm lộn xộn. Lão bị lùa xuống nhưng trong đầu chỉ có một câu hỏi cứ nhấp nhô trong đầu lão: Sao lão lại bị bắt. Lão có làm gì đâu? Hay người ra nghi lão ăn cắp cái điện thoại? Lão lượm được mà. Lão chờ người để trả lại mà. Lão có ăn cắp đâu? Mà dân ăn cắp đâu mà chở về đây nhiều thế? Toàn người ăn cắp à? Đang miên man thì lão bị dẫn vào phòng. Một anh thanh niên đè ngửa lão ra, lục soát khắp người. Lôi từ túi lão ra mấy đồng bạc lẻ nhàu nát, cái điện thoại màu hồng tươi tắn và cuối cùng từ cái túi xách mang theo xấp vé số, cuốn sổ dò số và hai cái dùi trống be bé. Tất cả được đặt lên bàn, trước mặt lão. Căn phòng ngoài lão ra còn có bốn người nữa. Một anh mặc sắc phục công công an. Hai anh thanh niên đội nón lưỡi trai đen, mặc đồ thường và một cậu mặc đồ dân quân tự vệ. Anh thanh niên đội nón cầm ngay cái điện thoại. Mở nắp, hất hàm hỏi: Pass là gì? Lão nhìn, không hiểu y nói gì. Hăn lại nhắc: Pass là gì?. Lão hỏi lại: Pass là chi? Tên này quắc mắt, sấn tới, mặt kề mặt lão: Đóng kịch hả bố già. Mật mã cái điện thoại. Hiểu chưa? Lão lại ngơ ngác: Tui có biết mật mã chi mô. Tay kia gằn giọng: không có thì giờ để giỡn với bố già nhé. May ông lớn tuổi đấy, nếu còn trẻ là đã ăn tát rồi. Tôi hỏi lại, mật mã là gì? Lão lớn giọng: Tui có biết chi mô, cái ni tui lượm được mà. Vừa nói xong, lão ân hận. Lão nghĩ: Nói thế thì hắn tịch thu luôn cái máy thì người mất làm sao lấy lại được. Đã vô tay tụi này, dễ gì lấy ra. Lão ậm ừ: Của người ta nhờ tui giữ, tui không biết chi cả. Vừa dứt câu lão đã thấy má phải bỏng rát vì một cú tát. Thằng này khoẻ, tát một cái muốn vẹo cái quai hàm. Lão vừa xoa má vừa trệu trạo: Sao đánh tui? Tui làm chi đánh tui? Lão lại nhận thêm một cú rờ ve bên trái, cũng bỏng rát. Lão nghĩ, Chúa bảo khi bị đánh má bên phải, chìa má bên trái cho đánh luôn. Lão chưa kịp làm theo lời Chúa đã bị đánh thêm má trái. Lão ức! Bị đánh mà không biết lý do. Lão đứng dậy, hắn đánh mình thì phải đánh lại chứ. Giặc bắn mình một phát mình phải trả lại một phát, không nhân nhượng, nhân nhượng là đầu hàng. Lão là lính, không thể hèn. Nhưng lão vừa nhớm đít, anh dân quân đã ghì lão xuống, khóa hai tay lão lại sau lưng ghế. Lão giận rồi, mặt lão đỏ lên, hai mắt mở to, nhưng lão bất lực. Lão khai lão bán vé số, xấp vé số là chứng minh. Mấy con mắt nhìn lão, có kẻ tin, có người có vẻ nghi ngờ.
Một cô gái bị dìu vô, cô này chắc bị đánh trước đó rồi, mặt nhầu nhĩ, cũng lục soát, cũng hỏi pass, cô gái cũng không nói pass, cũng bị đánh, máu chảy nơi khoé miệng. Rồi tiếp tục nhiều người vào bị hỏi cung. Trẻ có, trai có, gái có, hiếm hoi có vài người già cỡ lão. Lão nghe nói nhiều, nhắc nhiều hai chữ tập trung với biểu tình. Lão chẳng hiểu gì. Lão đâu có đi biểu tình. Lão chỉ đi bán vé số.
Tay thanh niên lấy điện thoại của lão, mang ra ngoài. Lão bị đưa xuống ngồi dưới sàn, bên cạnh mấy cậu thanh niên dang lim dim ngủ sau trận đòn tra khảo. Lão cũng thấy buồn ngủ, lại đói, sáng lão không ăn sáng, giờ cái bụng cồn cào. Lại khát nước. Giờ mà ở ngoài phố lão sẽ ghé ven đường, mấy chỗ uống trà đá từ thiện, làm mấy ly cho đã. Lão lim dim, gật gù trong tiếng tra khảo và huỳnh huỵch của cú đá cú đánh vang lên trong phòng. Có người đến hỏi lão về nơi cư trú với thân nhân để gọi lãnh về. Lão bảo lão không có thâ nhân và nơi lão ở là xóm Sầu ven đô. Tay hỏi lão nhìn lão ngạc nhiên rồi chửi: Mẹ lão già, nói đéo ai hiểu gì cả. Không người lãnh thì tiếp tục ngồi đấy. Người ta mang đến bao bánh mì, lão định lấy một ổ, cho qua cơn đói. Nhưng nhìn quanh, chẳng ai lấy, đành thôi.
Có người lục tục ra xe chở đi đâu đó, nhiều người mặt có máu chảy. Lão lại lim dim. Chiếc điện thoại màu hồng lão lượm được lại reo trên bàn. Tay mặc sắc phục công an chộp lấy, hai bên nói qua lại chi đó. Lão nghe lỏm bỏm tiếng cô gái bảo là cũng bị bắt, đã được thả, đề nghị xin lại cái điện thoại. Lão vừa nghe vừa đoán thế qua cách nói của anh chàng công an. Lão nghĩ là mình đoán đúng. Kiểu này chắc cái điện thoại này tiêu rồi. Dễ gì trả lại. Lão nghĩ trong vụ này có lỗi của lão. Lão sẽ ráng xin lại thử xem rồi về xóm Sầu ven đô nhờ mấy thằng nhóc liên lạc với người mất để trả lại. Tụi đó rành sáu câu.
Đến chiều thì lão được thả ra, nhận lại nhúm bạc lẻ và cái túi nhỏ đựng vé, cặp dùi trống và cuốn sổ. Cái điện thoại lão nói mãi mà họ không trả, họ bảo sẽ liên lạc với chủ nhân để trả lại. Đành chịu vậy.
Lão thất thểu ra về, đói và khát. Chuyến xe bus đưa lão được một đoạn ngắn. Đầu lão chỉ vỏn vẹn một câu thắc mắc: Sao lão lại bị bắt? Lão bị tội gì? Đến đầu ngõ nhơm nhớp bùn của xóm Sầu ven đô, lão chạy như ai đuổi vào căn lều rách nát. Truyền hình đang chuẩn bị phát thời sự. Gần bảy giờ. Lão vội vã gắn chiếc trống con con có dây đeo trước bụng. Bài bản bắt đầu bẳng những tiếng rời rạc nhưng rất đanh, sau đó là những tiếng dồn dập. Tay đánh, miệng lão phát ra âm thanh của tiếng súng tạch tạch bùm..tạch tạch bùm. Rồi lão hét: Tiến lên! Tiến kên các đồng chí. Rồi lại bắn. Rồi lại hô: Các đồng chí xung phong, xung phong... Đúng mười lăm phút không sai. Cuối cùng chấm dứt là báo cáo: Đồng chí Huy đã hi sinh, Đồng chí Thân hi sinh, đồng chí Toàn đã hi sinh và lão ngã vật ra, nằm im một lát. Trò diễn chẳng còn ai xem. Lão độc diễn như một nhiệm vụ. Ti vi đang chiếu các cấp lãnh đạo đi thăm các thương binh liệt sĩ, mặt ai cũng cười, còn những người được thăm hình như lại chẳng vui.
Lão trở vào lều, cất chiếc trống trên đống đồ phế liệu. Lão ngồi thừ xuống sàn đất nhớp nháp và tiếp tục tự hỏi: Sao lão lại bị bắt? Lão bị tội gì?. Lão chợt nhớ xấp vé số. Lão lục trong túi, không có. Chỉ có cuốn sổ dò số. Lão lục lại lần nữa. Cũng không còn. Ai đó đã lấy xấp vé số của lão rồi. Không biết có số nào trúng không? Nếu có số trúng sẽ có người giàu thêm và lão thì nghèo đi vì trắng tay. Xem như mất vốn. Ngày mai lão lại ra chợ, bốc vác, làm những việc người ra nhờ. Bất giác lão đưa tay rờ trên má, dấu tay vẫn cồm cộm và bỏng rát.
Đêm đó lão không ngủ, người ta nghe lão ngồi khóc tu tu.
Sài Gòn 20.7.2018
DODUYNGOC



Tiếng xe cấp cứu giục giã giữa phố kẹt đường
Mây xám xịt chờ mưa
Người cảnh sát giao thông đứng nhìn
Đèn xanh không bật
Người đông nghìn nghịt
Bóp bóng, bóp bóng
Rú còi, rú còi
Xe nhúc nhích, nhúc nhích
Tim đập thình thịch, thình thịch
Lá cờ bên kia đường nhà nước bỏ quên
Héo rũ như lá chuối khô
Màu của tàn phai
Lão già cụt chân ngồi vệ đường thổi sáo
Bài "Bác đang cùng chúng cháu hành quân"
Những bao tăm lăn lóc chẳng ai nhìn
Tiếng sáo chẳng ai nghe
Tiếng sáo trộn với tiếng bô xe
Tò te, tò te
Bình bịch, bình bịch
Cô bé gục trên vai mẹ
Chiếc ba lô trên lưng nặng trĩu
Mắt cô bé nặng trĩu
Miệng nhai miếng bánh và mắt ngủ
Một ngày với sách vở còn thêm trận chót
Ở nhà cô giáo tối về
Còi xe cấp cứu vẫn ò e
Ò e, ò e
Quán bên đường phát bài Cát bụi
Giọng Khánh Ly não nề
"Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi"
Con chim hoảng hốt
Chưa kịp đậu xuống đã vội bay
Lúc nhúc, lúc nhúc
Ôi toàn là người
Ôi toàn là bụi
Đầy bụi, bụi đầy
Trần gian quá chật
Bụi bay.
Bà bán vé số nhìn đồng hồ
Còn chín tờ nữa mà giờ đang hết
Ngước mắt nhìn người đi
Ai cũng lơ
Ai cũng bơ phờ
Tiếng thời gian đập trong ngực bà
Tích tắc, tích tắc
Bán hết mấy tờ này bà mới dám ãn cơm
Tích tắc, tích tắc
Nhịp tim là nhịp đồng hồ
Toán công nhân đốn cây
Tiếng cưa máy rú
Cây gãy
Lá rụng, lá rụng
Thu chớm đến lá chưa kịp vàng
Đã rụng
Người chen như lá
Chen nhau, lách nhau, qua mặt nhau
Bóp còi inh ỏi
Tin, tin, tin
Ai cũng vội
Ghế đẩu vỉa hè
Một người chẳng chờ ai
Chẳng còn chi để đợi
Một người không vội
Nhìn chiều đang đi
Nhưng buổi chiều không yên tĩnh
4.8.2018
DODUYNGOC


Ông bạn tui, nhân vật trong bài này giờ đã định cư ở Mỹ vừa điện thoại tám chuyện với tui. Chợt nhớ cách đây 4 năm, anh bạn hom hem vô Sài Gòn chữa bệnh. Từ đó có bài này. Hôm nay đăng lại để nhớ một kỷ niệm vui cùng bạn.

HO
Hôm trước ngồi với ông bạn từ ngoài Trung vô, hơn chục năm mới gặp. Thấy ổng hom hem, bèo nhèo quá, dù gia cảnh cũng khá giả lắm, cùng tuổi tui mà lọm khọm, nhăn nheo. Trời Sài Gòn nóng bỏ mẹ mà ổng chơi hai ba lớp áo, luôn cái áo khoác ngoài thêm cái khăn quàng cổ. Nhìn oải thiệt tình. Lâu nay cứ nghĩ mình già, đã tới tuổi cổ lai hy ai dè gặp ổng thấy mình còn trẻ chán. Ổng than ổng bệnh, đủ thứ bệnh, ai bệnh chi ổng bệnh nấy. Đi vào Sài Gòn khám, vẫn chưa tìm ra bệnh, ngoài bệnh huyết áp cao thì đã biết lâu nay. Ổng ho sù sụ như người bệnh lao nặng, có lúc ho tím cả người, mấy ngón tay quắp lại, mắt trợn lên kinh lắm. Hỏi ho bao lâu rồi, trả lời mới mấy hôm nay, từ khi vô khám bệnh, có lẽ không hạp với khí hậu trong này, theo ông thì tui bị bệnh gì? Hắn ngước mắt chờ tui trả lời. Ca này khó à nghe. Ổng đang lo, phán tầm bậy dễ có hậu quả nghiêm trọng lắm!
Lâu nay, bạn bè người quen có bệnh hay hỏi tui, vì tui cũng biết chút chút. Ba tui làm ngành y nên từ nhỏ tui đã quen với thuốc men, lại thêm có mấy năm học y khoa bỏ dở nửa chừng nên cũng có chút kiến thức. Nhưng nói nghe chơi, trấn an người có bệnh cho họ yên tâm thôi, thường tui khuyên nên đi xét nghiệm, siêu âm, đi khám bác sĩ là chính. Giờ nghe anh bạn hỏi, tui cũng chẳng biết nói sao vì thấy ông bạn có vẻ sợ bệnh, sợ chết quá, cũng khó trả lời. Tui bảo ông nên đi chụp phổi, ho kiểu này để lâu không tốt đâu. Tập an nhiên thì dễ sống hơn, lo lắng nhiều lại sinh bệnh. Cứ nghĩ bệnh thì đẻ ra bệnh, phớt lờ nó đi, kêu đừng dạ.
Chia tay bạn mà thấy xót xa, tội cho tuổi già, thương bạn mà cũng lại thương mình. Mới tuổi thanh niên khoẻ mạnh, lực lưỡng, yêu đời phơi phới, vui tươi đấy, ngoảnh qua ngoảnh lại đã thấy tuổi già ập đến, chân yếu, mắt mờ, bệnh hoạn tùm lum. Cứ thấy bạn nào bệnh, nghe tin có bạn nào mất, lại lo. Chợt nhớ cách đây mười mấy năm, cũng có lần tui cũng bị ho dữ dội như thế.
Hồi đấy, tui bị cao huyết áp, lo sợ lắm, đi đủ bác sĩ với bệnh viện. Biết đó là kẻ sát nhân thầm lặng, nên cứ đo thấy số cao là gọi cấp cứu, gọi miết đến độ bộ phận cấp cứu quen mặt và địa chỉ luôn. Có lần đi khám Bác sĩ Đặng Vạn Phước, nghe nói học ở Đức về, là con của Bộ trưởng Bộ Y tế thời VNDCCH, phòng mạch ở Lê Thánh Tôn. BS khám, cho toa. Về uống thuốc mấy hôm cũng ho y chang. Cứ tưởng mình bị phổi. Lúc đó đánh banh hàng ngày ở sân Phan Đình Phùng, có quen với BS Nhi, ông này chuyên trị phổi, là thành viên Hiẹp hội Lao phổi gì đó của Liên Hiệp quốc. Ổng bảo đến phòng mạch của ổng ở đường Bùi Thị Xuân. Nghe tim, nghe phổi xong ổng cho một toa thuốc dài dằng dặc. Nào là thuốc hen, thuốc suyễn, thuốc phổi, thuốc ho. Uống suốt tuần vẫn ôm ngực ho, người lả đi vì ho. Cứ sợ bị lao hoặc ung thư phổi, chẳng làm ăn chi được. Ra sân đánh trái banh qua đưa trái banh lại xong đứng ho làm ai cũng ngại. Cho đến một bữa đi ngang đường Pasteur, thời đó có bệnh viện Hồng Đức mới mở thì tình cờ gặp một tay đàn em làm bác sĩ phụ trách siêu âm ở đó. Thời ấy mới có máy siêu âm, hiếm lắm. Thấy tui ho quá, hắn bèn dẫn tui vô giới thiệu một bác sĩ nhờ khám dùm. Cũng vì thấy hắn nhiệt thành quá, cũng miễn cưỡng mà vào, cũng chẳng hy vọng gì. Nhất là khi thấy bà bác sĩ già, cung cách, khuôn mặt, cách ăn mặc theo kiểu cán bộ ngoài Bắc thì tui lại càng thiếu tin tưởng. Bà bác sĩ nghe tim, nghe phổi xong thì hỏi tui, gần đây có uống thuốc gì mới không. Tui đọc mấy thứ thuốc BS Phước cho, bà bảo về thay thuốc Concor đi, thuốc đấy làm cho ho đấy. Nghe thế thôi, nhưng tui chưa tin. Nhưng về, tui cũng nghỉ thuốc đấy, uống thuốc huyết áp của toa trước, không có Concor. Ai ngờ nghỉ thuốc hôm trước, hôm sau hết ho ngay, người bình thường như cũ. Lúc ấy, tui mới nể bà bác sĩ già ở bệnh viện Hồng Đức, tự nhủ đừng bao giờ có suy nghĩ không tốt về bất cứ người nào khi chưa biết rõ về họ. Thế mà khi bị ho, tui hỏi ông BS Phước, ổng bảo làm gì có phản ứng như thế. Từ đó, tui bỏ phòng mạch ổng luôn, không bao giờ trở lại. Tui ho là do phản ứng phụ của thuốc, chỉ thế thôi mà làm tui khổ cả hơn chục ngày, lo lắng và tốn kém.
Nhớ chuyện cũ, tui điện ngay cho bạn, hỏi trong toa thuốc huyết áp có Concor không? Nếu có thì dừng ngay thuốc đấy, đến bác sĩ đề nghị đổi thuốc khác vì ho. Bạn tui xác nhận trong toa có thuốc đó. Hai hôm sau, bạn kêu tui đi cà phê, mừng lắm, cứ bắt tay tui hoài, phục tui lắm, cứ mãi khen tui giỏi hê..hê, lại cứ thắc mắc sao tui biết trong toa có thuốc đó. Tui chỉ cười mím chi, không giải thích hê..hê. Cứ im lặng thế cho oai, ngu chi nói he...he.
4.8.2018
DODUYNGOC


Ở giữa đám đông hay đám hội hè
Người ta cứ bảo tôi là nhà này nhà nọ
Tôi chỉ muốn làm một nhà
Đó là gã nhà quê
Tôi không ở được chung cư
Vì tù túng chẳng khác nhà tù
Mảnh trời như chiếc khăn tay
Gió không còn lối thoát
Tôi không mặc được đồ hàng hiệu lắm tiền
Tôi thích quần jean của kẻ chăn bò
Áo ca rô mua giá rẻ ở quán ven đường
Tôi sợ veston cà vạt làm khó thở
Tay cài manchette cứng đờ
Đôi giày da làm tụ máu chân
Xin đừng trao cho tôi áo mão
Nhìn chẳng ra làm sao
Tôi thích nằm ngửa bên ruộng lúa bờ ao
Nhìn trăng sao
Và thấy mình tự do với trời đất
Tôi không thích nhìn những ngôi nhà chất ngất
Những căn nhà không có đất
Không khí chẳng có mùi bùn lầy rơm rạ
Chỉ có mùi rất lạ của khói xăng
Tôi muốn ngửi mùi hăng hăng
Của chiếc lá ngắt bên hàng rào vò nát
Mùi của cỏ cây lên tiếng hát
Ngây ngất giữa đồng xanh bát ngát
Tôi muốn nhìn hoa nở
Và trăng không bị nhốt bởi lầu cao
Muốn nghe lũ châu chấu cào cào
Nói chuyện cùng đám dế
Cắm cần câu chờ cá về rất trễ
Dưới cầu tre
Đám lục bình nụ tím vừa mới mở
Tôi khao khát mỗi đêm nghe đất thở
Cây rùng mình đón gió dưới sông lên
Chiều chạng vạng nghe trâu bò nghé ngọ
Cứ tưởng mình đang thuở khai hoang
Tôi thèm nghe con cá quẫy
Bìm bịp kêu chiều nước lớn bên sông
Tôi thích đi lông bông
Gởi nụ cười với làng trên xóm dưới
Tôi sợ những ánh mắt lạnh lùng phố thị
Những xiêm y rực rỡ với đèn màu
Tôi sợ nụ cười giả dối suốt đêm thâu
Của cô gái mệnh danh là kiều nữ
Tôi sợ đám người suốt ngày khoe chữ
Mê danh xưng và vỗ ngực thiên tài
Những ngôi đền phủ kín bụi trần ai
Chen chúc sống không còn không khí thở
Tôi thèm chút mắm ruốc và trái ớt xanh
Miếng cá khô ngọt bùi đầu lưỡi
Con cá lòng tong
Mớ rau thơm ngắt ngoài bờ dậu
Ăn vào khoái khẩu
Tôi ngại nhà hàng lung linh
Có người hầu và nhạc xập xình
Ăn với khăn quàng cổ
Chung quanh toàn giọng nổ
Tôi thiết tha nghe đất trở mình
Mạn thuyền sóng vỗ
Nghe người đàn bà hàng xóm ru con
Những bài ca dao mai mốt sẽ không còn
Tôi thích nhìn những chiếc khăn rằn
Cái nón lá và áo bà ba
Những cụ bà hom hem móm mém nhai trầu
Quãng thời gian rất dài bà để lại ngoài kia
Gọi mọi người bằng thằng Ba thằng Bảy
Tôi muốn làm người nhà quê
Để mỗi ngày được nhìn bóng núi
Thấy con chim bay trên trời
Và cá lội bờ ao
Và đọt tre xanh thẫm ở trên cao
Tôi muốn làm gã nhà quê
Lúc đất nước hiểm nguy ấn ngay súng vào tay và bắn
Lúc yên bình người ta quên lãng
Có thể bị đạp xuống bùn đen
Người nhà quê chẳng cần giấy khen
Người ta cần tình nghĩa
Những người tốt đã nằm ngoài nghĩa địa
Tôi muốn là gã nhà quê
Nhưng mọi người không chịu
Họ bảo tôi không biết uống rượu
Mà cũng chẳng thích bia
Cũng chẳng chịu nhậu nhẹt lia chia
Ca vọng cổ sáu câu xuống xề còn dở ẹt
Thì làm sao mà nhà quê được
Thì thôi đành làm gã nhà quê nửa mùa
Mỗi ngày rú xe lăng quăng giữa những đường cua
Lẩm nhẩm nhạc tình
Để thèm quê
Hê..hê
2.8.2018
DODUYNGOC

MKRdezign

Biểu mẫu liên hệ

Tên

Email *

Thông báo *

Được tạo bởi Blogger.
Javascript DisablePlease Enable Javascript To See All Widget